Dùng nhị nguyên luận cổ, giải kim (P.1)
Thứ Hai, 19 tháng 6, 2017
III. Giải nhân loại nay.
1. Dùng nhị nguyên luận cổ, giải kim.
Có lẽ đã đến lúc tri thức
nhân loại phải thừa nhận những sai lầm. Chỉ khi đó nhân loại mới có thể khắc
phục, sửa sai nhằm rõ biết sự thật về sự sống.
Khi nhìn ở góc nhìn tổng
thể, khách quan, bạn sẽ thừa nhận “Nhân loại đã qua rồi thời con người học hỏi,
rèn luyện nhân cách đạo đức, nuôi dưỡng tâm hồn, tình yêu thương”. Đó là điều
rõ thật. Để nhận biết điều này quả thật là không khó, bạn hãy nhìn lại việc
giáo dục ở toàn nhân loại.
Phải chăng việc rèn luyện
đạo đức con người đã bị xem nhẹ, không còn chú trọng như xưa?
Việc giáo dục ở trường lớp
chịu sự chi phối tác động của ngành giáo dục. Ngành giáo dục thì lại chịu áp
lực từ nhu cầu của xã hội và ở những nhà quản lý không sáng rõ, giáo dục đã
chạy theo thành tích tăng trưởng hàng năm.
Thêm nữa, do việc trói vào
địa vị, quyền lợi, “cơm áo gạo tiền”, việc thiếu tâm huyết ở những người làm
công tác giáo dục và giới hạn về tri thức mà ngành giáo dục đã không có những
hướng cải cách, thay đổi thích hợp. Việc rèn luyện phẩm cách con người đã trở
thành thứ yếu và phai nhạt theo căn bệnh thành tích hão huyền.
Còn việc giáo dục ở gia đình
thì gần đây đã không là vấn đề được quan tâm đúng mực của những bậc làm cha mẹ
và ở người lớn. Mỗi người đều phải bương chải, lo toan cho cuộc sống, kiếm tiền
mà gần như giao hẳn việc giáo dục thế hệ trẻ cho trường học. Thiếu sự quan tâm
giáo dục ý thức sống, việc sớm nắm giữ trong tay khoản tiền lớn, những cám dỗ
của lối sống đua đòi, hưởng thụ thế hệ trẻ đã không tôi luyện ý thức sống, nhân
cách cũng như hàm thụ đời sống nội tâm.
Từ đó, xã hội con người tạo
ra một thế hệ sống phần lớn chỉ biết nghĩ đến bản thân, tự tư, tự lợi, ích kỷ,
ham muốn thể hiện bản thân đến mức ngông cuồng xem nhẹ mạng sống, coi thường
nhân cách, giá trị người khác và cả chính bản thân.
Cội nguồn những sai lầm
trong việc giáo dục phát khởi từ đâu?
Trước hết, tôi sẽ xét vấn đề
giáo dục ở Phương Đông. Sau một thời gian dài người Phương Đông theo đuổi việc
rèn luyện đạo đức, nuôi dưỡng tinh thần, nội tâm mà không đem lại sự giàu có,
ấm no, hạnh phúc cho xã hội con người. Người Phương Đông mới nhìn nhận sự thua
kém về mặt khoa học kỹ thuật và vật chất so với người Phương Tây.
Từ đó, con người đã du nhập
nền văn hóa tư tưởng Phương Tây vào Phương Đông. Nhờ vậy mà lượng tài sản, của
cải, vật chất ở Phương Đông ngày càng phong phú, đa dạng. Do mãi chạy theo việc
sản xuất vật chất, của cải mà người Phương Đông quên bỏ việc hàm dưỡng nội tâm,
tình yêu thương.
Từ bao giờ lối sống thực
dụng Phương Tây len lõi, chiếm lĩnh ý thức hệ người Phương Đông?
Điều này góp phần bộc lộ rõ
nét việc phân tầng giàu nghèo. Con người nhiều gian ngoan thủ đoạn, tàn độc,…
Tình cảm con người không còn giữ được sự thuần khiết, sáng trong như khi con
người sống với lối sống giàu tình cảm, nồng hậu của người Phương Đông cổ xưa,…
Những vết rạn nứt trật tự xã hội hình thành, cuộc sống con người ngày càng ngột
ngạt, nội tâm ở mỗi con người gần như trở nên rỗng không, bấn loạn, vọng động,…
Đó là những dấu hiệu đặc trưng để nhận biết xã hội Phương Đông đang bước vào
khủng hoảng, Xã hội rối ren, biến loạn, nguy cơ đổ vỡ sự yên bình, hài hòa,…
nơi cuộc sống con người.
Bạn hãy tự “xét lại”.
Một ngày nào đó con người
chỉ biết sống ích kỷ cá nhân với những tham lam, si mê, sân hận,… liệu khi ấy
xã hội con người có ổn định, bình yên, có tồn tại được không?
Kế đến, tôi lại xét vấn đề
giáo dục của Phương Tây. Đích đến của việc phát triển xã hội ở người Phương Tây
cổ xưa là tạo ra thật nhiều của cải, vật chất.
Do đó, mục tiêu của ngành
giáo dục Phương Tây là học hỏi để sản xuất ra của cải, vật chất qua những sáng
kiến, chế tạo, phát minh ra những thành tựu khoa học kỹ thuật và kể cả việc xâm
lược, cướp sản vật từ nơi khác.
Trải qua thời gian dài tạo
ra sản phẩm vật chất để trở thành những quốc gia cường thịnh nhưng lòng con
người vẫn không an, đất nước vẫn có chiến loạn, xã hội vẫn rối ren,…
Vì thế, các nhà tư tưởng
tiến bộ mới sang học hỏi những cái hay ở Phương Đông đem về áp dụng ở Phương
Tây nhằm an định xã hội nhưng họ cũng không thể tìm ra được con đường để nhân
loại tiến đến nền văn minh, công bình, tiến bộ và hạnh phúc.
Kế thừa tư tưởng truyền
thống Phương Đông, người Phương Tây đã xây dựng nên các phương pháp rèn luyện
kỹ năng sống. Phương pháp lãnh đạo, quản lý. Phương pháp thu phục lòng người -
Đắc nhân tâm,…
Việc làm đó chỉ có công dụng
an định nội tâm của một bộ phận không nhiều những người không bị trói trong nỗi
lo “Cơm áo gạo tiền” còn những thành phần đang rơi vào vòng xoáy của chủ nghĩa
thực dụng cơ hồ không có giá trị.
Bởi lẽ khi sự hiểu biết con
người rơi vào nhị nguyên thì càng lúc tư duy, nhận thức nhân loại càng bị trói
chặt trong màng lưới vô minh đối đãi.
Muốn thoát ra khỏi tấm lưới
nhị nguyên thì nhân loại sẽ cần phải trả lời rốt ráo, sáng rõ những câu hỏi đại
loại như:
Khởi nguồn của sự sống?
Sống để làm gì?
Vì sao phải sống lương
thiện, biết yêu thương?
Con người giành giật phần
hơn, tham đắm thọ hưởng có gì là không tốt?
Ai cũng phải chết cả, sao
phải sống thanh cao để nhận lấy kết quả “cơm ăn không đủ no, áo mặc không đủ
ấm”?...
…
Khi chưa trả lời được những
câu hỏi trên thì xã hội con người sẽ mãi là lệ thuộc vào quy luật “Con nước
ròng, con nước lớn” không kém phần tàn khốc, nghiệt ngã.
Lại lui về quá khứ hơn 2500
năm ở Ấn Độ.
Lúc bấy giờ xã hội Ấn Độ đã
có sự phân chia giai cấp rõ rệt gồm 4 thành phần chính yếu. Trong đó, Sát đế
lợi là giai cấp thống trị quản lý xã hội về chính trị, quân sự và luật pháp. Bà
la môn bao gồm giới Tăng lữ là thành phần toàn quyền quyết định về tư tưởng,
tín ngưỡng, lễ nghi và chi phối cả vấn đề luật pháp ở các quốc gia quanh lưu
vực sông Hằng. Tỳ xá bao gồm những thương gia, những người buôn bán, là thành
phần chi phối xã hội thông qua lĩnh vực kinh tế. Thủ đà la bao gồm những người
thợ thủ công như cắt tóc, thợ may, thợ rèn,… Đây là thành phần “thấp cổ, bé
miệng” của xã hội.
Theo quy định thì thành phần
Thủ đà la không được trực tiếp đối diện với 3 thành phần trên, phải chấp nhận
thân phần hèn mọn, hạ tiện.
Tuy nhiên, vẫn còn có một
thành phần mạt hạng, thấp kém hơn bao gồm thành phần Chiên đà la, những người
cùng đinh và nô lệ. Những thành phần này có đời sống vô cùng lam lũ, khốn khó,
thân phận hèn hạ, nhỏ nhoi,… Nếu chỉ vô tình chạm phải một người trong 3 thành
phần “ăn trên, mặc trước” - Sát đế lợi, Bà la môn, Tỳ xá thì sẽ bị giết ngay
lập tức hoặc buộc phải làm nô lệ phục dịch suốt đời.
Nhìn vào bối cảnh xã hội Ấn
Độ cổ xưa tôi chợt nhận ra “Dường như không có nhiều sự khác biệt giữa quá khứ
và hiện tại cũng sang hèn, giàu nghèo, đói no, lạnh lùng, tàn độc, yêu thương,
khinh ghét,…”.
Cũng là một tấm màng vô minh
nhị nguyên bủa vây.
Đã đến nơi Phật đản sinh lẽ
nào tôi lại không đi tham bái Người. Tôi lặng lẽ đến bên Phật Thích Ca ngay nơi
cội bồ đề trước đêm Người thành đạo. Người lặng lẽ ngồi đó, tôi lặng lẽ vọng
bái rồi mải nhìn ngắm vẻ đẹp gần gũi, sáng rỡ nơi Thái tử Tất Đạt Đa.
Tôi chợt nghe tự tâm đánh
thức niệm “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng
tắc kiến Như Lai”.
(Bất cứ sự vật, hiện tượng nào mà người học Phật nhìn thấy, nhận biết
nơi sắc chất, hình tướng đều là cái thấy hư dối, không đúng thật vì lẽ chúng
luôn luôn tàn hoại, thay đổi liên tục trong từng niệm, từng khắc, từng giây,
từng phút. Chỉ khi nào người học Phật nhìn thấy các pháp không tựa ở nơi hình
tướng, sắc chất thì cái thấy đó mới đúng là thật tướng của vạn pháp, là cái
thấy đúng thật, với cái thấy cùng tột đó thì người học Phật mới thấu rõ Như
Lai).
Chánh định giúp tôi sực
tỉnh. Nếu dùng cái nhìn có sắc tướng sao có thể thấy được chân Phật?
Tôi khẽ nhắm mắt lại, xoay
cái nhìn vào tự tâm. Ở nơi đó, tôi len vào tâm thức của Thái tử Tất Đạt Đa. Nơi
tâm thức của Thái tử có một vầng mây xám xịt, u ám, ảm đạm,… của sắc trời giông
tố, báo hiệu một trận mưa giông lớn sắp xảy đến, Thái tử vẫn bình thản, điềm
tỉnh nhìn vào chiếc lá, hạt cát, bông sen, bát sữa của bé gái Tu Già Đa,… hòa
quyện trong đám mây đen kịt.
Hồi lâu, Thái tử khẽ mỉm
cười, nụ cười của Thái tử giúp tôi nhận ra “Người đã thấu rõ trong vạn vật cùng
tột cũng chỉ là đất, nước, gió, lửa và hư không.
Lại thấy Thái tử bình thản
quán chiếu nguyên do của việc đất, nước, gió, lửa, hư không kết hợp lại tạo ra
xác thân người.
Rồi Người nhận biết khi xác
thân tàn hoại thì mọi thứ sẽ về đâu?
Người thâm nhập cả vào cõi
giới vô hình. Cứ thế, Thái tử quán chiếu tất cả vạn pháp, nhận biết Tánh không
của vạn pháp, thấu rõ bản tâm.
Trận mưa giông bấy giờ đã
ngừng dứt, sao mai vừa ló dạng cuối trời, Thái tử vẫn tĩnh tại thiền định.
…
Tôi dừng lại và quán chiếu
về mọi việc vừa mới xảy ra trong tâm thức của Thái tử Tất Đạt Đa.
Vầng mây xám đen kịt chính
thật là màng lưới nhị nguyên vô minh đã từ lâu trói buộc tâm thức con người,
Thái tử muốn thoát ra khỏi sinh tử chỉ vì Người cũng bị trói trong lưới nhị
nguyên sinh tử đầy khổ đau. Người thoát ra khỏi vô minh vì lẽ Người thấu rõ
“Không có gì đáng được gọi là sinh tử cả”.
Tất cả chỉ là duyên sinh,
luân hồi, nghiệp quả,… Muốn gỡ bỏ luân hồi, nghiệp quả, sinh tử thì con người
phải thoát ra khỏi tâm phân biệt, dính mắc nơi nhị nguyên, hành trì để sống
được với bản tâm chân thật, nơi con người chưa từng được sinh ra. Trận mưa
giông lớn vào đêm Phật thành đạo cũng chính là lúc Phật dùng trí tuệ bát nhã
quét sạch, cuốn trôi tấm lưới vô minh ra khỏi tâm thức. Sao mai mọc lên thể
hiện trí tuệ bát nhã của Phật đã sáng rõ xuyên suốt 3 cõi 6 đường và thấu triệt
3 thời - Quá khứ, hiện tại, vị lai.
…
Tiếp đến, tôi lần theo con
đường hoằng đạo, hành đạo và cả khi Phật nhập diệt. Quả thật, Phật không hề có
ý định lập ra đạo Phật. Đạo Phật ra đời là do tâm ý phân biệt của con người.
Phật nhập diệt là thời điểm đánh dấu sự chững lại và đi xuống của chánh pháp.
Trong giáo lý của Phật Thích Ca giả lập ra làm 2 pháp - Pháp thế gian và pháp
xuất thế gian.
Cả hai pháp thế gian và xuất
thế gian không thể tách lìa mà cùng tồn tại bổ trợ cho nhau.
- Pháp thế gian là những
pháp liên quan đến cuộc sống hàng ngày của con người cùng muôn vật và chứa đựng
cả sự hiểu biết giác ngộ hoàn toàn, trí tuệ bát nhã.
- Pháp xuất thế gian chính
là các pháp nơi cõi vô hình, việc giải thoát hoàn toàn khỏi luân hồi.
Thực tế là sau khi được Phật
chỉ bày và cả khi Phật nhập diệt thì số lượng người học Phật đạt được sự giải
thoát hoàn toàn quả thật là không ít. Điều này đồng nghĩa với việc họ đã đạt
pháp xuất thế gian nhưng gần như không mấy ai có trí tuệ theo kịp pháp thế gian
nhằm nối pháp cho sự hiểu biết giác ngộ hoàn toàn. Vì lẽ đó theo thời gian
chánh pháp của Phật Thích Ca bị lu mờ dần.
Tôi dần nhận ra nguyên nhân
làm cho chánh pháp không còn sáng rõ, mất đi tính thực tiễn, tính khả dụng và
ngày càng xa rời cuộc sống con người.
- Nguyên nhân thứ nhất làm
cho chánh pháp bị mai một là do con người đã giới hạn, nhốt chánh pháp vào đạo
Phật.
- Nguyên nhân thứ hai là do
tâm nguyện của người học Phật đời sau không dũng mãnh cầu trí tuệ bát nhã, sự
hiểu biết giác ngộ tột cùng ở pháp thế gian mà chỉ cầu sự giải thoát hoàn toàn
cho cá nhân ở pháp xuất thế gian.
- Nguyên nhân thứ ba là
người học Phật bị trói vào việc truyền trao Phật pháp dựa vào hai chữ “Tùy
duyên”.
Những sai lầm này bắt nguồn
từ nơi Nhị Tổ A Nan và Sơ Tổ Ca Diếp.
Cụ thể, khi biết rằng gần
đến ngày nhập diệt Phật Thích Ca đã đôi ba lần gạn hỏi ngài A Nan cùng đại
chúng có gì không rõ biết thì cứ tuần tự trình bày Như Lai sẽ giảng giải cặn
kẽ. Bấy giờ, ngài A Nan đã đạt quả Dự lưu và không ít người học Phật nơi đại
chúng đạt 1 trong 4 quả vị Thánh. Những người đạt 1 trong 4 quả vị thánh là
những bậc bất thối chuyển sẽ mau chóng liễu thoát sinh tử.
Đáng tiếc là ngay cả đến
người học Phật đạt quả vị A la hán cũng chỉ cầu giải thoát nên tâm Bồ tát phần
nhiều không dũng mãnh vì thế đã không có những câu hỏi nhằm làm sáng rõ chánh
pháp.
Cho đến khi Phật nhập diệt
ngài A Nan vẫn chỉ đạt được quả Dự lưu, điều này cho thấy ngài A Nan rất đa văn
nhưng bị trói vào sự ỷ lại là em họ của Phật sẽ được Phật nâng đỡ. Trên thực tế
Phật không thể làm điều đó, đối với pháp xuất thế gian thì tự mỗi người phải
hành trì, bước đi trên đôi chân và nhận biết bởi do sự hiểu biết của tự thân.
Phật nhập diệt, ngài Ca Diếp đã dùng một câu nói giúp ngài A Nan sau một đêm
liên tiếp chứng 3 quả vị còn lại của Thánh quả.
Tại sao Phật không giúp được
A Nan mà ngài Ca Diếp lại làm được điều đó?
Vì lẽ lúc Phật tại thế ngài
A Nan ỷ lại dựa dẫm vào Phật mà không thể tiến tu. Đến lúc Phật nhập diệt, chỗ
dựa vững chắc không còn nên khi bị ngài Ca Diếp khiển trách, không cho dự vào
buổi kết tập kinh điển nên sinh tâm hổ thẹn, miên mật thiền định, dứt bỏ tâm
phân biệt, dính mắc và mau chóng chứng quả A la hán
Ngoài ra, ngài Ca Diếp còn chủ trì cho việc
kết tập kinh điển hoàn mãn nhưng cả Sơ Tổ Ca Diếp, cả những vị Tổ về sau chỉ
cầu pháp xuất thế gian, không cầu sự hiểu biết của pháp thế gian, làm Phật sự
tùy duyên nên dần dần khiến chánh pháp xa rời xã hội và giới hạn chánh pháp vào
trong đạo Phật.
Qua đó, ta thấy các vị Tổ
đạt tâm giải thoát nhưng lại nhốt thân, nhốt chánh pháp vào đạo Phật. Đến các
vị Tổ và người học Phật đời sau nữa thì họ không chỉ nhốt thân cùng giáo lý,
kinh điển vào đạo Phật mà còn nhốt thân vào Pháp. Do không phá bỏ được cái tôi
- bản ngã mà mỗi người học Phật tạo lập tông giáo riêng làm chia rẽ, tách rời
các pháp, làm rối loạn, hỗn độn chánh pháp. Không ít người học Phật rơi vào lợi
dưỡng, lợi danh gây ngộ nhận, làm ảnh hưởng đến giá trị Tam tạng kinh của Phật
Thích Ca.
Giá như những ngày Phật gần
nhập diệt mà bên Người còn có ngài Xá Lợi Phất, ngài Mục Kiền Liên thì chánh
pháp sẽ được sáng rõ thêm. Ngài Xá Lợi Phất thì trí tuệ xuất chúng, ngài Mục
Kiền Liên thì bi nguyện dũng mãnh vì xiển dương chánh pháp chân thật mà quên bỏ
thân mạng. Thật là hai vị Bồ tát lớn ở thế gian thời Phật tại thế, đáng được
kính ngưỡng, vọng bái.
Nói thêm về việc chia tông,
rẽ giáo làm cho chánh pháp bị mai một, đánh mất chân giá trị.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét