Ngạo Thuyết Là Phật Đã Thành_Giải Mã Đạo Phật 2 0
Thứ Năm, 6 tháng 6, 2019
Ngạo Thuyết Là Phật Đã Thành
Chuyện kể rằng,
có một viên quan được triều đình bổ nhiệm về làm Thái thú Hàng Châu, trước khi đi
viên quan này đến tham bái và hỏi hòa thượng Phong Can “Bạch hòa thượng! Ở Hàng
Châu có vị cao Tăng nào không?”. Hòa thượng Phong Can đáp “Có hai vị đại sĩ là
Hàn Sơn và Thập Đắc, đó là hóa thân của Văn Thù và Phổ Hiền, họ hiện ở chùa
Quốc Thanh”. Sau khi nhậm chức xong, quan thái thú liền viếng chùa Quốc Thanh.
Chư Tăng chùa Quốc Thanh nghe tin liền ra đón rước. Khi đến chùa, quan thái thú
hỏi về Hàn Sơn và Thập Đắc thì chư Tăng chỉ xuống nhà bếp. Quan thái thú đi
xuống nhà bếp liền trông thấy Hàn Sơn và Thập Đắc đang chuyện trò, cười nói rất
vui vẻ. Quan thái thú liền quỳ xuống, đảnh lễ ra mắt. Hàn Sơn và Thập Đắc nhìn
thấy quan thái thú hành đại lễ liền nói với nhau “Di Đà đã nhiều chuyện rồi”.
Nói xong Hàn Sơn và Thập Đắc tung mình, tháo chạy vào núi mất dạng.
Lúc bấy giờ, người
ta đi vào hang động của Hàn Sơn thì thấy trên vách đá nhiều bài thơ rất hay và
có giá trị về Phật pháp. Quan thái thú rất buồn bã vì Văn Thù và Phổ Hiền không
khứng nhận việc ông hành đại lễ, ông liền trở về chốn cũ để ra mắt Di Đà tức hòa thượng Phong Can, nhưng khi đến nơi
mới hay ngài Phong Can cũng vừa thị tịch. (Lược trích từ một truyện cổ Phật
giáo có nguồn gốc Trung Hoa)
…
Qua câu chuyện
này cùng với những dị bản hiện tồn có ở kinh sách đạo Phật tín đồ Phật tử từ đó
truyền miệng cho nhau và mặc định rằng “Các vị Bồ tát, Phật vẫn thường thị hiện
ở đời để giáo hóa chúng sanh. Nhưng khi giáo hóa chúng sanh, những vị Bồ tát,
Phật luôn ẩn thân bồ tát, thâm tàng, bất lộ; hễ hành tung bại lộ, họ sẽ ẩn mất,
hoặc thị hiện nhập diệt.
Cuối cùng, Phật
giáo Trung Hoa gieo rắc một niềm tin mê muội rằng người chứng ngộ không được tự
nói mình chứng ngộ. Và người học Phật cả Tăng lẫn tục ở khắp mọi nơi trên thế
giới, trong đó có cả Việt Nam đều mê mẫn, cuồng tín với chế định “Người chứng
ngộ không được tự nhận đã chứng ngộ”.
Bây giờ chúng
ta hãy lần tìm xem nguồn gốc, xuất xứ của chế định “Người chứng ngộ không được
tự nhận đã chứng ngộ”.
Phải chăng Phật
Thích Ca là người lập ra chế định “Người chứng ngộ không được tự nhận đã chứng
ngộ”?
Thời Phật Thích
Ca tại thế, người học Phật xuất gia ở giáo đoàn Khất sĩ với tâm trong sáng,
thuần khiết nên hãn hữu lắm mới có người hám danh, tham lợi, ham chứng đắc. Và
người Ấn Độ cổ, người dân ở các nước quanh lưu vực sông Hằng thuở xa xưa cũng
không quá nặng lòng về việc ai chứng đắc, ai chưa ngộ. Việc khất thực tuần tự
theo thứ lớp của giáo đoàn khất sĩ, việc cúng dường y bát, vật thực ở người mộ
đạo là tùy tâm, tùy duyên, tùy cảnh. Do đó chế định ngăn ngừa việc hám danh,
tham ngộ chứng đắc vốn không ra đời thời Phật Thích Ca tại thế.
Đạo Phật thời
Phật Thích Ca tại thế mộc mạc, chân phương với giáo lý chánh pháp rất căn bản
về Tứ diệu đế, Bát chánh đạo. Vấn đề chứng đắc, ngộ đạo không được đặt nặng.
Sau khi Phật
Thích Ca nhập diệt lâu xa thì sự ra đời của Vi Diệu Pháp, các Tạng Kinh, Luật,
Luận đã đóng góp cho giáo lý Phật đà ngày càng trở phong phú, đa dạng. Kinh
điển đại thừa thoát thai, pháp ngữ của các vị Tổ,… cùng với mặt bằng chung của
tri thức nhân loại nâng lên đã khiến sự hiểu biết của người học Phật tăng
trưởng vượt bậc.
Bên cạnh sự
hiểu biết nâng cao là tâm phân biệt ở loài người cũng tăng trưởng cùng với
những dính mắc, chấp thủ được – mất, hơn – thua, hay – dở, chân – ngụy, chánh –
tà,…
Đến các đời Tổ
ở Trung Hoa thì việc chứng ngộ được rạch ròi minh định, tâm phân biệt của người
học Phật ngày càng trở nên đặc thù và nặng tính dính mắc.
Sau thời Lục Tổ
Huệ Năng, thiền tông phát dương quang đại với các Tông phái danh tiếng lẫy lừng
như Tông Lâm Tế, Tông Tào Động, Tông Quy Ngưỡng, Tông Pháp Nhãn, Tông Vân Môn,…
cùng các cành nhánh, chi phái. Do nhiều nên loạn, bởi do gặp thời Thiền tông
hưng thịnh nên số môn sinh ở tông phái thiền là rất nhiều, và do có điều kiện
học hỏi giáo lý bài bản, chính quy nên tri kiến Phật môn ở giới Tăng sinh Thiền
tông là rất cao thâm, rất uyên áo.
Càng về sau,
Tăng sinh Thiền Tông càng bộc lộ rõ việc tu hành trên giấy, phần đa chỉ là
những con mọt sách chốn Phật môn. Do dính mắc tri kiến lập tri nên Tăng sinh Thiền
tông ít người thực sự chứng ngộ. Việc tu hành trên lý ở Tăng sinh thiền tông
“đặt để” thiền tông vào nguy cơ diệt môn bởi lẽ Tăng sĩ phần đa chỉ là những con
vẹt nhại lại tiếng người. Tăng sĩ thiền tông lúc bấy giờ nói lý trên mây, trên
đọt song tựu trung lại cũng chỉ là việc nhai lại đàm dãi của người xưa.
Để tránh họa
diệt môn các danh gia Thiền tông ở các Tông phái Thiền đã chú trọng đến việc
lựa chọn Tăng sinh chứng đắc để truyền thừa Tổ vị nhằm giữ gìn mạng mạch Tông
môn. Từ yêu cầu cần hành nhân chứng đắc giữ gìn Tông môn đã sản sinh ra một
dạng Tăng sinh hám danh, tham lợi, ham chứng ngộ.
Do bởi việc học
Phật trên lý nên số lượng Tăng sinh ham thích thể hiện không hề ít và việc nắm
giữ chức vị giáo chủ Tông phái vô hình chung đã trở thành là mục tiêu thâu đoạt
của những Tăng sinh chưa chứng ngộ, hám danh.
Bên cạnh việc
giành giật vai trò Tông chủ, việc thể hiện đã chứng ngộ cũng góp phần mang lại
danh lợi cho những Tăng sĩ lầm đường. Kết quả là hành giả chứng ngộ chân chính
– Long Tượng ẩn mình, còn bọn học giả hám danh – chồn cáo chốn Phật môn lại hóa
hiện, biến tướng đa đoan.
Thiền tông
Trung Hoa rơi vào pháp nạn Mạt pháp. Và nhằm để ngăn chặn việc phát tán chủng
loài Tăng Bảo hám danh, tham ngộ, giả chứng đắc. Các vị Tổ ở các Tông phái
Thiền bày ra phương tiện khéo “Đoạn Pháp Chứng Đắc” ở các vị hành giả giả danh.
Chế định “Người chứng ngộ không được tự nhận đã chứng ngộ” được thành hình và
lan tỏa vào tri kiến của người học Phật Trung Hoa rồi dần hòa vào tri kiến Phật
học của nhân loại.
Kết quả là
người học Phật đời sau nhẫn đến ngày nay đã trói cột sự hiểu biết biên kiến,
phiến diện “Người chứng ngộ không được tự nhận đã chứng ngộ”.
Thật ra chế
định “Người chứng ngộ không được tự nhận đã chứng ngộ” chỉ nhằm vào mục đích
ngăn ngừa người học Phật hám danh, tham ngộ chứ không phải là phương tiện chặn
lối người chứng ngộ nắm giữ vai trò Tông chủ thiền môn. Chế định “Người chứng
ngộ không được tự nhận đã chứng ngộ” có vai trò sơ loại một lượng lớn Tăng sĩ
hám danh, tham ngộ kém bản lãnh và các vị Tổ sẽ dùng pháp phương tiện để chọn
mặt gửi vàng, chọn lọc Tăng sinh chứng ngộ đảm nhận vị trí Tông chủ Tông môn.
Pháp phương
tiện “Như người uống nước, nóng lạnh tự biết” đã từng là một pháp phương tiện
khéo để nhận diện hành giả chứng ngộ. Tuy nhiên, giả pháp “Như người uống nước,
nóng lạnh tự biết” cũng mau chóng bị bọn sa môn nghĩa học hám danh, bọn môn đồ
tri giả tham ngộ khám phá và lạm dùng.
Hiển nhiên là
với danh gia hành giả thì những Tăng sinh giả trá việc chứng ngộ sẽ dễ dàng bị
bóc trần bởi lẽ “Vỏ quýt dày, móng tay nhọn”. Trước hàng thật thì hàng giả sẽ phải
lộ diện, việc này chẳng thể khác.
Song do số lượng
người học Phật hám danh, tham ngộ ở đất nước Trung Hoa lúc bấy giờ là rất
nhiều, và mặt bằng tri thức Phật học ở đại chúng học Phật Trung Hoa đương thời hiển
nhiên là kém cỏi hơn rất nhiều so với sự ma mãnh, gian trá của giới học Phật
xuất gia hám danh. Vì lẽ đó những lời xáo rỗng cùng việc gồm thâu lợi dưỡng,
lợi danh ở các vị Tăng Bảo qua các hình thức kêu gọi đóng góp công đức, phước
điền cùng các hoạt động mê tín dị đoan đã đẩy Phật giáo Trung Hoa ở thời điểm
đó vào pháp nạn diệt vong. Giới chính trị Trung Hoa vẫn luôn dõi mắt và nhận
diện được rằng “Con gà Phật giáo đã được nuôi vỗ béo tốt và đã đến hồi thịt”.
Thiền tông
Trung Hoa hưng thịnh một thời đã suy đồi từ nội tại và gần như bị xóa sổ hoàn
toàn khi giới chính trị Trung Hoa cất tay thu hồi các thùng tiền công đức,
phước điền, tài vật ẩn tàng ở hệ thống chùa chiền, tự viện một cách “danh
chính, ngôn thuận” trên danh nghĩa xóa bỏ tệ nạn mê tín dị đoan.
Việc thiền tông
Trung Hoa bị diệt vong ngoài yếu tố bối cảnh lịch sử xã hội và dã tâm thâu đoạt
của giới chính trị Trung Hoa cần phải kể đến sự thật là hành giả Thiền tông lúc
bấy giờ không có người chứng ngộ, không có bậc Long Tượng Phật môn xuất thế hộ
pháp. Chính vì lẽ đó Thiền tông Trung Hoa từ bấy đến nay vẫn cứ đắm chìm.
…
Bây giờ, chúng
ta hãy quay lại vấn đề chính - Ngạo Thuyết Là Phật Đã Thành.
Không sai! Ngạo
Thuyết chính thức xác định “Ngạo Thuyết Là Phật Đã Thành”.
Với nhiều người
lập ngôn này của Ngạo Thuyết dễ khiến họ cười lăn, cười bò, cười ra nước mắt.
Một số người khác sẽ kháo với nhau rằng “Gã này hám danh, tham ngộ đến phát điên,
phát cuồng”. Số khác lại nói “Đây là một kẻ giả danh bởi lẽ Phật, bồ tát khi
hóa hiện, nhập thế giáo hóa sẽ che giấu thân phận, rủi lỡ bị phát hiện là hóa
thân Phật, bồ tát là phải ẩn mất hoặc nhập diệt. Gã này ngang nhiên tự xưng là
Phật đã thành thì chắc chắn là tà sư, ma đạo”. Số khác lại cười khẩy “Hóa ra là
vậy và rời đi”. Một số khác lại hoài nghi “Có không ta? Sao Ngạo Thuyết dám
nhận mình là Phật đã thành,…
Những cung bậc
phản ứng trước lập ngôn “Ngạo Thuyết là Phật đã thành” sẽ là một câu chuyện dài
và cứ thế, cứ thế lan truyền đi… vô định.
…
Với người học
Phật xưa nay, việc chứng ngộ đối với học giả Phật học chân chính, đó là một
điều gì đó rất đẹp đẽ, rất mầu nhiệm và họ gần như mặc định rằng họ không thể
chạm đến.
Việc chứng ngộ
đối với hành giả chốn Phật môn thì luôn
là điều mà họ muốn chạm đến nhưng bản thân họ cũng không rõ biết được đích đến
mà họ mong mỏi – việc chứng ngộ thực sự là gì, chứng ngộ cái gì và chứng ngộ sẽ
như thế nào?
Do đó, từ xưa
đến nay người học Phật ở cả hai lề lối học giả và hành giả không bao giờ dám
nói rằng việc thành Phật, họ chỉ dám nói đến chứng ngộ và cũng không dám mổ xẻ
rốt ráo “Chứng ngộ là chứng ngộ điều gì?”.
Phật từ lâu xa
đã trở thành một điều gì đó, một đấng nào đó rất đỗi thiêng liêng, không thể
chạm đến. Và có một tư tưởng âm thầm mặc định rằng “Chỉ có Phật mới có thể thọ
ký việc thành Phật”. Đây là những tri kiến mê lầm bởi vô minh chồng lấp vô
minh. Do bởi không biết Phật, không rõ thế nào là giác ngộ giải thoát hoàn
toàn.
Ngạo Thuyết
từng viết ngày 27/12/2010 là ngày tôi đạt đóa vô ưu. Với lập ngôn đó đã từng có
rất nhiều người ra mặt chất vấn Ngạo Thuyết rằng sao lại cố tỏ vẻ mình là người
chứng ngộ. Có lẽ do không tin, do hẹp hòi, do đố kỵ mà một vài người trong số
đó đã không nhận diện được rằng đạt đóa vô ưu chỉ đơn thuần là một trạng thái
thoát ra khỏi muộn phiền, ưu tư nơi đời mộng.
Từ bấy đến nay
là một quãng thời gian không hề ngắn ngũi, Ngạo Thuyết vẫn đợi chờ một bậc Long
Tượng thoát thai nơi chốn Phật môn. Song điều đó đã không xảy ra và năm tháng
dần trôi giúp Ngạo Thuyết nhận ra rằng sự chờ đợi đó là vô vọng. Hiện tướng của
giới Tăng Bảo ngày nay ngày càng chứng thực được rằng chờ đợi Chân Long Sư hóa
hiện nơi đạo Phật ngày nay chỉ là việc tìm bắt bóng chim, tăm cá.
…
Trải qua gần 9
năm kể từ ngày đạt đóa vô ưu, đã có khá nhiều người biết và tìm đến Ngạo Thuyết
chỉ để dò hỏi một câu. Những người này đến hỏi một câu nhưng lại không ý thức,
không nhận thức được rằng câu hỏi đó sẽ khiến họ đánh mất một cơ hội nhận ra
bản lai diện mục của chính mình. Và câu trả lời của Ngạo Thuyết đã mang cho họ
sự thất vọng, thế nên sau khi nhận được câu trả lời bất toại ý, họ đã rời đi
lặng lẽ.
Câu hỏi họ đặt
ra luôn là Ngạo Thuyết có chứng ngộ không? Câu trả lời của Ngạo Thuyết trước
sau vẫn luôn là Có.
Người đến hỏi
câu “Ngạo Thuyết có chứng ngộ không?” phần đa đều hướng đến hai mục đích. Một
là họ muốn phân định Ngạo Thuyết là học giả hay hành giả. Hai là họ muốn vạch
trần sự giả trá, lừa lọc của Ngạo Thuyết cho đại chúng học Phật được biết bởi lẽ
họ tin rằng đại chúng đều biết “Người chứng ngộ không được tự nhận đã chứng
ngộ”.
Kết quả của
việc nhận câu trả lời “Có” ở Ngạo Thuyết khiến họ mặc định rằng đây chỉ là một
vị học giả Phật học, là một con két nhại tiếng người. Họ thoáng buồn vì họ mong
rằng Ngạo Thuyết nên thành thật hơn mà trả lời rằng “Không” để Ngạo Thuyết còn
có cơ may tiến bộ trên đường đạo. Nói một cách khác họ cũng khởi từ bi tâm,
muốn dẫn dắt, muốn khai ngộ cho Ngạo Thuyết.
Bằng vào định
kiến cá nhân họ, những người tìm đến đặt câu hỏi khó đã cả tin rằng “Họ đúng
tức Ngạo Thuyết đã sai”. Họ xót xa rằng “Thật đáng tiếc cho một người học Phật
lầm đường”. Mục đích vạch mặt cho đại chúng biết Ngạo Thuyết là một kẻ hèn hạ,
gian trá dối truyền pháp Phật không khiến họ vui hơn hay có chút niềm an ủi. Và
những người rời đi từ đó cũng tự chìm đắm vào những định kiến như thị nơi chính
mình. Thi thoảng, họ lại ghé xem những bài Ngạo Thuyết viết, xem thoáng qua vì tấm
lòng họ đã khép lại, cái tâm trong sáng, thuần khiết nơi họ đã úa màu.
…
Ở chốn Phật
môn, từ lâu những câu hỏi thuộc dạng xác thực việc chứng ngộ ở người học Phật
nhằm tìm dấu người chứng ngộ đã bị lạm dùng. Và với việc lạm dùng thì cách xác
thực người chứng ngộ đã không còn hữu hiệu.
Với những người
không chứng ngộ nhưng lại hám danh, tham ngộ thì trước những câu hỏi có tính
xác thực việc thực chứng họ sẽ ưỡm ờ bằng lối nói thiền ngữ, ám cơ “Như người
uống nước, nóng lạnh tự biết”. Và với cách trả lời theo lối gian lận thi cử này
nhiều người sẽ lầm tin rằng “Đây là một hành giả thực thụ, có chứng có đắc”. Và
tiếp theo đó, cách trả lời theo lối gian lận thi cử sẽ được nhân rộng và thế là
người học Phật giả danh chứng ngộ dần dần sẽ nhiều như số cát ở sông Hằng.
Và người học
Phật Việt Nam ngày nay có rất nhiều người che giấu sự mê ngộ của tự thân bằng
lối “Như người uống nước, nóng lạnh tự biết”.
Qua câu chuyện
“Như người uống nước, nóng lạnh tự biết” Ngạo Thuyết muốn cảnh tỉnh với mọi
người rằng “Đây mới chính là người học Phật gian trá, lọc lừa, ma mãnh”.
Ngạo Thuyết là
Phật đã thành. Câu nói này được xác lập bởi chính Ngạo Thuyết. Người nghe ngay
lập tức khởi tâm nghi “Có điều gì đó sai sai ở đây”.
Chúng ta hãy
thử phân tích rạch ròi vấn đề để minh định sự chánh tà, chân ngụy ở việc thành
Phật ở Ngạo Thuyết.
Phải chăng Phật
Thích Ca từng nói “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”? Câu nói
này Phật Thích Ca nói cách nay đã bao lâu rồi nhỉ?
Hơn 2500 năm kể
từ sau câu nói “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Và rồi nhân
loại mặc nhiên từ bấy đến nay không có ai thành Phật. Ở đây Ngạo Thuyết nhận
định rằng “Phải chăng đã có điều gì đó sai sai? Lẽ nào giáo lý Phật Thích Ca
không khả dụng, không thực tiễn, vì thế cho nên trải qua hơn 2500 năm pho Tam
Tạng giáo điển đã không giúp chúng sinh học Phật thành Phật?”,…
Chúng ta đều
biết Thái tử Tất đạt đa thành Phật dù rằng không có trong tay giáo lý giác ngộ
giải thoát. Giáo lý giác ngộ giải thoát là chiếc chìa khóa giúp người học Phật
sáng rõ chánh pháp, chứng ngộ pháp Phật. Vậy hơn 2500 năm qua cớ sao không có
chúng sinh thành Phật?
Sẽ có người học
Phật đuối lý, nói càn rằng “Không phải không có chúng sinh thành Phật sau ngày
Phật Thích Ca nhập thế mà chỉ chỉ là người thành Phật sẽ không tự nhận mình
thành Phật”.
Khi Thái tử Tất
đạt đa thành Phật, ai đã nhận biết và gọi Thái tử Tất đạt đa là Phật. Chẳng
phải là chính Thái tử Tất đạt đa xác lập mình là Phật. Và từ đó danh từ Phật
Thích Ca được lan xa khắp mọi nơi.
Tại sao người
học Phật ngày nay lại tự hạn cuộc vào chế định “Người chứng ngộ không được tự
nhận mình chứng ngộ”, “Phật không tự nói mình là Phật”?
Tại sao người
học Phật ngày nay không tin và không tôn trọng sự thật lại sa đà vào những
truyền thuyết với rất nhiều lầm mê?
…
Phật là gì? Câu
hỏi rất căn bản mà người học Phật ngày nay vẫn mãi mông lung, không thật rõ
biết.
Việc thành Phật
liệu có phải là điều bất khả thi hay không? Hẳn câu hỏi này đáng để người học
Phật ngày nay chiêm nghiệm, lĩnh hội thấu đáo.
Ngạo Thuyết là
Phật đã thành là sự thật hay sự dối lừa?
P/S:
Mời các bạn
tham khảo bài viết tiếp theo - Phật Đã Thành Là Như Thế Nào?
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét