Hội nghị Diên Hồng - Tiếng vọng ngàn đời
Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2015
Nguyên nhân diễn ra hội nghị Diên
Hồng là do việc vua Nguyên Hốt Tất Liệt tỏ ý muốn xâm lấn đất nước Đại Việt. Cụ
thể, sau thất bại của cuộc xâm lăng lần thứ nhất năm 1258, vua Nguyên “xét
thấy” không thể mua chuộc hay hù dọa nhà Trần, cuối năm 1284, vua Nguyên là Hốt
Tất Liệt quyết định xua quân sang xâm lược nước ta lần thứ hai. Lúc này, do
quân Nguyên đã thôn tính hoàn toàn Trung Quốc cho nên việc tiến quân xâm lược
Đại Việt có phần thuận lợi.
Với 50 vạn quân từ phương Bắc tràn
xuống và kết hợp với gần 10 vạn quân từ phía Nam đánh lên, vua Nguyên tin rằng
sẽ nhanh chóng bóp nát nước Đại Việt.
Thấy rõ dã tâm của vua Nguyên Hốt
Tất Liệt từ 3 năm trước, năm 1282, nhà Trần đã triệu tập những người trong
hoàng tộc cùng các tướng lĩnh cao cấp đến họp ở Bình Than để bàn phương hướng,
chiến lược chống quân xâm lược và việc tổ chức xây dựng bộ máy chỉ huy chống
quân xâm lấn phương Bắc.
Tháng 11 năm 1284, nhà Trần lại cử
Trần Phủ dẫn đoàn phái bộ sứ giả sang triều đình nhà Nguyên với mục đích chủ
yếu là tìm kế hoãn binh nhưng việc làm không thành.
Khi quân Nguyên triển khai việc tiến
quân xâm lấn, nhà Trần đã tổ chức thêm nhiều cuộc hội nghị quan trọng nhằm thăm
dò chủ trương, ý kiến của triều thần. Đáng tiếc là không ít triều thần cao cấp
trong Triều tỏ ra hèn kém, nhu nhược tỏ ý cầu hòa mà đại diện điển hình là Trần
Ích Tắc, là người con thứ của Thượng hoàng Trần Thái Tông, em vua Trần Thánh
Tông, chú của vua Trần Nhân Tông.
Đến khi quân Nguyên kéo sang thì
Trần Ích Tắc đem toàn bộ gia quyến cùng vây cánh ra đầu hàng quân Nguyên, từ đó
Trần Ích Tắc về Trung Quốc nhận bổng lộc của Triều Nguyên.
Vì việc đầu hàng của Trần Ích Tắc mà
về sau nhà Trần đã loại Trần Ích Tắc ra khỏi dòng dõi tông thất. Cho đổi tên
Trần Ích Tắc thành Ả Trần. Trong Đại Việt Sử Ký Toàn thư có đoạn:
Tháng 5, năm 1289, sau khi đánh thắng quân Nguyên lần thứ 3, quan quân
nhà Trần có thu về được một hòm thư, biểu tấu xin hàng của quan tướng nhà Trần.
Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã ra lệnh tiêu hủy, đốt cháy tất cả “biểu tấu, thư hàng” để yên lòng những
người phản trắc, tránh việc lòng người hoảng loạn, nơm nớp lo sợ,... cùng
đường, gây ra chính biến. Chỉ có những kẻ đầu hàng đã rõ danh tính thì dù bản
thân đang ở triều Nguyên, cũng sẽ kết án vắng mặt, xử tội đi đày hoặc tử hình,
tịch thu điền sản, sung công, tước bỏ quốc tính,…
Riêng với Trần Ích Tắc là chỗ thân tình, cốt nhục, tuy trị tội là như
nhau. Nhưng không nỡ “đổi họ, xóa tên”, về sau gọi là Ả Trần, ngầm trách hắn
hèn nhát như là đàn bà.
Việc làm “Thấy lợi, quên nghĩa” của
không ít quan lại triều đình đã khiến cho lòng người rối ren, hoang mang,… Trong
những giờ phút quan trọng, vua quan nhà Trần đã không có cùng sự đồng thuận,
không có chính kiến rõ ràng cho đối sách với quân Nguyên: Hòa hay đánh?
Trước bối cảnh đó, tháng Chạp năm
Giáp Thân (1-1285), Thượng hoàng Trần Thánh Tông xuống chiếu mở một cuộc hội
nghị hết sức quan trọng ở điện Diên Hồng, sử sách về sau gọi cuộc hội nghị ở
điện Diên Hồng là Hội nghị Diên Hồng. Tham dự hội nghị này là các vị bô lão,
đại diện cho nhân dân cả nước. Thượng hoàng đích thân ban yến tiệc và hỏi các
vị bô lão là nên đánh hay nên hòa.
Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản
kỉ, quyển 5, tờ 44 a) chép: "Các cụ bô lão đều nói đánh, muôn người cùng
một tiếng, muôn lời như bật ra từ một miệng".
Lời Bàn:
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có
những trang sử bi tráng, hào hùng được dệt thành bởi khí tiết, lòng dũng cảm,
tính gan dạ,… của mỗi con người sống trong lòng nhân loại.
Họ là ai?
Họ không chỉ
là những viên tướng tài giỏi, những nhà lãnh đạo kiệt xuất, giới trí thức, giới
tư sản, tiểu tư sản, tầng lớp quý tộc, những người thuộc tầng lớp danh gia,
vọng tộc,… mà họ hiện diện cả trong thành phần những người dân thường với địa
vị xã hội thấp kém, mạt hạng theo cách nhìn nhận, đánh giá của dân gian như là
những người mổ lợn, những kẻ chăn trâu, người gác cổng, nhân viên thu thuế, tên
lính quèn, những cô gái trẻ, những ông lão già nua,… Dù rằng họ thuộc những
thành phần, tầng lớp khác nhau nhưng ở mỗi con người đều có sự hiểu biết, tính
quả cảm, biết yêu người mà sống. Khi đất nước, quê hương bị kẻ thù dòm ngó, xâm
lấn ngang ngược họ sẵn sàng đứng lên bảo vệ sự bình yên, tự do, độc lập cho
nước nhà.
Xuyên suốt chiều dài lịch sử nhân
loại, không ít lần những người thuộc thành phần “Thấp cổ, bé miệng” lại chính
là động lực, là nhân tố sống còn đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của dân
tộc, đất nước.
Tuy nhiên,
khi xét đến bối cảnh xã hội hiện tại thì đã có chút khác biệt. Bởi lẽ, thành
phần mà xã hội mặc nhiên thừa nhận là “Thấp cổ, bé miệng”, người dân, nhân loại
dường như đã bị vất hẳn ra khỏi cuộc chơi của các “Ông lớn”. Dù vậy, thành phần
“Thấp cổ, bé miệng” lại chính là thành phần sẽ chịu nhiều mất mát, đau thương
nhất nếu mọi thứ vượt giới hạn, chiến loạn xảy ra.
Lập luận này
của tôi có đúng mực không?
Ta hãy cùng “xét lại”.
Hẳn là giới
lãnh đạo Trung Quốc khi thực hiện ý đồ, hành vi ngang ngược trên biển Đông đã
không thực hiện việc trưng cầu dân ý.
Hành vi mà người Trung Hoa cũng như
người Đài Loan đang thể hiện trên biển Đông là hành vi ngang ngược, ngông
cuồng, tráo trở. Đó là điều không thể bàn cãi, không thể biện minh.
Bởi lẽ họ đang vi phạm Công ước quốc
tế về Luật Biển năm 1982 và là tội đồ đầu tiên tạo ra phải ứng dây chuyền gây
xáo trộn, làm biển Đông dậy sóng.
Chính giới lãnh đạo Trung Quốc và
Đài Loan đã tạo ra ngòi nổ có nguy cơ tạo ra Thế chiến thứ III đẩy nhân loại
vào đau khổ, tang thương, thù hận. Máu và nước mắt con người sẽ lại đổ xuống
cho những cuộc chiến sống còn.
Người dân Trung Hoa đã bị họ gạt bỏ ra
khỏi ván cờ tranh giành bá quyền khi họ chuẩn bị cho cuộc tranh chấp ngang
ngược trên biển Đông.
Người dân Trung Hoa và Đài Loan cũng
quên mất vai trò của mình trong việc ngăn chặn việc làm sai trái của giới lãnh
đạo. Có lẽ họ cảm nhận họ rất nhỏ bé trước tham vọng của giới lãnh đạo. Họ đã
sai khi vô tình đồng thuận việc làm sai trái của giới lãnh đạo. Lẽ ra, họ nên
quả cảm hơn trong việc ngăn chặn việc làm sai trái của giới lãnh đạo. Vì lẽ với
những người Trung Hoa có sự hiểu biết khách quan, sáng rõ, đúng mực thì họ sẽ dễ
dàng nhận ra giới thống trị của họ đã hoàn toàn sai khi tạo ra những tranh chấp
vô lý trên biển Đông. Việc làm đó chứa đựng sự bất nhân, bất nghĩa, vô đạo và
trái đức.
Nếu việc làm vượt mức của giới lãnh
đạo Trung Hoa khiến cho công luận thế giới lên tiếng thì có lẽ vết nhơ lịch sử
này người Trung Hoa không dễ xóa nhòa và tham vọng của giới lãnh đạo Trung Quốc
sẽ bị chặn đứng ngay lập tức.
Tuy nhiên, khi đó nhân loại sẽ có sự
nhìn nhận “Dân tộc Trung Hoa, dân tộc Đài Loan là những dân tộc tham lam, là
những kẻ cướp ngang ngược”.
Phải chăng lịch sử hào hùng của đất
nước Trung Hoa, khí tiết dân tộc của một nền văn hóa lâu đời, đáng ngưỡng mộ
của đất nước Trung Hoa sẽ bị hủy trong tay của một nhóm người lãnh đạo phạm sai
lầm?
Tôi tự hỏi “Người Trung Hoa có muốn
giữ lại những nét đẹp huy hoàng trong cái nhìn của nhân loại?”.
Thật chưa muộn cho việc sửa sai nên
chăng người Trung Hoa tự sửa sai trước khi công luận thế giới lên tiếng. Người
Trung Hoa hãy tự nhìn nhận lại vấn đề. Hẳn là tôi đã không nói sai, bẻ cong sự
thật.
Tôi đã đến để giúp bạn dù vậy tôi
cũng gây ra chút oán thừa trong lòng bạn. Tôi chấp nhận trả giá để rồi bạn an
tâm rằng “Không ai nợ ai”.
Trước nguy cơ
chiến loạn xảy ra, các Tổ chức, cộng đồng quốc tế đã ra mặt hòa giải. Họ đặt
vấn đề Tranh chấp biển Đông lên trên chiếc bàn chính trị - ngoại giao để tìm ra
hướng giải quyết. Họ kêu gọi các bên kiềm chế và mỗi bên trình bày quan điểm rõ
ràng về vấn đề ranh giới trên biển Đông nhưng họ không thể có một Tiếng nói đạt
đủ trọng lượng cần thiết. Vì lẽ họ thực sự không biết rạch ròi về ranh giới
biển của các quốc gia trong khu vực biển Đông. Thế nên giải pháp tùy thuận được
họ sử dụng, gió chiều nào xoay theo chiều ấy. Cũng như phần lớn nhận thức của
nhân loại đương thời “Chân lý nằm trong tay kẻ mạnh” các Tổ chức hòa giải quốc
tế vì thế cũng không thể hiện rõ lập trường của chính mình vì họ cảm thấy họ
không đủ mạnh để trấn áp những quốc gia có thái độ, cách hành xử sai trái,
ngang ngược. Thêm nữa, họ đã phạm vào ít nhất 3 sai lầm quan trọng.
Sai lầm thứ nhất là dù rằng họ không
rành rõ về ranh giới lãnh hải các nước trong khu vực biển Đông nhưng vẫn còn đó
những mảnh vẽ, bản đồ và trên cả là Công ước về Luật Biển năm 1982.
Hãy nên nhớ rằng đây là công ước đã
được quốc tế công nhận, lẽ nào Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982 chỉ còn
là những mảnh giấy vô giá trị?
Điều này đồng nghĩa với việc ranh
giới các vùng miền, các quốc gia, các dân tộc hiện tại cũng chỉ là những mảnh
giấy vẽ không giá trị. Với nhận thức như thế thì hẳn là ranh giới các nước trên
thế giới sẽ được xác định lại bằng máu, mạng sống con người.
Phải chăng việc sắp xếp lại ranh
giới các nước trên phạm vi thế giới này chính là Thế chiến thứ III?
Sai lầm thứ hai là họ tự nhận vai
trò của họ rất nhỏ bé vì họ nghĩ quyền lực của họ có giới hạn và hiện tại không
đủ mạnh. Thế nên, khi tham gia vào biển Đông họ chỉ nhận trách nhiệm hòa giải.
Nếu việc làm thành tựu thì có chút Tiếng nói còn bằng không hoàn thành thì rời
đi vì dẫu sao đó cũng là “Chuyện của thiên hạ”. Đó thật sự là sự sai lầm. Họ đã
sai khi tiếp cận vấn đề biển Đông. Lẽ ra họ phải đến với vai trò Chấm dứt tranh
chấp trên biển Đông chứ không chỉ là tác nhân hòa giải.
Nếu đứng ở góc nhìn sáng rõ hơn họ
sẽ nhận ra “Họ đủ mạnh để hoàn thành tốt vấn đề đó”. Lẽ ra, họ phải xác định
thật chuẩn mực vấn đề “Nếu không giải quyết tốt vấn đề biển Đông cũng như những
vấn đề quốc tế quan trọng khác thì họ hãy rời khỏi vai trò và vị trí mà họ đang
nắm giữ”.
Không chỉ vậy, nếu các tổ chức quốc
tế không thể giải quyết tốt những vấn đề trọng yếu mà thế giới đang vất vả tháo
gỡ thì cần phải có sự cải tiến, cải tổ hoặc là việc giải thể các Tổ chức quốc
tế không có giá trị thực tiễn. Nếu việc tranh chấp biển Đông kéo dài và ngày
càng gay gắt thì nguy cơ xảy ra Thế chiến thứ III là điều hoàn toàn có khả năng
xảy ra.
Vậy vai trò và giá trị của Cộng đồng
quốc tế là gì?
Nhân loại lập ra, xây dựng, duy trì
các Tổ chức quốc tế hoạt động hẳn không nhằm vào việc trả lương, giải quyết
những việc vụn vặt và nhằm vào việc thừa nhận “Chân lý nằm trong tay kẻ mạnh”.
Sai lầm thứ ba của các Tổ chức quốc
tế khi tiếp cận vấn đề biển Đông là không mang theo Công luận của nhân loại và
thăm dò ý kiến người dân ở các nước trong khu vực tranh chấp. Khi họ mang theo
công luận của nhân loại thì sức mạnh của họ là vô đối. Không có bất kỳ quốc gia
nào đủ mạnh để chống lại khối đoàn kết nhân loại. Vấn đề biển Đông cũng như các
vấn đề lớn của thế giới sẽ giải quyết dễ dàng hơn mà không phải chứa đựng đầy
máu và nước mắt con người. Bởi lẽ vấn đề đã được giải quyết bằng sự hiểu biết,
bằng giá trị con người và bằng Tiếng nói của nhân loại cũng như là Tiếng nói
của người dân ở mỗi quốc gia.
…
Vấn đề biển Đông còn mang lại cho các
nước có công nghệ sản xuất vũ khí tiên tiến, hàng loạt thu về nguồn tiền của,
giá trị thặng dư dồi dào, khổng lồ.
Bởi lẽ có rất nhiều hợp đồng mua bán
vũ khí béo bở mà người dân ở các nước không biết gì và nhân loại dường như thờ
ơ chẳng quan tâm. Khi chiến loạn xảy ra thì họ lại bán thêm được nhiều vũ khí.
Phải chăng cho dù các quốc gia ở khu
vực tranh chấp bị hủy hoại nặng nề thì đó là “Chuyện của thiên hạ”?
Vấn đề là giới thống trị ở các quốc
gia bán vũ khí có thật nhiều tiền cho việc đầu tư phát triển các loại vũ khí
tối tân nhằm giết được nhiều đồng loại hơn nữa.
Khi việc tranh chấp trên biển Đông xảy
ra, người dân các nước trong khu vực cũng đã bị giới chính trị quên bỏ mà không
thông qua việc Trưng cầu dân ý. Người dân các nước và nhân loại sẽ chết vì sự
vô tâm, sự tự ti về thân phận hèn mọn, thấp cổ, bé miệng.
Phải chăng
người dân, nhân loại đã bị vất ra khỏi cuộc chơi của các “Ông lớn” và sẽ chịu
đựng nhiều thiệt thòi khi chiến loạn xảy ra?
Quân đội các nước sẽ lại trở thành
những cỗ máy giết người vô cảm. Thân xác người dân, quân đội các bên tham chiến
sẽ chất thành núi. Sẽ có một vài viên tướng lãnh không may nằm lại nơi chiến
trường trong bối cảnh con người sống trong sự thực dụng và ích kỷ ở thời điểm hiện
tại.
Còn giới lãnh đạo bất nhân, bất
nghĩa,… thì dường như là họ đã đứng ngoài những cuộc bắn giết, chiến loạn. Quả
thật, đây là trò chơi không công bằng.
Đáng tiếc là
người dân các nước và nhân loại đã và đang chấp nhận trò chơi đó. Bởi lẽ nhân
loại đang bị cuốn vào vòng xoáy của chủ nghĩa thực dụng, tính ích kỷ trong mỗi
con người đang được nuôi lớn.
Mỗi người kiến tạo cho riêng mình
một vỏ ốc, ẩn thân vào đó, tự nghĩ đã an toàn, chuyện bên ngoài là “Chuyện của
thiên hạ”.
Cho đến khi chiến loạn xảy ra thì
con cháu, anh em, dòng tộc, láng giềng,… hoặc chính họ bị đẩy ra chiến trường
và chết không toàn thây.
Đôi khi họ rút sâu hơn vào trong vỏ
ốc nhưng với sức công phá của vô số vũ khí tiên tiến, có sức hủy diệt như bom
hạt nhân, tên lửa,… thì chiếc vỏ ốc trở nên quá mong manh, dễ vỡ.
Khi vỏ ốc của chủ nghĩa thực dụng vỡ
ra thì sẽ phơi bày ra một xác người nhỏ bé với nội tâm cạn cợt, yếu đuối và hèn
hạ. Rồi cũng xong một kiếp người sống trong mặc cảm, tự ti, bạc nhược. Một con
người ảo tưởng sống với sự hạnh phúc, sự an toàn giả tạm, ích kỷ tách mình ra
khỏi khối đồng nhất nhân loại mặc cho đồng loại sống trong khổ đau, thù hận,
trong lòng khấp khởi vui mừng vì ý nghĩ an toàn trong chiếc vỏ ốc chủ nghĩa
thực dụng đầy khổ đau, man trá.
Lối sống luôn trói con người trong “cơm
áo, gạo tiền”, địa vị, danh lợi, quyền lực,...
Việc trình bày liên quan đến vấn đề
tranh chấp biển Đông của tôi là không nhằm vào việc kêu gọi lòng tự hào dân tộc
ở mỗi quốc gia, dân tộc.
Tôi muốn kêu gọi sự thức tỉnh tình
yêu thương chân thật trong mỗi con người và “Chúng ta là đồng loại”. Dù thừa
nhận hay không thừa nhận thì con người dù mang trên người màu da, sắc tộc, tôn giáo
nào đi chăng nữa thì chúng ta cũng là đồng loại.
Đã là đồng loại mà giết hại, bóc
lột, áp bức,… lẫn nhau thì đó không thể là các hành xử đúng mực của một con
người có hiểu biết trong kỷ nguyên hiện đại, văn minh và tiến bộ.
Vì sao tôi trình bày vấn đề con
người hiện nay đang trở nên nhỏ bé, bạc nhược hơn và việc họ tự “trốn chạy” ra
khỏi những vấn đề sống còn của nhân loại và cả chính họ?
Tôi đã từng thăm dò cục bộ một số
người hiện diện trong giới trí thức, tư sản, công nhân, nông dân, bác sĩ, kỹ
sư, công chức, nhân viên an ninh, người dân,… ở một quốc gia trong khu vực
tranh chấp. Gần như họ rất thờ ơ, không có sự quan tâm đúng mực, không có thái
độ, lập trường, chính kiến rõ ràng,… về những mối nguy có khả năng dẫn đến việc
bùng nổ xung đột trên khu vực biển Đông, Trung Đông,...
Thậm chí tôi còn nhận ra sự e dè, sợ
sệt của họ khi họ tham khảo những giải pháp mang tính đột phá cho vấn đề tranh
chấp biển Đông mà tôi đề xuất. Họ thận trọng nói “Chuyện tranh chấp biển Đông
là chuyện của giới chính trị, của thành phần đối ngoại, lực lượng an ninh,…”.
Rồi họ rời xa tôi như rời bỏ một con người bệnh hoạn, nguy hiểm.
Tôi không trách họ bởi tôi có sự
đồng cảm với họ. Chỉ gần hai năm trước, tôi cũng đã từng như thế, tôi rất sợ
phải chạm đến những vấn đề nhạy cảm của xã hội, tôi cảm nhận sự không an toàn,
sợ mất mạng, sợ bị quản thúc,… khi tôi tiếp cận những vấn đề đó.
Cho đến khi tôi nhận ra “Tôi đã
sai”. Bởi lẽ nếu giao vận mệnh đất nước, dân tộc, nhân loại cho một nhóm người
quyết định sự tồn vong thì giả như khi nhóm người đó làm không tốt thì vận mạng
của đất nước, của nhân loại sẽ về đâu?
Nếu chiến tranh xảy ra thì tôi sẽ
vác súng ra chiến trường nhằm giết đồng loại.
Điều gì sẽ đảm bảo tôi toàn vẹn tinh
thần và thể xác sau cuộc chiến loạn?
Nếu may mắn thoát chết thì tôi sống
làm gì khi những người thân tôi nằm lại cả ở chiến trường?
Chết, sớm muộn gì thì cũng chết. Có
cái chết nặng tựa Thái Sơn, có cái chết nhẹ tợ lông hồng.
Tôi hiểu rằng “Mỗi con người hãy nên
trân quý và giữ lấy sự sống của nhân loại và hành tinh xanh”.
Tại sao cách đây hai năm tôi lại bạc
nhược, hèn kém?
Bởi lẽ quá khứ hào hùng của ông cha,
của những trang sử sách đã là những câu chuyện cổ tích, những câu chuyện đó
không giúp tôi sống tốt ở hiện tại.
Có chăng là tạo ra những khoảng
cách, nuôi giữ hận thù, tạo ra niềm tự hào dân tộc không đúng mực và không có
giá trị gì khi thế hệ hiện tại vẫn vấp phải những lỗi lầm xưa cũ?
Chiến tranh, xung đột vũ trang, chạy
đua phát triển vũ khí hủy diệt, việc xây dựng thêm nhiều kho vũ khí hạt nhân,
chân lý nằm trong tay kẻ mạnh,…
Thêm nữa, chủ nghĩa thực dụng nói
với tôi rằng “Nếu mãi sống trong những trang sử hào hùng, những tri thức xưa
cũ, những bài học đạo đức, những câu truyện mang đầy tính nhân văn,… thì tôi sẽ
bị đất nước, bị nhân loại bỏ rơi và “Sớm chết””. Hãy sống ích kỷ! Sự hiểu biết
được tích góp dựa vào nền giáo dục ở giảng đường cũng như ngoài cuộc sống hiện
tại được nhiều thêm thì tôi ngày càng trở nên nhỏ bé.
Bởi tri thức nhân loại đã chuyên
biệt cho từng bộ ngành, từng thành phần, tầng lớp,... Tính riêng biệt, đặc
trưng khiến cho những thành phần “Thấp cổ, bé miệng” ngày càng trở nên hèn kém
dù rằng họ chiếm thành phần đa số của Tiếng nói nhân loại.
Sự bạc nhược khiến thành phần “Thấp
cổ, bé miệng” chấp nhận mọi hậu quả từ sai lầm ở một nhóm người, chịu phần lớn
trách nhiệm, gánh lấy đau khổ, hận thù và mất mát.
Phải chăng đây là sai lầm có đến
hàng ngàn năm nơi nhận thức và tư duy nhân loại?
Phải chăng đã đến lúc nhân loại phải
sửa sai những sai lầm đã tồn tại lâu xa có nơi tri thức, sự hiểu biết của con
người?
…
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét