Giết các Đấng quyền năng vì 1 chữ Duyên(P.3)
Thứ Tư, 14 tháng 10, 2015
Cần phải nói thêm rằng hơn ai hết,
Ngài rõ biết không có việc mẹ Maria đồng trinh mà có thể sinh ra Ngài. Ngài đã
từng sống tủi hổ, đau lòng vì không rõ biết cha mình là ai, Ngài rất mong mỏi,
khao khát sự hiện diện của người cha thời niên thiếu. Ngài đã từng hận mẹ Ngài.
Điều này đã từng thể hiện khi có dịp mẹ Ngài tìm gặp Ngài, Ngài đã lạnh nhạt,
chối bỏ, rủa xả và thừa nhận chỉ là con của Đức Chúa Cha. Vì gốc khuất của mẹ
Maria Ngài đã có phần cực đoan coi thường phái nữ về sự đoan chính, thuần
khiết. Kết quả của thái độ kỳ thị phái nữ ở Ngài mà có thời điểm giáo lý của
Ngài đã xem nhẹ phẩm hạnh người nữ, phân biệt đối xử nữ giới.
Sự khuất tất này đã bị giấu nhẹm,
che đậy, khỏa lấp lâu xa gây nên sai lầm nông nổi, đáng tiếc. Cụ thể là đến
thời điểm hiện tại Giáo hội Công giáo vẫn phải trói buộc tín đồ tin nhận mẹ
Maria đồng trinh dù rằng mẹ Maria đã hạ sinh ra Ngài. Đây là điều không thể có
thật ở tri thức nhân loại thế kỷ XXI dù vậy vẫn có không ít tín đồ cuồng tín
của Ngài tin rằng “Mẹ Maria đồng trinh là sự thật”. Điều này khiến sự hiểu biết
ở môn đồ Công giáo bị lệch lạc, mê mờ dẫn đến cực đoan, bảo thủ. Đến bao giờ sự
thiếu xót này mới được môn đồ Ngài thừa nhận và đồng thuận?
Rồi thì Ngài trưởng thành trên mảnh
đất bị chia rẽ, chiến tranh loạn lạc. Tình yêu nước, lòng tự hào dân tộc Ngài
đã nghĩ đến việc giành lại tự do cho đồng bào, Ngài là người có cá tính, có tài
lãnh đạo do nguồn gốc xuất thân khiến Ngài sống trong mặc cảm, tự ti nhờ vậy
Ngài sớm có ý thức sống tự lập nơi một đất nước loạn lạc, bị chia cắt, xâm
chiếm. Nhưng chừng ấy là chưa đủ để Ngài kêu gọi mọi người tạo ra sự đoàn kết
dân tộc, người dân đất nước Ngài đã yếu đuối, bạc nhược dưới lưỡi gươm, vũ khí
và sự bạo tàn, khát máu của kẻ thù.
Bước qua thời niên thiếu chênh vênh
nhiều mặc cảm Ngài trưởng thành, chững chạc hơn những người đồng trang lứa.
Ngài đã già trước tuổi nhưng nhiệt huyết, hào khí tuổi trẻ lại cháy bỏng trong
trái tim thương yêu dòng tộc, tổ tiên. Những trăn trở, nghĩ suy và tình yêu
nước, lòng tự hào dân tộc đã thôi thúc Ngài hãy làm một điều gì đó cho đất
nước, giống nòi.
Một tấm lòng rộng mở đã mở ra một
lối tư duy táo bạo phi thường - Giành lấy chủ quyền đất nước, đòi lại tự do dân
tộc bằng vào sức mạnh vô hình, sự hỗ trợ của Đấng Sáng Thế, các Đấng quyền
năng. Một đức tin mãnh liệt là cái mà dân tộc Ngài rất cần, Ngài cũng là một
người mộ đạo nhưng niềm tin tôn giáo Ngài đang gắn bó không giúp Ngài cùng đồng
bào thoát khỏi kiếp nô lệ, thuộc địa.
Và… Ngài nhận ra một phép màu - đức
tin thần thánh sẽ giúp dân tộc giành lại quyền tự chủ. Một giải pháp “Tương kế,
tựu kế” được Ngài cùng cộng sự triển khai, dựa vào kinh Thánh gốc về sự ra đời
của một Đấng Cứu Thế Massiah vị lai. Ngài đã cùng cộng sự tạo ra những một vở
diễn hoàn hảo.
Những phép lạ, những lời tiên tri,
việc biến hóa từ một vài cái bánh, con cá thành rất nhiều bánh cùng cá,… chỉ là
xảo thuật ở một nhóm người có tổ chức, có mục đích,…
Thêm nữa, thông qua những lời nói,
những câu chuyện kể và khả năng PR, tạo scandan,… gây tiếng vang. Và… cách nay
hơn 2000 năm con người hãy còn mộc mạc, chân chất, dễ tin thế nên Ngài nghiễm
nhiên trở thành Đấng Chúa Con.
Sự thành công trong việc Ngài hóa
thân làm truyền nhân của Đấng Sáng Thế đã giúp dân tộc Ngài giành lấy phần nào
chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Dù vậy, sức ảnh hưởng của Ngài lại không đủ mạnh
ngay chính nơi Ngài tạo lập nên Kito giáo (Tiền thân của Công giáo sau này).
Đất nước Ngài đang truyền đạo đã tin
thuần Do Thái giáo thế nên Kito giáo đã bị ghép vào dị giáo và bị đàn áp dã man
trước và ngay cả khi Ngài làm giáo chủ, rồi Ngài qua đời thì Kito giáo gần như
mất gốc ngay chính nơi nó đã khai sinh.
Việc bị trù dập, đàn áp dã man mà
không triệt để đã tạo ra những cú sốc phản vệ kích thích niềm tự hào dân tộc,
kích thích sự tồn tại đức tin mạnh mẽ ở những người con Chúa, tạo ra tính cực
đoan, cuồng tín và niềm hận thù truyền kiếp mạnh mẽ.
Những người truyền đạo thuần thành
đã mở lối cho Kito giáo phát triển ra các quốc gia, vùng miền lân cận. Việc giữ
Đức tin về Thiên Chúa Mặc Khải đã được truyền giữ lâu đời do cùng có cội nguồn
Do Thái giáo đã giúp Kito giáo còn tồn tại, có một sự cuồng tín được giữ lửa ở
tín đồ đạo Kito.
Sở dĩ Kito giáo có thể thâm nhập
sang các vùng miền khác là do giáo lý Kinh Thánh có sự thay đổi mới mẻ, ưu việt
hơn những tôn giáo truyền thống với sự cứng nhắc, sơ cứng, giáo lý chết dẫn đến
niềm tin tôn giáo cũng hao mòn, lui sụt. Tôn thờ, lễ lạy, cúng bái mãi mà chẳng
mang lại nhiều lợi ích khiến tín đồ hoài nghi giá trị tôn giáo bản địa cũng là
lẽ thường - Bụt nhà không thiên, thói đời là thế.
Từ xưa đến nay, số đông loài người
tìm đến tôn giáo đều chất chứa trong lòng niềm mong cầu, sự kỳ vọng. Cũng như ở
đời thường, xã hội thực khi sở cầu, kỳ vọng không thỏa mãn thì người theo đạo
sẽ hoài nghi dẫn đến việc hai lòng. Thế là một sự thay đổi về tư tưởng đã nhen
nhóm ở một số người và vết dầu đã lan ra, Công giáo sống còn là nhờ vào điều
đó.
Do đâu mà Kito giáo phát khởi ở
Israel mà về sau lại thành tựu huy hoàng và dời đô về thủ phủ Vatican, nơi có
đấu trường đẫm máu La Mã?
Có một sự thật là trong khoảng 3 thế
kỷ đầu sau Công Nguyên, Ki tô giáo luôn luôn bị coi là bất hợp pháp trong toàn
đế quốc La Mã. Về mặt địa lý đế quốc La Mã lúc bấy giờ chiếm phần lớn diện tích
Châu Âu, lan rộng sang cả Trung Đông, Tây Á, Bắc Phi. Đây là điểm then chốt tạo
điều kiện cho Kito giáo bị biến chất bành trướng sức ảnh hưởng tâm linh ra phạm
vi thế giới.
Gần 300 năm sau kể từ khi Kito giáo
ra đời một nhà chính trị - ông Constantine, một vị tướng lãnh của Đế chế La Mã
đã nhận thức được điều đó - sự cuồng tin ở Tín đồ Kito giáo và ông ta đã tạo
điều kiện cho Kito giáo được chấp nhận ở La Mã, nơi mà trong nhiều thế kỷ đã
thanh trừng Kito giáo gay gắt nhất.
Và nhà chính trị đầy tam vọng, thủ
đoạn này đã biến Kito giáo thành một công cụ bành trướng quyền lực tạo ra tiền
đề cho những đế chế hùng mạnh dùng Kito giáo làm chiêu bài, “nắm bắt” tư tưởng,
tinh thần của quân đội, tín đồ cuồng tín để phục vụ dã tâm xâm chiếm thuộc địa,
đồng hóa, thủ tiêu những tôn giáo khác.
Nhà chính trị đầy tham vọng, mưu mô
Constantine đã thành công trong việc sử dụng, thao túng Kito giáo để bước lên
đỉnh cao quyền lực ở Đế chế La Mã, ông trở thành Đại đế Constantine.
Trên thực tế Constantine là một tín
đồ thuần thành của Đa Thần giáo, vị thần tối cao ông tôn thờ là Thần Mặt Trời.
Về sau khi trở thành Đại đế Constantine ông đã thao túng cả Đa Thần giáo nghiễm
nhiên tự phong giáo chủ tôn giáo thờ Thần Mặt Trời. Với Constantine thì Công
Giáo chỉ là một công cụ, một chiêu bài “nắm bắt” chính trị, quyền lực của ông.
Ông ra sức gầy dựng Công giáo để phục vụ tham vọng bất tận của cá nhân.
Lúc bấy giờ, Kito giáo được đổi tên
thành Công giáo và cây thập tự giá trở thành biểu tượng chính thức của những
tín đồ con Chúa. Và những cuộc Thập tự chinh tàn khốc là biểu hiện một thời của
những nhà làm chính trị dùng Công giáo làm công cụ phục vụ tham vọng quyền lực,
chính trị,…
Thập tự giá là biểu tượng trên lá cờ
của đoàn quân Thập Tự chinh, Thập tự giá cũng chính là một dụng cụ giết người
tàn khốc, dã man nhất của một thời đại đã qua - Một đồ vật đẫm máu gắn liền với
thương hiệu đế chế La Mã tàn bạo, khát máu lại chính là biểu tượng của các giáo
phái thờ Chúa bởi do một kẻ dối lòng thờ Chúa chỉ định.
Để “nắm bắt” sự tận tụy, tư tưởng
của quân đội cùng người dân Constatine xác thực Công giáo là quốc giáo của Đế
chế La Mã và ra sắc lệnh máu tận diệt những người theo tôn giáo khác.
Về sau, có không ít chính trị gia ở
các quốc gia khác nhận thức được sự cuồng tín nơi tín đồ Công giáo lúc bấy giờ
thật sự có giá trị cho tham vọng bành trướng lãnh thổ đã lần lượt thừa nhận
Công giáo là quốc giáo cùng với thủ đoạn sát hại không thương tiếc những người
khác đạo. Dưới sự hậu thuận của những nhà làm chính trị đầy tham vọng, khát
máu,… thời đại Đa Thần giáo huy hoàng ở Châu Âu gần như bị xóa sổ, tuyệt diệt
bởi chính những tín đồ thuần thành đầy quyền lực và tham vọng.
Những ông hoàng thuần đạo Đa Thần
giáo vì tham vọng quyền lực vô hình chung đã xóa sổ quốc giáo Đa Thần và tiêu
diệt cả Thần Mặt Trời tối thượng mà vụng về không nhận ra.
Đúng thật là lòng tham thường đi
cùng sự mù quáng, ngu muội. Về sau, sự vay trả thành hình - cá ăn kiến rồi thì
kiến ăn cá. Nhờ sự ngu muội, mù quáng của các vị Đại đế tham lam đã tạo ra nền
mống vững chắc cho Công giáo ngự trị phần tâm linh đa số con người ở Châu Âu,
ảnh hưởng ngược về vùng Trung Đông, Bắc Phi và lan rộng khắp 5 Châu với số tín
đồ hơn 1,3 tỷ người… ở những năm đầu thế kỷ XX.
(Còn tiếp)
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét