Nhật Bản, bản sắc nhạt nhòa (P.3)
Thứ Tư, 18 tháng 11, 2015
Quay lại vấn đề tầm nhìn 10 năm
không thấy được 100 năm, đánh mất 1000 năm ở Nhật Bản.
Để tạo nên kỳ tích Thần kỳ Nhật Bản,
người Nhật đã đánh mất khá nhiều thứ. Bản sắc, khí tiết không được rèn dũa,
trao dồi đã mai một trong tư duy, nhận thức, ý thức người Nhật.
Vì các nhà quản lý xã hội cố bám víu
niềm tự hào “Thần kỳ Nhật Bản” đã điều tiết xã hội một cách chủ quan, kém cỏi.
Để duy trì vị trí nền kinh tế số 2 trên thế giới các nhà quản lý đã biến người
Nhật trở thành những con ong chăm chỉ.
Muốn làm được điều này thì chỉ có
tiền và lối sống thực dụng mới có thể biến con người thành con ong chăm chỉ. Và
chủ nghĩa vật chất, nếp nghĩ thực dụng đã được thế hệ trước “gieo mầm” cho nhận
thức giới trẻ.
Việc quản lý xã hội và việc giáo dục
đã phạm sai lầm nghiêm trọng qua việc thực thi giáo dục gần như là “tẩy não”
thế hệ trẻ về khí tiết, về bản sắc dân tộc bằng vào việc “nhồi sọ” khối lượng
kiến thức khổng lồ về khoa học, công nghệ, hiện đại, niềm tự hào “Thần kỳ Nhật
Bản”,…
Và khi sự thực dụng xâm thực vào nếp
nghĩ của giới trẻ thì họ đã tự nhận thức, tư duy để có thật nhiều tiền mà không
cần đến sự định hướng lỗi thời của thế hệ cha ông. Bỏ lại một thế hệ già nua
lẩm cẩm, giới trẻ đã dấn thân về thành thị, mau chóng hòa nhập để trở thành
những con ong chăm chỉ để “ôm ấp”, nuôi giữ niềm tự hào nền kinh tế thứ 2 trên
toàn thế giới nơi các nhà quản lý xã hội.
Nhưng những con ong chăm chỉ đã
không thể mãi ngự trị vị trí thứ 2 về kinh tế ở thế giới. Vì đã có những con
kiến cần mẫn Trung Quốc ngoi lên giành lấy vị trí thứ 2. Quả thật 127 triệu con
ong chăm chỉ khó mong vượt mặt gần 1,3 tỷ con kiến cần mẫn. Nhất là khi công
nghệ, khoa học kĩ thuật,… đã không còn giới hạn tuyệt mật, không thể nắm bắt và
khủng hoảng kinh tế cứ kéo dài triền miên.
Và … dù cho Nhật Bản có giữ được vị
trí thứ 2 hoặc giành lấy vị trí nền kinh tế số 1 thế giới thì đã sao?
Khi đó, Nhật Bản sẽ được gì và mất
gì?
Nhật Bản sẽ lại được nhân loại
ngưỡng vọng chăng?
Điều đó cũng quan trọng nhưng điều
quan trọng hơn là Tiếng nói các nhà quản lý trên trường quốc tế sẽ “nặng ký”
hơn. Với các nhà quản lý kinh tế thì tiền sẽ gom góp nhiều hơn. Và … mất.
Mất gì?
Bản sắc, khí tiết người Nhật. Những
nét văn hóa truyền thống đặc thù phong cách Nhật. Một lối sống tự tại, thảnh thơi.
Tình cảm, sự gắn kết gia đình, dòng tộc. Một cuộc sống đơn giản của con người…
Đó là những thứ đã mất đi.
Và… các nhà quản lý xã hội, lãnh đạo
đất nước Nhật Bản đã chịu trách nhiệm gì cho những mất mát to lớn ở người Nhật?
Phải chăng tầm nhìn 100 năm không
thấy 10 năm và đánh mất giá trị bản sắc hàng ngàn năm?
Người Nhật mất cả một cuộc sống giản
đơn. Đó là sự mất mát không gì bù đắp được. Vì đó là giá trị của sự sống ở mỗi
con người. Được biết hiện nay đa số người Nhật trưởng thành chỉ có 5 giờ là
khoảng thời gian dành cho việc ngủ. Còn phần lớn thời gian đều bị “cuốn” vào
công việc. Và mục đích duy nhất là kiếm tiền phục vụ cuộc sống. Dù vậy cho đến
cuối đời người Nhật vẫn là “của nợ” của xã hội.
Khủng hoảng người già đã thật sự xảy
ra trên nước Nhật (Bạn có thể tham khảo thêm bài viết Câu chuyện người già).
Một nước Nhật hiện đại, năng động,
cực kỳ phát triển là một đất nước có một lượng người làm nô lệ cho cuộc sống
vật chất, lối sống thực dụng cao độ. Và … con người đã làm nô lệ cho xã hội mà
nhất là cho chính mình một cách hăng say quên cả tháng năm, ngày và đêm, niềm
vui và hạnh phúc, tủi buồn và cô đơn, gia đình và cha mẹ,…
Tất cả đều quên thì còn gì để xác
định con người đã sống?
Một con người đang sống mà lại đánh
mất sự sống thì sống có đáng gì?
Phải chăng sống mà như thế gọi là
sống sao hợp lẽ?
Người Nhật vẫn đang cắm cúi kiếm
thật nhiều tiền để phục vụ nhu cầu sống của một cuộc sống đánh mất giá trị nên
đã chưa “đòi hỏi” giới lãnh đạo, nhà quản lý về trách nhiệm những thứ đã mất
đi.
Và… cho đến một lúc nào đó họ chợt
nhớ về bản sắc, khí tiết, giá trị cuộc sống thì họ sẽ “đòi” một ai đó chịu
trách nhiệm. Khi đó, các nhà quản lý sẽ phải có những câu trả lời thiết thực,
xác đáng.
Tin rằng các nhà quản lý xã hội sẽ
không thể trả lời chuẩn mực, rốt ráo những câu hỏi của người Nhật nếu không sớm
sửa sai ngay thời điểm hiện tại.
Hãy nên nhớ rằng “Dù là những thứ
mất đi để phục vụ tham vọng thần long, mãnh sư là không thể cầm nắm, nếm ngửi
hay ăn được nhưng đó mới chính thật là giá trị bản sắc người Nhật. Nền kinh tế
số 1, số 2 thế giới, khoa học công nghệ hiện đại, tối tân không thể là “điểm
nhấn”, là nét đặc trưng của người Nhật.
Thế nên, nếu có sự chọn lựa đánh đổi
nền kinh tế số 2, số 3 thế giới bằng bản sắc, khí tiết người Nhật thì người
Nhật sẽ đưa ra chọn lựa nào?
Đó chính là tương lai của nước Nhật.
Hiện tại, người Nhật đã không còn
được xem là con ong chăm chỉ.
Xét về mặt xã hội, có xu hướng cha mẹ già ở lại nông thôn, còn con cái
sau khi tốt nghiệp trung học, liền bỏ ra thành thị làm công nhân. Sự kiện này
chia rẽ nơi cư trú của cha mẹ và con cái, và làm tan rã hạt nhân gia đình
truyền thống.
Dân cư ở nông thôn của Nhật ngày càng trở thành già nua, đồng thời kiêm
thêm nghề khác. Trong khi đó ở thành thị, do nếp sống công nghiệp hóa cao độ,
kết cấu gia đình ngày càng trở nên lỏng lẻo, quan hệ giữa các thành viên gia
đình trở nên nhạt nhòa.
Dân cư thành thị Nhật bị ví là "động
vật kinh tế", chỉ những con người hy sinh mọi niềm vui thú để chạy đua
kiếm tiền đến mức gần như điên cuồng. Xã hội Nhật ngày càng có sự phân hóa sâu
sắc về tuổi tác, văn hóa giữa thành thị và nông thôn.
(Lược trích báo mạng về Nhật Bản)
Niềm kiêu hãnh “Thần kỳ Nhật Bản” đã
tạo ra di chứng Động vật kinh tế trong lòng nhân loại.
Các nhà quản lý đất nước Nhật Bản có
cảm thấy sự tổn thương nơi tinh thần tự tôn dân tộc chăng?
Và họ nên chăng “xét lại” trách
nhiệm của mình trong việc làm hỏng hình tượng, bản sắc, cuộc sống đời thường,…
của người Nhật?
Đừng vì niềm kiêu hãnh mù quáng mà
vội trách tôi tàn độc, “gắp lửa bỏ tay người” và tìm cách trừng phạt tôi. Tôi
không ngại việc nhận trách nhiệm những điều đã trình bày. Tôi vẫn tin rằng “Tôi
đang cố giúp bạn, người Nhật cùng nhân loại”.
Đừng bao biện rằng “Bản sắc người
Nhật đang “thấm đẫm” trong lòng nhân loại. Và … điều đó là nhờ vào sự phát
triển vũ bão của khoa học, công nghệ, kinh tế đã làm nên. Những lễ hội hoa anh
đào rực rỡ không chỉ nở rộ trên đất Nhật mà lan xa ra nhiều quốc gia khác nhau.
Người người biết đến Nhật Bản với trà đạo, với vô số lễ hội văn hóa truyền
thống đặc trưng thương hiệu Nhật Bản.
Nếu cách đây vài năm tôi nghe lý
giải điều này thì tôi sẽ tin. Nhưng hiện tại những lời hoa mỹ, dối lừa không dễ
khiến tôi lầm lạc.
Thật ra, nếu nói đúng hơn là ngành
dịch vụ du lịch đã làm điều đó. Và… người người đổ xô về nước Nhật là vì dư âm
nước Nhật một thời. Trong đó sức hấp dẫn Nhật Bạn có cả việc “nếm thử” vị “phở
Nhật một đêm”.
Còn trà đạo, các lễ hội văn hóa
truyền thống ư?
Khi ngành dịch vụ du lịch “nhúng
tay” vào thì những cái gọi là bản sắc chỉ là những mảnh ghép sặc sỡ, hoa lệ chứ
không là bản sắc. Tất cả chỉ còn là những tấm ảnh không hồn dù rực rỡ sắc màu
là vậy.
Lễ hội hoa anh đào không còn là bản
sắc người Nhật, nó chỉ là chút Sắc màu Phù Tang còn vương vấn lại. Hoa anh đào
được biết đến với hình ảnh thoạt nở, thoạt tàn biểu trưng cho tinh thần nhạy
cảm, yêu cái đẹp, sống và chết đều quyết liệt của người Nhật.
Phải chăng hoa anh đào chỉ còn là
một biểu tượng, dư âm một thời để nhớ về người Nhật mai này?
Cũng đừng vội khỏa lấp, bỏ qua
“những điều rất thật” tôi đã trình bày. Nếu không sớm nhận diện sai lầm thì chỉ
e rằng Tòa cao ốc Nhật sụp đổ chôn vùi cả chút gì còn lại.
Gia đình là hạt nhân của xã hội. Khi
gia đình đổ vỡ, không còn sự gắn kết thì xã hội đó sẽ về đâu?
Tại sao giới trẻ Nhật lại trở nên
khó hiểu đến vậy?
Những cô gái từ bỏ nét duyên xưa
ngại ngùng, e ấp và trở nên táo bạo, mạnh mẽ, đam mê cuồng loạn… những chàng
trai trẻ từ bỏ ý định lập gia đình với một con người thật. Thậm chí, là việc họ
tự “cắt bỏ” đi khả năng, vai trò làm cha mà không có được sự san sẻ, đóng góp
từ những đấng sinh thành cùng xã hội. Quan hệ giữa các thành viên gia đình
dường như không tồn tại.
Vậy quan hệ giữa người với người
hiện dựa vào tiêu chí nào?
Tiền bạc, vật chất, xác thịt,… bán
và mua?
Có lẽ các nhà quản lý xã hội, lãnh
đạo đất nước trên phạm vi toàn thế giới chứ không riêng gì nước Nhật nên sớm
nhận diện những sai lầm khi xây dựng, phát triển đất nước theo tiêu chí vật
chất, kinh tế hàng hóa - dịch vụ.
Tham vọng thần long, mãnh sư kinh
tế, khoa học, kĩ thuật và công nghệ nên sáng rõ, tổng thể và khách quan hơn.
Trên thực tế, việc nắm giữ những
ngôi đầu về vị trí kinh tế là điều không thật cần thiết. Hơn nữa, dù cho muốn
nắm giữ cũng chẳng thể được.
Dân số từ 128 triệu người đến năm
2050 còn lại 100 triệu người, đến năm 2100 còn 64 triệu người.
Và giải pháp được chọn nhằm đảm bảo
vị trí kinh tế chứ không là vì mục tiêu xã hội là việc nhập cư và khuyến khích
sinh đẻ.
Các nhà quản lý vì mãi đeo đuổi các
chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế nên gần như đã quên bỏ hạt nhân gia đình, sự cân bằng
ổn định, hài hòa của xã hội.
Tại sao dân số chỉ còn 64 triệu
người mà các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, hàng hóa vẫn tăng lên?
Giả sự dự đoán 100 năm của các
chuyên gia là chuẩn thì đến năm 2100 dân số người Nhật chỉ giảm xuống còn một
nửa so với hiện tại. Và nhìn chung dân số ở các nước đã, đang phát triển đều
giảm mạnh và già đi.
Vậy số vật chất dôi dư sẽ dùng cho
việc gì mà các chỉ tiêu kinh tế ở các nước luôn đưa ra định mức nâng lên, đẩy
mạnh tăng trưởng?
Xuất khẩu ư? Thu về ngoại tệ ư?
Phải chăng người Nhật tự biến mình
thành nô lệ cho nhân loại?
Hay là vì sự cao thượng phải tạo ra
hàng hóa để nuôi dưỡng những đất nước nghèo, kém phát triển về công nghiệp và
nông nghiệp?
Tự dưng những đất nước nghèo, kém
cỏi lại trở thành ông chủ của những người Nhật tự giác làm nô lệ.
Phải chăng định hướng xây dựng nước
Nhật là biến người Nhật thành nô lệ của chính họ, của cuộc đời và của nhân
loại?
Một lượng tiền khổng lồ được thu về
thông qua xuất khẩu ư?
Một cuộc khủng hoảng dư hàng hóa
trên phạm vi thế giới liệu có thể xảy ra không?
Với tình trạng khủng hoảng kinh tế
kéo dài như hiện nay và không có giải pháp khả thi nào được các chuyên gia sừng
sỏ kinh nghiệm đưa ra thì khủng hoảng dôi dư hàng hóa sẽ là điểm đến của nhân
loại. Quả thật tầm nhìn 10 năm không thấy được 100 năm và ngược lại.
Hàng hóa được sản xuất dư thừa và sẽ
bán cho ai?
Khi tất cả các nước đều đang cố ra
sức sản xuất hàng hóa bất chấp sự suy thoái toàn cầu về mọi mặt. Các nước đã
phát triển, đang phát triển đều quay lại xây dựng, chú trọng sản xuất trong
nước nhằm “tự cung, tự cấp” và tự cứu.
Không chỉ vậy! Sau khi rơi vào khủng
hoảng toàn diện thì giới lãnh đạo các nước vì lòng tham, sự an toàn sẽ chú ý
đến người dân, kẻ “đầu ấp, tay gối” - người vợ chung thủy, ít phản bội. Thế
nên, thị trường trong nước sẽ được chú ý khai thác triệt để dù rằng vẫn nâng
cao khẩu hiệu Tự do thương mại bằng các biện pháp kinh tế bảo hộ, rào cản
thương mại. Nói và làm là hai việc khác nhau. Từ lâu nay, nhân loại vẫn thường
lừa gạt nhau mà sống.
Thêm nữa, tham vọng hóa mãnh sư,
thần long vẫn tồn tại trong lòng các nước đã, đang phát triển. Dù về ăn cơm nhà
nhưng vẫn để mắt đến chén phở ở nhà bên. Việc ra sức tìm thị trường xuất khẩu
nhằm thu ngoại tệ ở các nước sẽ đạt đến sự cạnh tranh khốc liệt, cung vượt cầu
hàng hóa sẽ hoàn nguyên, trở về giá trị thật - giá trị ban đầu.
Nếu quá trình khắc phục nợ công ở
Châu Âu không khởi sắc thì điểm đến của hàng hóa sẽ là các nước nghèo, kém phát
triển. E rằng thị trường này khó thể mang lại nguồn ngoại tệ dồi dào.
Tin rằng các nước Châu Âu khó thể
vượt qua khủng hoảng nợ công bằng vào những giải pháp mơ hồ, không sáng suốt và
họ sẽ tự cứu bằng việc tự cung, tự cấp về sau. Nếu các nhà lãnh đạo Châu Âu đủ
sáng suốt thì sách lược “tự cung, tự cấp” chính là chọn lựa, là sự điều chỉnh
tạm ổn, giải pháp tình thế cho bối cảnh khủng hoảng toàn diện triền miên hiện
tại.
Một lỗ hổng cần nói đến khác nơi
định hướng tăng trưởng không ngừng, thiếu tầm mà giới quản lý xã hội Nhật cũng
như phần lớn các nước đã, đang phát triển vấp phải. Đó là dân số thế giới đang
già đi, tỷ lệ sinh ở hầu hết các nước phát triển là giảm thấp. Điều này đồng
nghĩa là dân số thế giới sẽ giảm.
Vậy hàng hóa làm ra để ai tiêu thụ?
Phải chăng việc khủng hoảng dư thừa hàng hóa là vấn đề của nhân loại trong
tương lai?
Tầm nhìn 100 năm không thấy được
1000 năm, đến bao giờ dân số thế giới mới gia tăng đủ để sử dụng hết lượng vật
chất dư thừa và giá rẻ.
Hiện tại, chỉ có các nước nghèo, kém
phát triển là dân số có sự gia tăng đáng kể. Nhưng khi chủ nghĩa thực dụng xâm
thực các nước kém phát triển thì e rằng cán cân dân số ở các nước nghèo sẽ sớm
đảo chiều.
Các nhà quản lý xã hội với tầm nhìn
hạn hẹp, kém cỏi vừa mới hô hào, kêu gọi bùng nổ dân số, thực hiện kế hoạch hóa
dân số thì nay đã lo lắng về việc tăng sinh, kêu gọi đẻ nhiều thêm.
Và lý do phải gia tăng sinh đẻ là để
tiêu thụ sản phẩm hàng hóa thừa và làm nô lệ cho xã hội, cho cuộc đời, cho
chính mình. Những lý do mà có lẽ các nhà quản lý, giới lãnh đạo sẽ giật mình
khi một lúc nào đó dừng lại và bất chợt nhận ra sự điều tiết xã hội của tự thân
cùng hệ thống quản lý đất nước là vô cùng kém cỏi, nông nổi và ngu muội. Sự
điều tiết chủ quan, phiến diện, thiếu tầm và bằng vào lòng tham đã khiến xã hội
cùng con người mất nhiều hơn được.
Tuy nhiên, các nhà quản lý, giới
lãnh đạo xã hội hiện tại vì kém hiểu biết và do bị chi phối bởi lòng tham mù
quáng, niềm tự hào ảo tưởng về cường quốc, về thịnh vượng,… đã không nhận ra
những sai lầm ngớ ngẩn, hạn hẹp.
Nhập cư dân số để đảm bảo lực lượng
lao động nhằm duy trì tốc độ phát triển, vị trí kinh tế ư?
Sẽ có cuộc cạnh tranh mua bán lực
lượng lao động trên toàn thế giới chăng?
Liệu cung có đủ cầu không?
Khi mà dân số các nước đều có dấu
hiệu già đi và giảm sinh. Chỉ có các nước nghèo, kém phát triển là có sự dư
thừa lao động tay nghề kém cùng trình độ. Thế nên, việc tuyển dụng người nhằm
đảm bảo yêu cầu nắm giữ tốc độ phát triển kinh tế nghe chừng khó khăn, vất vả.
Đã có một vài quốc gia với nhận thức
sai lầm khi tiến hành xuất khẩu lực lượng lao động. Việc bán sức lao động người
dân để mang về ngoại tệ cho đất nước. Lẽ ra để thực hiện điều này thì nhà quản
lý phải có một lộ trình, một tư duy táo bạo, đủ tầm.
Nếu nhận thức xuất khẩu lao động để
đổi ngoại tệ thì định hướng phát triển xã hội phải khác đi. Không cần đẩy mạnh
sản xuất hàng hóa trong nước mà phải ra sức đào tạo người lao động trình độ cao
rồi xuất khẩu thì mới là giải pháp khả thi.
Bởi lẽ việc xây dựng cơ sở hạ tầng
sản xuất trong nước mà người lao động đã bỏ sang nước bạn làm nô lệ đồng tiền
cả rồi thì việc mở rộng sản xuất trong nước mà làm gì, phải chăng khó tránh
khỏi thiếu hụt lao động?
Hơn nữa, việc xuất khẩu lao động sẽ
góp phần làm giảm dân số hiện tại cũng như về lâu dài. Thế nên, lực lượng lao
động nội địa về cơ bản sẽ thiếu.
Vậy nên nếu xác định là nước xuất
khẩu lao động để duy trì sự tồn tại đất nước thì việc khuyến khích sinh đẻ là
điều nên làm và là việc cần thiết bậc nhất. Hủy bỏ chương trình kế hoạch hóa
dân số ngay lập tức, cổ động gia tăng sinh đẻ toàn diện. Có người rồi thì ra
sức đào tạo kỹ năng lao động tay nghề cao và xuất khẩu.
Thế là các nhà quản lý, giới lãnh
đạo ở những nước xuất khẩu lao động mặc nhiên sẽ trở thành ông chủ của xã hội.
Vì lẽ việc bán sức dân có trình độ sẽ thu về nguồn ngoại tệ dồi dào. Số tiền đó
sẽ dư thừa khả năng mua lại khối lượng hàng hóa dôi dư ở các nước xuất khẩu
hàng hóa theo định hướng hiện tại. Người dân làm nô lệ đồng tiền nơi nước bạn,
người lao động nước bạn cũng là nô lệ sản xuất hàng hóa. Chỉ có giới lãnh đạo,
những nhà quản lý ở các nước là ông chủ mà thôi.
Có lẽ việc định hướng xây dựng đất
nước dựa vào việc xuất khẩu người lao động sẽ an toàn hơn việc xuất khẩu hàng
hóa ở thời điểm hiện tại. Vì lẽ các sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp đang có
dấu hiệu dư thừa trên phạm vi thế giới.
Phải chăng làm một nhà quản lý cao
cấp cần nên có một tầm nhìn bao quát, tổng thể,… khi đó các nhà quản lý sẽ điều
tiết xã hội phát triển dễ dàng, hợp lý?
Chỉ xét riêng cơ cấu dân số, định
hướng phát triển kinh tế xã hội của Nhật Bản cũng như một vài nước thì sẽ dễ
dàng nhận ra kẽ hở nhằm có định hướng phát triển cho nước nhà.
Có một ngành xuất khẩu tốt hơn cả
ngành xuất khẩu người lao động. Và … về độ bền thu gom ngoại tệ có thể nói là
bền bỉ, lâu dài và ổn định. Đó là ngành xuất khẩu cô dâu chất lượng cao, giá
thành thương lượng “được mua, vừa bán”.
Để đảm bảo tính ổn định lượng ngoại
tệ thu về thì chế tài không xuất khẩu ba mẹ vợ dưới độ tuổi 65 là một giải pháp
hữu hiệu cần được ban hành.
…
Người Nhật cũng như nhiều nước trên
thế giới đang rơi vào tình cảnh tỷ lệ giới mất cân bằng trái tự nhiên. Cụ thể
là nam hiện đang nhiều hơn nữ.
Tại sao lại có sự mất cân bằng trái
tự nhiên này?
Vì lẽ dù là người nữ Nhật đang nâng
tầm ảnh hưởng nơi xã hội nhưng dư âm truyền thống “trọng nam khinh nữ” vẫn thừa
nhận vai trò trụ cột chính của gia đình. Chỉ có con trai mới nối giữ tông đường
dòng họ. Chính vì vậy mà dưới sự hỗ trợ của khoa học tiên tiến, kỹ thuật cao
những bào thai mang giới tính nữ đã bị sát hại hàng loạt.
Chỉ cần nhìn vào tỷ lệ giới tính ở
các nước thì ta sẽ dễ dàng nhận ra việc duy trì dân số có trái với tự nhiên hay
không?
Nếu tỷ lệ sinh nam nhiều hơn nữ thì
100% là việc sinh sản đã trái với tự nhiên. Sinh đẻ tự nhiên luôn đảm bảo giới
tính nữ cao hơn giới tính nam. Đây là điều luôn đúng ít nhất là đến thời điểm
hiện tại. Có lẽ các nhà khoa học, các chuyên gia, những nhà quản lý xã hội
không thể lý giải được vấn đề trên vì đó không là việc họ quan tâm hoặc do đó
là vấn đề siêu hình.
Tôi thì ngay cả vấn đề vô hình cũng
ít nhiều tường tận vì vậy vấn đề siêu hình này tôi cũng đã nhận ra. Vấn đề này
tôi sẽ trình bày rõ hơn ở một bài viết khác.
Có vài lời tôi trình bày nghe có vẻ
sốc nhưng có chăng là tạo ra “cú sốc” trong lòng mọi người còn với riêng tôi
thì việc sốc hiện không có nhiều giá trị.
Và … nước Nhật hiện đang rơi vào
tình cảnh mất cân bằng giới tính nghiêm trọng. Người con gái Nhật không muốn
kết hôn với số lượng lớn. Người đàn ông Nhật e dè người bạn đời Nhật, tỷ lệ nam
cao hơn nữ trong xã hội. Nhằm làm giảm nguy cơ “mất” dân số việc nhập khẩu cô
dâu sẽ được tính đến và không chỉ riêng nước Nhật cần nhập cô dâu.
Thế nên định hướng xây dựng xuất
khẩu cô dâu ở các nước nghèo, kém phát triển là giải pháp tuyệt vời. Đòi hỏi ở
cô dâu sẽ không cao hơn đòi hỏi tay nghề, trình độ ở người lao động. Vậy nên sẽ
giảm thiểu phí đào tạo, đầu tư.
Thêm nữa, cung hiện không đủ cầu nên
không lo sợ đầu ra. Chủ nghĩa thực dụng đang chiếm lĩnh tư duy nhân loại thế
nên “méo mó có hơn không” thế nên đây là kênh đầu tư an toàn.
Dù vậy, việc nâng cao chất lượng sản
phẩm là điều cần tính đến trên phương diện lâu dài. Và… yêu cầu đào tạo là sự
kín đáo, nhu mì, hiền thục,… Sự khéo léo, tinh tế không thật cần thiết. Sự năng
động, hiện đại, rực lửa, nóng bỏng cần che đậy, khỏa lấp vì lẽ người đàn ông
nói chung đang “yếu đuối” dần đi.
Việc tăng sinh cần được đẩy mạnh và
không cần can thiệp giới tính thì việc sản xuất cô dâu hợp tự nhiên sẽ rất dễ
dàng.
Với lượng cô dâu cung ứng dồi dào,
sẵn sàng thì phải chăng giới lãnh đạo các nước nghèo có định hướng xuất khẩu cô
dâu chỉ việc ngồi không mà hưởng?
Khi lượng cô dâu xuất khẩu phân bố
rộng khắp thì phải chăng nguồn ngoại tệ sẽ được rót về thường xuyên cho chính
quốc?
Vì sao?
Vì cô dâu ngoài bổn phận làm mẹ nơi
đất khách, quê người thì không dễ quên cội nguồn, là con của một thế hệ cha mẹ
tảo tần, neo đơn nơi “chôn nhau, cắt rốn”.
Hẳn là định hướng xuất khẩu cô dâu
là định hướng không tệ để xây dựng và phát triển đất nước.
Nhật Bản, bản sắc nhạt nhòa tôi tạm
dừng lại nơi đây.
Cũng xin nhắc lại những câu hỏi:
- Ai đã làm nhạt nhòa bản sắc, khí
tiết, hạnh phúc gia đình, giá trị, cuộc sống tối thiểu của người Nhật?”
- Các nhà quản lý, giới lãnh đạo đất
nước liệu có “gánh nổi” trách nhiệm về lỗi lầm này trước dân tộc, người dân và
đất nước?
Hiển nhiên là không thể đổ hoàn toàn
trách nhiệm trên nhà quản lý đất nước mà phải xét đến các thành phần, tầng lớp
khác của xã hội. Mỗi mỗi đều phải gánh phần trách nhiệm vì sai lầm chung của
dân tộc.
Hy vọng người Nhật sẽ sớm thức tỉnh
để về sau không mãi sống vùi trong nuối tiếc.
Người dân Nhật cần có tiếng nói cho
định hướng xây dựng, phát triển xã hội, đất nước và con người.
…
Sẽ có người nhận ra những ý tưởng
xây dựng, phát triển đất nước có ở bài viết Nhật Bản, bản sắc nhạt nhòa có sự
tà quái và bá đạo. Nhưng hãy khách quan nhìn nhận đó không phải là câu chuyện
viễn tưởng chứa đựng sự hoang đường, không có thật.
Cũng đừng vội đánh giá, phân tích
tôi bởi lẽ những bài viết hiện tại chỉ là hiện tượng chưa bộc lộ hoàn toàn bản
chất. Và dù cho tôi có bộc lộ hết bản chất thì cũng không nên phân tích, đánh
giá tôi vì điều đó là không cần thiết và gần như là điều không thể. Bạn chẳng
thể rõ tôi khi chưa hiểu được chính mình.
Sẽ có những bài viết dù rằng chỉ nói
về tôi nhưng điều đó không nhằm mục đích giúp bạn rõ biết tôi mà chỉ nhằm vào
việc giúp bạn hiểu rõ chính bạn.
Bài viết Việt Nam, trưởng giả nửa
mùa sẽ là bài viết “nặng ký”.
Và bài viết Kẻ rao bán linh hồn sẽ
giúp bạn xác định lại có tiếp tục theo dõi blog Một thoáng Phương Đông nữa hay
là không?
Cảm ơn bạn đã đọc và chia sẻ bài
viết cùng mọi người!
Hẹn gặp lại!
Bài liên quan
Home
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét