Khổng Tử - Mạnh Tử luận về thuyết Chính danh
Thứ Năm, 12 tháng 11, 2015
Thầy Tử Lộ hỏi Đức Khổng Tử:
- Nếu vua nước Vệ mời thầy làm chính trị thì thầy làm điều gì trước nhất?
Tình trạng của nước Vệ lúc bấy giờ rất suy
đồi. Trước câu hỏi của thầy Tử Lộ, Đức Khổng Tử trả lời:
- Trước hết là phải chính danh.
Đức Khổng Tử nói thêm:
- Vì nếu danh không chính thì lời nói sẽ không thuận mà lời
nói không thuận thì việc làm ắt không thành.
…
Khi Tề Cảnh Công hỏi Đức Khổng Tử về chính sách cai trị, Đức Khổng Tử
trả lời:
- Quân quân, thần
thần, phụ phụ, tử tử.
Tề Cảnh Công nghe xong liền nói:
- Phải lắm. Vua phải ra vua tức là phải làm tốt, chuẩn
mực vai trò, trách nhiệm của một ông vua. Quan phải ra quan tức là phải làm đúng mực chức trách
của một vị quan. Cha phải ra cha tức là phải làm đúng mực vai trò của người cha. Con phải cho ra con tức là phải đúng mực ở bổn phận, cương vị của một người làm con. Nếu vua mà
không ra vua, bề tôi không ra bề tôi, cha không ra cha, con không ra con thì tam cương, ngũ thường đổ nát, trật tự xã hội xáo trộn, thiên hạ đâu thể yên
ổn. Đất nước mà rơi vào tình cảnh đó thì dù có đầy đủ lúa thóc, thực phẩm con người cũng chẳng thể ngồi yên mà ăn cho được.
Cho nên với Khổng Tử, muốn cho xã hội có trật tự, mọi việc đâu ra đó, mọi
người đều phải giữ đúng vai trò của mình, làm tròn bổn phận tương xứng với danh
xưng của mình. Chính danh là định phận như
vậy.
…
Về sau, có người đặt vấn đề hỏi thầy Mạnh Tử. Người đó nói:
- Châu Văn Vương vốn là bề tôi của Trụ Vương. Châu Văn
Vương đã nổi lên giết chết Trụ Vương để
lập nên nhà Châu. Bề tôi mà giết vua thì có đáng tội hay không? Tại sao nhà nho
đã không kết tội Châu Văn Vương mà lại còn tôn sùng xem Châu Văn Vương như là bậc thánh nhân?
Thuận theo thuyết chính danh, thầy Mạnh Tử đã trả lời:
- Ta nghe nói Châu Văn Vương có giết một kẻ thất phu tên là
Trụ, chớ ta chưa hề nghe nói Châu Văn
Vương có giết vua bao giờ.
Chú Thích:
Khổng Tử
tên là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ngày 27 tháng 8 năm 551 TCN vào thời
Xuân Thu, người nước Lỗ. Ông là một nhà chính trị, một nhà tư tưởng lỗi lạc,
một người thầy vĩ đại của Trung Hoa và nhân loại. Học thuyết của Khổng Tử dựa
trên nền tảng tu dưỡng đức hạnh cá nhân, việc quản lý xây dựng xã hội, lãnh đạo
đất nước dựa trên cơ sở Đạo, Đức và Nhân.
Việc “Tu
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” cần phải được cụ thể, rõ ràng qua thuyết
Chính danh định phận với các đức Nhân - Lễ - Nghĩa - Trí - Tín. Khổng Tử được
xem là ông tổ khai sáng ra Nho Giáo.
Mạnh Tử
tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, người nước Lỗ, ông là nhà Triết gia, nhà tư tưởng
lớn ở thời Chiến Quốc. Học thuyết của ông chịu ảnh hưởng của thuyết Tính Thiện
của Đức Khổng Tử, ông đã xây dựng, phát triển hoàn chỉnh hơn về “Tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ” dựa trên nền tảng Đức Trị và Nhân Trị. Ông được
xem là ông tổ thứ hai của Nho giáo.
Mạnh Tử đề
cao 4 tiêu chuẩn của một con người hoàn thiện gồm:
- Một là
lòng trắc ẩn thể hiện tâm nhân từ, biết thương yêu của con người.
- Hai là
sự hổ thẹn biết nhận lỗi, sửa sai thể hiện khí tiết của con người.
- Ba là
tâm khiêm nhường thể hiện tính lễ độ, đạo đức nhân cách con người.
- Bốn là
sự hiểu biết sáng rõ, khách quan thể hiện trí tuệ của con người.
Mạnh Tử cả
đời vững tin vào chân lý, có trí tuệ dồi dào, giỏi trình bày và phân tích lý
luận triết học. Ông kiên định khích lệ người ta làm điều thiện, lời nói nào
cũng có tinh thần cổ vũ và dẫn dắt con người hướng thiện.
Lời Bàn:
Theo cách nhìn nhận của thầy
Mạnh Tử thì Trụ Vương không đáng được gọi là
vua, ông ta chỉ là một kẻ thất phu, kém cỏi. Gọi ông ta là vua là danh không chính.
Tại sao?
Vì Trụ Vương khi ở ngôi vị ông vua đã không làm trọn đạo của một người làm vua. Theo nho giáo người làm vua là người thay
trời để trị dân. Trời thương dân như con đẻ thì người làm vua, người thay trời
để lo cho dân cũng phải thương dân như con đẻ. Thương dân, lo cho dân, đem bình
an trật tự lại cho xã hội, làm cho người dân được thái bình no cơm, ấm áo. Đó là bổn
phận của nhà vua đối với người dân.
Trong khi
đó, vua Trụ lúc tại vị đã không làm tròn sứ mạng cao quí của một vị
vua. Ông chỉ là một kẻ tàn ác, bạo ngược,
ngồi trên ngai vàng chỉ mãi hà hiếp, áp
bức, làm khổ, giết hại dân lành chớ không hề làm được một việc tốt đẹp nào đáng được xem là thay trời để lo
cho dân.
Đã không làm tốt vai trò của
một ông vua tất nhiên Trụ Vương chỉ được
coi như một kẻ thất phu, tàn bạo. Gã thất phu đó sẽ bị truất phế, bị trừng trị đích đáng bởi những tội
lỗi mà hắn đã gây ra và được thay thế bởi một người xứng đáng hơn. Người đó là Châu
Văn Vương, một người đã được trời lựa chọn để thay ý trời lo cho dân.
Thật sự, đối với nhà nho trời không ở đâu xa, trời ở rất gần dân. Nhà nho bảo lòng trời là lòng dân, cái gì
người dân muốn là trời muốn. Thành ra trời với dân chỉ là một. Dân là trời vậy.
Đối với chúng ta ngày nay, thuyết chính danh còn có giá trị gì không ngoài giá trị lịch sử?
Một số người ngày nay chạy theo tư tưởng tự
do được cho là tiến bộ của phương Tây xem thường luận lý Khổng
- Mạnh như những sợi dây trói buộc con
người không cho phép cá nhân được phát triển toàn vẹn, không cho con người được tự do mưu cầu hạnh phúc cá nhân.
Có lập
luận cho rằng “Khi sống với Tam cương ngũ thường, con
người chỉ còn là một kẻ lúc nào cũng bị chi phối bởi những bổn phận đối với
người khác mà không còn là một con người sống cho tình cảm tự nhiên và hạnh
phúc cá nhân”.
Lúc nào, người dân cũng chỉ là một bề tôi, bắt buộc phải trung thành, phải
răm rắp làm theo mệnh lệnh của
nhà vua. Và là một người con bắt buộc phải làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, phải
nghe theo cha mẹ, sống theo ý muốn của cha mẹ, chớ không hề được sống cho lối sống,
tư tưởng cá nhân. Đã có lúc luân lý của Khổng - Mạnh bị cho rằng là khắc khe đến mức dường như không còn chỗ nào cho
cá nhân con người được sống thật sự. Con người lúc nào
cũng bị chìm đắm trong các bổn phận nặng nề của hai chữ trung hiếu.
Địa vị của người phụ nữ lại còn thấp thỏi hơn khi họ phải giữ đúng Tam tòng (Tức là tại gia
tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Cuộc sống người phụ nữ hoàn
toàn lệ thuộc vào người chồng, phải giữ sự trinh tiết, phải tròn cả hiếu trung.
Phải chăng
người phụ nữ trong xã hội phong kiến nho gia cơ hồ như chẳng còn gì là sống riêng cho cá nhân nữa?
Thật ra là đạo Nho ở thời Khổng - Mạnh không khắt khe đến mức vô lý đến vậy. Nhà nho đặt ra bổn phận
nhưng bổn phận cho tất cả mọi người, chớ không riêng cho ai cả. Trong đó, có bổn
phận của kẻ bề tôi thì cũng có bổn phận của một ông vua. Có bổn phận cho kẻ làm con thì cũng có bổn phận
cho người làm cha. Nhà nho bảo: “Quân xử
thần tử, thần bất tử bất trung” nghĩa là khi nhà vua bảo quần thần chết thì quần thần phải tuân theo lệnh vua mà chết nếu không thì sẽ mang tội bất trung. Nhưng
nhà vua phải thế nào thì bề tôi mới phải giữ được lòng trung thành tuyệt đối
như vậy. Cho nên nhà nho bảo “quân” phải “chính” thì “thần” mới “trung”. Cũng như
“phụ” phải “từ” thì “tử” mới “hiếu”. Phải là nhà vua đạo đức, ngay thẳng, công
bằng, biết thương, biết lo cho dân, biết làm hết
bổn phận của nhà vua đối với quần thần, dân chúng thì mới mong có bề tôi làm tròn bổn phận của bề tôi đối với vua được. Người
làm cha cũng vậy, cũng phải trọn đạo làm cha thì mới mong con mình đóng trọn vai trò làm người con hiếu
thảo.
Hiện tại, tư tưởng chính danh định phận vẫn còn có giá trị đối với nhân loại.
Cụ thể là một chính quyền bao
gồm những người cầm quyền cai trị trong một nước phải sống cho xứng đáng với danh xưng đó, phải có bổn phận lo cho người dân, bảo vệ người dân.
Phát triển quốc gia, làm cho đời sống của người dân được ấm no, hạnh phúc. Nếu người cầm quyền không làm được việc đó hay làm ngược lại lòng dân thì chính quyền đó sẽ bị coi như không xứng đáng với danh xưng
chính quyền theo thuyết chính danh.
Một chính quyền mà danh không chính thì lời nói của chính quyền đó thường không có
hiệu quả, không thu phục được lòng người vì người dân sẽ không ủng
hộ.
Một nhóm người cai trị bạo ngược, có thể dùng sức mạnh đàn áp, cưỡng bức,
hà hiếp, đày ải, giết chóc người dân làm cho đời sống của người dân phải nghèo
đói, khốn khổ,… Nhóm người đó không xứng đáng
với danh xưng chính quyền. Đó chỉ là những kẻ thất phu cướp quyền.
Ở các nước dân chủ thật sự thì hạng người cướp quyền, bạo quyền,… như vậy sẽ dễ dàng bị thay thế bởi những người xứng đáng
hơn bằng lá phiếu của người dân, qua các
cuộc bầu cử công bằng, dân
chủ, tự do.
Còn đối
với những quốc gia không có nền dân chủ thì những kẻ cướp quyền cai trị bao giờ cũng đi đến một bạo quyền, một thể chế chính trị độc tài, tàn bạo, dùng mọi hình thức áp bức, bóc lột, vơ vét,… để cai trị. Trong những trường hợp như vậy, người dân không còn dùng được lá phiếu để nói lên nguyện
vọng chính đáng của mình.
Rơi vào
bối cảnh đó thì sẽ lại có người đứng ra lãnh đạo nhân
dân nổi lên lật đổ triều đình bạo quyền
giống như là việc Châu Văn
Vương nổi dậy lật đổ Trụ Vương.
Lẽ dĩ nhiên là đối với các loại vũ khí tối tân, hiện đại cùng mạng lưới tình báo,
quân sự được tổ chức chính quy,
chặt chẽ, tinh nhuệ của các nhà lãnh đạo độc tài quân sự thì những cuộc phản
kháng, đứng lên của người dân không dễ dàng thực hiện
thành công. Tuy nhiên, khó khăn không có nghĩa là không thể xảy ra. Sự nổi dậy
của người dân dù khó khăn đến đâu vẫn có thể thành công và bạo quyền dù có mạnh đến mấy rồi cũng có ngày sụp đổ.
Tóm lại, hoặc là nhà cầm quyền phải sửa sai, phải thật tâm làm việc lo cho dân, vì dân, phải làm hết
bổn phận đối với người dân để xứng danh là chính quyền. Hoặc giả tiếp tục chính sách bạo ngược, tàn hại dân chúng,… thì sẽ có ngày chính
quyền tàn bạo, thối nát,…đó bị dân chúng nổi dậy lật đổ dưới hình thức này hay hình
thức khác. Trên phương diện chính trị - kinh tế - xã hội, thuyết Chính danh định phận vẫn là một tư tưởng có giá trị đối
với con người ngày nay.
Ở những thành phần, vấn đề khác cũng đều như vậy. Từ gia đình
đến xã hội, mỗi người đều hãy nên làm đúng đắn, chuẩn mực vai trò, vị trí bản
thân tương ứng với khả năng của tự thân. Mọi
người ở trong mỗi vị trí hãy nên làm đúng bổn phận, vai trò tự
thân phù hợp với vị trí được giao
phó, đảm nhận nhằm xứng đáng với cái danh xưng, vị trí của mình. Làm thầy thì phải biết
thương yêu lo lắng dạy dỗ, chỉ bảo cho học trò để cho học trò có cơ hội kính trọng, nể vì. Làm trò thì phải biết tôn kính thầy cô, trọng bạn và làm tròn bổn phận của một người học trò.
Nếu nền giáo dục chỉ chạy theo thành tích, không coi trọng chất
lượng, giá trị của việc giáo dục thì những người đứng đầu ngành giáo dục không
xứng với danh xưng là những người đại diện cho hệ thống giáo dục.
Nếu người thầy chỉ nghĩ đến đồng lương, cơm áo gạo
tiền, việc dạy học tắc
trách thì người thầy đó không xứng đáng được gọi là thầy nữa.
Trong gia đình, người cha phải làm tròn bổn phận của
cha đối với con cái để con cái có thể theo đó mà trọn đạo làm con.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét