Giải Công Án Đắc Pháp Của Thiền Sư Đức Sơn
Thứ Bảy, 3 tháng 10, 2015
Chỉ với
một thao tác thổi tắt đèn của Thiền Sư Long Đàm khiến sư Đức Sơn “hoát nhiên
đại ngộ”. Sư Đức Sơn đã ngộ ra điều gì mà buông bỏ mọi kiến chấp, sự hiểu biết
của tự thân mà quỳ xuống lạy tạ sư Long Đàm?
Được biết
sư Đức Sơn làu thông kinh Tạng, Luật, Luận. Vì thế trong lòng sư có phần kiêu
mạn với mớ kiến giải, biện luận sâu rộng,… về Tam tạng kinh. Sư muốn xuống
phương nam để nhiếp phục sư Long Đàm nhằm đáp đền ơn Phật vì cho rằng sư Long
Đàm là tà ma, ngoại đạo dối truyền pháp Phật. Vậy mà vừa đến phương nam lại
không thể trả lời xong một câu hỏi của bà lão bán xôi thì hào khí mười phần đã
giảm hết nửa. Lại gặp sư Long Đàm hỏi một câu khiến thần trí mê mờ, nhuệ khí
tiêu tan. Sư đành xin ở lại để tham học. Nhưng với sự hiểu biết, những kiến
giải,… thì sư chẳng thể quên mất. Sư vẫn thường cùng sư Long Đàm hỏi đáp pháp
yếu, kinh điển, giáo lý,… Nói về các pháp, sư thông suốt cả nên dù sư Long Đàm
có muốn truyền dạy cũng chẳng còn chỗ để truyền. Vì tâm của sư Đức Sơn như cái
ly nước đầy chẳng thể rót nước vào thêm.
Cho đến
lúc có nhân duyên, sư Long Đàm liền hỏi:
- Tam tạng
kinh, người đã sáng rõ cả. Đêm đã khuya sao lại chẳng về?
Rõ thật là
sư Long Đàm đã mở lời tiễn khách, sư Đức Sơn đành cúi chào, bước ra nhưng bên
ngoài trời tối đen, không nhìn thấy lối đi. Sư đành trở vào trình:
- Bên
ngoài trời tối đen.
Sư Long
Đàm thắp đèn đưa Sư. Sư toan tiếp lấy, sư Long Đàm liền thổi tắt.
Ngay lúc
đó, sư Đức Sơn tỏ ngộ. Câu tiễn khách của sư Long Đàm hàm ý “Phải chăng tự tâm
sư đã sáng rõ pháp Phật?”, sư Đức Sơn chưa kịp trả lời thì đã bị “đuổi đi”. Sư
bước ra, thấy “Trời tối”, liền vào xin ánh sáng.
Sư Long
Đàm đã thắp đèn cho sư nhìn thấy ánh sáng và đưa sang. Nhân lúc sư Đức Sơn toan
tiếp lấy đèn thì sư Long Đàm đã thổi tắt ánh sáng. Việc làm này khiến sư Đức
Sơn bừng tỉnh “Thì ra cái sáng rõ nơi Phật pháp mà bấy lâu ông chấp giữ chỉ là
cái thấy bên ngoài, do giáo lý, kinh điển và tâm phân biệt, dính mắc mà có chứ
chẳng phải cái thấy sáng rõ chánh pháp nơi tự tâm”. Vì thế nên trước câu hỏi
đốn chứng của bà lão bán xôi và sư Long Đàm ông không thể trả lời đặng vì thật
sự là chưa “Minh tâm, kiến tánh”. Việc hội được ý thiền, buông bỏ những kiến
chấp, lý giải,… khiến sư Đức Sơn trút bỏ được gánh nặng trong lòng,… hỏi sư Đức
Sơn làm sao không biết ơn sư Long Đàm truyền tâm pháp? Ngay sau khi buông bỏ
mọi kiến giải, chấp trước thì sư Đức Sơn đã chuyển vị, trở thành Tổ.
Việc đắc
pháp của sư Đức Sơn nơi sư Long Đàm có chỗ tương đồng với việc đắc pháp của sư
Huệ Khả nơi Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Sư Huệ khả cũng am tường kinh điển, giáo lý
thậm chí có thể làu thông Tam tạng kinh hơn cả Sơ Tổ Đạt Ma. Dù vậy ngay khi
ngài Đạt Ma bình thản, tự tại thì trong lòng sư Huệ Khả lại bấn loạn, không an.
Bởi do Sơ Tổ Bồ Đề hằng sống nơi chánh pháp còn sư Huệ Khả chỉ là hiểu biết
pháp mà không thật sống nơi chánh pháp.
Người học
Phật mà chỉ dừng ở nơi rõ biết và không sống được nơi chánh pháp thì ngày càng
bị trói vào pháp với những dính mắc tà kiến, chấp trước. Thật chẳng thể tự tại,
an lạc ngay nơi hiện đời thì nói gì đến việc liễu thoát sinh tử.
…
Tôi trình
bày việc giải công án cũng là phương tiện giả lập nhằm chỉ rõ nơi các vị Tổ đắc
pháp vô sanh. Việc đắc pháp là do người học Phật đã buông bỏ tâm phân biệt,
dính mắc,... Người học Phật khi tìm về chánh pháp nếu có đủ duyên thì hãy nên
học hỏi tận cùng sự hiểu biết sáng rõ của chánh pháp.
Sau đó,
người học Phật dừng lặng thiền định, quán chiếu nhằm rõ biết sự chân ngụy nơi
chánh pháp. Chỉ khi người học Phật hoàn toàn tin nhận và thường sống nơi chánh
pháp là sẽ tự dứt trừ đau khổ, ưu phiền, ra ngoài sinh tử.
Vấn đề
người học Phật cần làm không phải là chỉ dừng lại ở sự hiểu biết sáng rõ chánh
pháp mà là sống thật với chánh pháp nếu muốn vượt thoát khỏi luân hồi nơi 3 cõi
6 đường.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét