Phẩm Nói Với Chúng Học Trò Thanh Văn (P.1)
Thứ Năm, 24 tháng 12, 2015
Lúc bấy giờ, nơi giường bệnh trưởng giả Duy ma cật
khởi niệm:
- Thế Tôn là người đại từ! Lẽ nào ngài ấy lại không
có lòng bi mẫn, nhớ nghĩ đến ta?
Phật biết vậy, liền nói với ngài Xá lợi phất rằng:
- Hãy thay ta đến thăm trưởng giả Duy ma cật.
Xá lợi phất đáp:
- Thưa Thế Tôn? Con không dám kham lãnh đến thăm bệnh
ngài ấy. Vì sao? Nhớ lại vào một dịp con đang tọa thiền trong rừng bên cạnh một
cội cây, lúc ấy ngài Duy ma cật đến bảo con rằng “Thưa ngài Xá lợi phất! Không nhất
thiết phải ngồi bất động như vậy mới là thiền định. Không trụ nơi Tam giới mà
hiện thân khẩu ý mới thiền định. Không khởi diệt tận định mà hiện đủ mọi oai
nghi mới là thiền định. Không rời đạo pháp mà làm các việc phàm phu mới là
thiền định. Tâm không trụ trong cũng không trụ ngoài mới là thiền định. Đối với
các kiến chấp không động mà hành ba mươi bảy phẩm trợ đạo mới là thiền định.
Không đoạn phiền não mà vào Niết bàn mới là thiền định. Nếu mà hành như thế thì
đến được chỗ Phật ấn chứng”. Thưa Thế Tôn, lúc ấy con nghe những lời nói chỉ
biết im lặng vì không thể trả lời. Do vậy con thật không dám đến thăm bệnh ngài
ấy.
Phật nói với ngài Mục Kiền Liên:
- Hãy thay ta đến thăm trưởng giả Duy ma cật.
Ngài Mục Kiền Liên đáp:
- Thưa Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh
ngài ấy. Vì sao? Nhớ lại vào một dịp con vào trong thành Tỳ da ly ở nơi xóm
làng diễn nói pháp cho các hàng cư sĩ, lúc ấy trưởng giả Duy ma cật đến bảo
rằng “Này ngài Mục Kiền Liên, nói pháp cho cư sĩ tại gia, không phải như cách
ngài nói vậy. Vì nói pháp phải tùy tâm người cầu pháp mà nói. Pháp không chúng
sinh, pháp lìa cả phiền não chúng sinh. Pháp không có tôi, pháp lìa cả cái của
tôi. Pháp không có sinh diệt, pháp lìa cả sinh diệt. Pháp không có nhân duyên,
lìa tướng trước sau. Pháp thường vắng lặng, bặt hết danh tướng. Pháp lìa các
tướng, không hạn cuộc bởi duyên sinh. Pháp không danh tự, dứt đường ngôn ngữ.
Pháp không nói năng, lìa mọi quán chiếu. Pháp không sắc tướng, như là hư không.
Pháp không hí luận, rốt ráo rỗng không. Pháp không phân biệt, lìa các thức.
Pháp không so sánh, lìa tướng đối đãi. Pháp không thuộc nhân, pháp không nhờ
duyên. Pháp đồng tự tánh, pháp là vạn pháp. Pháp tùy chân như, pháp không có
chỗ tùy. Pháp là thực tế, pháp không trụ nhị biên - Hữu Vô, Thường Đoạn. Pháp
không lay động, không nương sáu trần. Pháp không đến đi, thường không dừng
lặng. Pháp là không, tùy vô tướng, ứng vô tác. Pháp lìa tốt xấu, không thêm
không bớt. Pháp không sinh diệt. Pháp không chỗ về. Pháp ngoài mắt tai mũi lưỡi
thân ý, pháp không cao thấp, pháp thường trụ vô thường. Pháp lìa tất cả quán
chiếu. Vậy hỏi ngài Mục Kiền Liên! Pháp mà như thế có thể diễn nói không? Thêm
nữa, người thuyết pháp không nói, không chỉ bày; Người nghe cũng không nghe,
không được. Việc thuyết pháp phải như là nhà huyễn thuật nói pháp cho người
huyễn hóa nghe, phải dụng tâm như thế mà nói pháp. Ngài phải rõ căn cơ của
chúng sinh có sự thông minh, ngu tối chẳng đồng, khéo léo điều phục tri kiến
chúng sinh mà không có sự chướng ngại e dè, sợ sệt, thường lấy tâm đại bi ngợi
khen pháp đại thừa, nghĩ nhớ việc đền ơn Phật, chớ để đoạn dứt Tam Bảo. Ngài
nói pháp được như vậy mới nên thuyết Pháp”. Khi ngài Duy ma cật diễn nói pháp
ấy xong, tám trăm cư sĩ được nghe đã phát bồ đề tâm bất thoái chuyển. Con không
biện tài được như thế nên không dám đến thăm bệnh ngài ấy.
Phật nói với ngài Ma ha Ca diếp:
- Hãy thay ta đến thăm trưởng giả Duy ma cật.
Ma ha Ca diếp đáp:
- Thưa Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh
ngài ấy. Vì sao? Vì một dịp nọ, khi con khất thực ở xóm nhà nghèo, lúc ấy
trưởng giả Duy ma cật đến vấn con rằng “Này ngài Ma ha Ca diếp! Phải chăng lòng
từ bi của ngài không có sự rộng khắp nên ngài xa lánh nhà giàu mà chỉ đến nhà
nghèo? Ngài Ca diếp! Có phải ở pháp bình đẳng là nên khất thực theo tuần tự thứ
lớp? Vì không ăn mà đi khất thực, vì hiện tướng hòa hợp mà dùng cơm, vì không
nhận mà nhận món ăn của người, vì tướng không nhóm họp mà vào làng xóm, chỗ
đông người, có thấy sắc cũng như người đui, có nghe tiếng cũng như âm vang, có
nghe mùi hương cũng như gió thoảng, lúc nếm vị không phân biệt vị, chạm các vật
bằng trí tuệ bát nhã, biết các pháp tướng như huyễn, không có tánh trong, tánh
ngoài, trước vốn không sinh, nay cũng không diệt. Ngài Ca diếp! Nếu có thể
không bỏ tám pháp tà vạy mà vào bát chánh đạo, dùng tướng tà mà vào chánh pháp,
dùng một bữa ăn mà bố thí cho tất cả chúng sinh, thường nhớ nghĩ đến bi nguyện của
chư Phật, các bậc thánh hiền rồi mới ăn. Ăn như thế, không phải có phiền não,
không phải rời phiền não, không phải có ý ăn, không phải rời ý ăn, không phải ở
thế gian, không phải ở Niết bàn, người thí không có phước lớn, không có phước
nhỏ, không được lợi ích, không bị tổn hại, đó chính là vào Phật đạo mà không
theo hạnh Thanh văn. Ngài Ca diếp! Nếu ăn như thế thì không luống uổng đồ cúng
dường của người. Thưa Thế Tôn! Lúc nghe trưởng giả Duy ma cật nói lời ấy con tỏ
ngộ được điều chưa từng có, càng sâu khởi tâm cung kính tất cả các vị Bồ tát.
Con lại nghĩ rằng trưởng giả Duy ma cật là một đại học sĩ nên mới có được biện
tài được như thế. Những ai mà được nghe trưởng giả Duy ma cật nói hẳn sẽ đều
phát tâm vô thượng bồ đề. Nương theo trí tuệ của ngài Duy ma cật về sau con không
lấy hạnh Thanh văn thừa, Bích Chi Phật chỉ bày cho người đến tham học, do vậy
con không kham lãnh đến thăm bệnh ngài ấy.
Phật nói với ngài Tu bồ đề:
- Hãy thay ta đến thăm trưởng giả Duy ma cật.
Ngài Tu bồ đề đáp:
- Thưa Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm ngài ấy.
Vì sao? Nhớ lại thuở trước, con vào khất thực nơi nhà ông, lúc đó trưởng giả
Duy ma cật lấy cái bát của con đựng đầy cơm rồi nói rằng “Thưa ngài Tu bồ đề!
Đối với món ăn bình đẳng thì các pháp cũng bình đẳng, các pháp bình đẳng thì
món ăn cũng bình đẳng, đi khất thực như thế mới nên lãnh món ăn. Cũng như ngài
Tu bồ đề không trừ dâm nộ si cũng không chung cùng với nó, không hoại thân mình
mà tùy hỷ trang nghiêm, không dứt si ái mà khởi sự giải thoát, ở nơi tướng ngũ
nghịch mà đặng giải thoát, không mở cũng không buộc, không thấy tứ đế cũng
không phải không thấy tứ đế, không phải đắc quả cũng không phải không đắc quả,
không phải phàm phu cũng không phải rời phàm phu, không phải thánh nhân, không
phải không thánh nhân, tuy lập tất cả các pháp mà rời tướng các pháp, thế mới
nên lấy món ăn. Cũng như nếu ngài Tu bồ đề không gặp Phật, không được nghe
chánh pháp thì bọn lục sư ngoại đạo - Phú lan na Ca diếp, Mạc dà lê Câu xa lê
tử , San xà dạ tỳ la chi tử, A kỳ đa xy xa khâm bà la, Ca la cưu đà Ca chiên
diên, Ni kiền đà nhã đề tử - thảy đều là thầy của ngài. Ngài theo ngoại đạo
xuất gia, bọn lục sư ngoại đạo đọa, ngài cũng đọa theo, ngài mới nên nhận lấy
món ăn. Này ngài Tu bồ đề! Nếu ngài vào nơi tà kiến, không đến bờ giác, ở nơi
tám nạn, không được khỏi nạn, đồng với phiền não, lìa pháp thanh tịnh, ngài
được Pháp ấn tam muội, tất cả chúng sinh cũng được tam muội ấy, những người thí
cho ngài chẳng gọi phước điền, những kẻ cúng dường cho ngài đọa vào ba đường
ác, ngài cùng với ma nắm tay nhau làm bạn lữ, ngài cùng với các ma và các trần
lao như nhau không khác, ngài như tất cả chúng sinh có lòng oán hận, hủy báng
Phật, chê bai Pháp, không vào Tăng đoàn, hoàn toàn không được diệt độ, nếu ngài
được như thế mới nên lấy món ăn. Thưa Thế Tôn! Lúc con nghe được những lời ấy,
tâm trí con trở nên tối tăm, mờ mịt. Con không biết nên nói gì, cũng không thể
trả lời, con chỉ muốn để bát lại và nhanh chóng rời đi. Như biết được tâm ý con
trưởng giả Duy ma cật nói tiếp “Thưa ngài Tu bồ đề! Ngài đừng kinh hoảng cứ
nhận lấy bát mà về. Ý ngài nghĩ sao? Ví như Phật hóa hiện ra một người huyễn
hóa và nếu người huyễn hóa đó đem việc này hỏi ngài, chừng ấy ngài có sợ
chăng?”. Con đáp “Không sợ”. Trưởng giả Duy ma cật lại nói “Tất cả các pháp là
tướng huyễn hóa, ngài không nên có tâm sợ sệt. Vì sao? Vì tất cả lời nói đều không
thể lìa tướng huyễn hóa, do vậy người trí vì không chấp văn tự, ngôn thuyết nên
không khởi sự sợ sệt, hoang mang. Vì sao thế? Vì tánh văn tự vốn không ràng
buộc, do vậy không dính mắc văn tự đó là giải thoát. Tướng giải thoát chính là
các pháp”. Khi trưởng giả Duy ma cật nói xong bài pháp ấy có đến hai trăm Thiên
tử chứng pháp nhãn thanh tịnh. Vì thế con không kham lãnh đến thăm ngài ấy.
Phật nói với ngài Phú lâu na di đa la ni tử:
- Hãy thay ta đi thăm trưởng giả Duy ma cật.
Phú lâu na đáp:
- Thưa Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm ngài ấy.
Vì sao? Nhớ lại trước kia, ở nơi rừng lớn, dưới gốc cây con nói pháp cho các Tỳ
kheo mới học Phật, lúc đó cư sĩ Duy ma cật đến nói “Thưa ngài Phú lâu na! Ngài
nên nhập định trước để quán sát tâm địa của những người này, rồi sau mới nên
nói pháp. Ngài chớ đem món ăn dơ để trong bát báu, phải biết rõ tâm niệm của
các vị Tỳ kheo này, chớ ngộ nhận ngọc lưu ly là thủy tinh, chớ nên dùng pháp
tiểu thừa mà phát khởi cho họ, những người kia tự không có tì vết, chớ làm cho
họ có tì vết, họ muốn đi đường lớn, chớ chỉ lối nhỏ. Ngài chớ nên đem biển lớn
để vào dấu chân trâu, chớ cho rằng ánh sáng mặt trời đồng với ánh sáng loài đom
đóm. Ngài Phú lâu na! Những vị Tỳ kheo này đã phát tâm đại thừa từ lâu, giữa
chừng quên lãng, nay tại sao ngài lại lấy pháp tiểu thừa dẫn dắt họ? Phải chăng
khả năng quán chiếu của trí tuệ tiểu thừa ở giới Thanh văn học Phật nông cạn
như chỗ thấy của người mù, do vậy không thể phân biệt được căn tánh lợi độn của
chúng sinh. Lúc bấy giờ, trưởng giả Duy ma cật liền nhập chánh định giúp cho
những vị Tỳ kheo đó biết được kiếp trước của mình đã từng ở 500 đức Phật vun
trồng các cội đức, hồi hướng về đạo vô thượng bồ đề, liền đó họ thấu suốt mà
nhận lại bản tâm đại thừa. Khi ấy, các vị Tỳ kheo cúi đầu tiếp đất đảnh lễ
trưởng giả Duy ma cật. Nhân đó, ngài Duy ma cật nói pháp khiến cho tất cả không
còn thoái lui nơi đạo vô thượng bồ đề. Con nghĩ hàng Thanh văn như con không
quán được căn cơ của người khác, do vậy không nên nói Pháp. Vì thế con không
kham lãnh đến thăm ông ấy.
Phật nói với ngài Ma ha Ca chiên diên:
- Hãy thay ta đến thăm trưởng giả Duy ma cật.
Ngài Ca Chiên Diên đáp:
- Thưa Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm ngài ấy.
Vì sao? Nhớ lại lúc trước, con được nghe Phật nói chỗ tinh yếu, thâm sâu nơi
các pháp cho chúng Tỳ kheo, sau này con diễn nói lại nghĩa ấy, là những nghĩa
vô thường - khổ - không - vô ngã - tịch diệt. Lúc ấy, ngài Duy ma cật đến và
nói “Thưa ngài Ca chiên diên! Ngài chớ nên đem tướng sinh diệt mà nói nghĩa
thật tướng. Ngài Ca chiên diên! Các pháp rốt ráo không sinh, không diệt là thật
nghĩa của vô thường. Năm ấm - sắc thọ tưởng hành thức - đều rỗng không, không
chỗ khởi là thật nghĩa của khổ, các pháp rốt ráo không là thật nghĩa của không,
ngã và vô ngã không hai là thật nghĩa của vô ngã. Pháp trước không sinh, nay
cũng không diệt là thật nghĩa của tịch diệt. Khi trưởng giả Duy ma cật nói xong
thời pháp ấy thì các vị Tỳ kheo kia đều được giải thoát hoàn toàn. Vì thế, con
không kham lãnh đến thăm ngài ấy.
Phật nói với ngài A na luật:
- Hãy thay ta đi thăm trưởng giả Duy ma cật.
Ngài A na luật đáp:
- Thưa Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh
ngài ấy. Vì sao? Nhớ lại lúc trước, con đang đi kinh hành, khi ấy có vị Phạm
thiên tên Nghiêm Tịnh, cùng với một muôn Phạm thiên khác, phóng ánh sáng tinh
sạch rực rỡ đến chỗ con cúi đầu làm lễ và hỏi “Thưa ngài A na luật! Thiên nhãn
của ngài thấy xa được bao nhiêu?”. Con liền đáp “ Thưa nhân giả, tôi thấy cõi
Tam thiên Đại thiên thế giới ở cõi Phật Thích Ca Mâu Ni đây như thấy trái Am ma
lặc đặt trong lòng bàn tay”. Lúc đó ngài Duy ma cật đến nói “Thưa ngài A na
luật ! Thiên nhãn của ngài thấy đó là do làm ra tướng mà thấy hay không làm ra
tướng mà thấy? Nếu như là do làm ra tướng mà thấy thì khác gì cái thấy của ngũ
thông ngoại đạo; Ngược lại, nếu không do làm ra tướng thì là vô vi - không lập,
không lập tướng lẽ ra phải là không thấy?” Thưa Thế Tôn! Lúc ấy, con chỉ biết
nín lặng. Các vị Phạm thiên nghe ngài Duy ma cật nói lời ấy rồi đặng chỗ chưa
từng có, liền làm lễ và hỏi “Thưa ngài! Ai là người có chân thiên nhãn?”.
Trưởng giả Duy ma cật đáp “Chỉ có Phật - Thế Tôn được chân thiên nhãn, Người
thường ở chánh định thấy suốt các cõi Phật không có hai tướng”. Khi ấy Nghiêm
Tịnh Phạm thiên cùng quyến thuộc năm trăm Phạm thiên đều phát tâm vô thượng bồ
đề, đồng đảnh lễ dưới chân cư sĩ Duy ma cật và biến mất. Vì thế, con không kham
lãnh đến thăm bệnh ngài ấy.
Phật nói với ngài Ưu ba ly:
- Hãy thay ta đi thăm trưởng giả Duy ma cật.
Ngài Ưu ba ly đáp:
- Thưa Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm ngài ấy.
Vì sao? Con nhớ lại ngày trước có hai vị Tỳ kheo vi phạm giới luật, họ không dám
gặp Phật mà đến hỏi con “Thưa ngài Ưu ba ly! Chúng tôi phạm giới luật thật lấy
làm hổ thẹn, không dám hỏi Phật, rất mong nhờ ngài giải rõ để chúng tôi sám hối
rửa sạch tội lỗi”. Con liền y theo pháp diễn nói. Bấy giờ ngài Duy ma cật đến
nói “Thưa ngài Ưu ba ly! Ngài chớ kết thêm tội cho hai vị Tỳ kheo này, phải trừ
dứt ngay, chớ làm rối loạn lòng họ. Vì sao? Vì tội lỗi không ở trong, không ở
ngoài, không ở khoảng giữa. Như lời Phật nói “Tâm dơ nên chúng sinh dơ, tâm
sạch nên chúng sinh sạch. Tâm cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng
giữa. Tâm kia như thế nào thì tội lỗi cũng như thế ấy. Các pháp cũng thế không
ra ngoài chân như”. Hỏi ngài Ưu ba ly “Khi tâm giải thoát thì tội lỗi có còn
chăng?”. Con đáp “Không”. Trưởng giả Duy ma cật nói tiếp “Tất cả chúng sinh tâm
tướng không dơ cũng như thế? Thưa ngài Ưu ba ly! Vọng tưởng là dơ, không vọng
tưởng là sạch; Điên đảo là dơ, không điên đảo là sạch; Chấp ngã là dơ, không
chấp ngã là sạch. Ngài Ưu ba ly! Tất cả pháp sinh diệt không dừng như huyễn, như
hóa; Các pháp không chờ nhau cho đến một niệm không dừng; Các pháp đều là hư
vọng, như chiêm bao, như nắng dợn, như trăng dưới nước, như bóng trong gương,…
thảy đều do vọng tưởng mà có. Người nào biết nghĩa này gọi là giữ giới luật,
người nào rõ nghĩa này gọi là khéo hiểu”. Lúc đó hai vị Tỳ kheo khen rằng
“Trưởng giả Duy ma cật quả thật là vị thiện tri thức đáng kính! Ngài Ưu ba ly
không thể sánh kịp, trưởng giả là người lấy giới luật trang nghiêm thân mà
không khởi niệm có giới để giữ”. Con đáp rằng “Trừ trí tuệ Phật ra, thật sự là
chưa có vị Thanh văn hay Bồ tát nào có thể ứng đối chỗ nhạo thuyết biện tài của
trưởng giả Duy ma cật. Trí tuệ của ngài ấy thông suốt, vô ngại”. Khi ấy, hai vị
Tỳ kheo dứt hết nghi tâm, liền phát tâm vô thượng bồ đề và phát nguyện rằng
“Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được biện tài như vậy”. Vì thế, nên con không
kham lãnh đến thăm bệnh ngài ấy.
Phật nói với ngài La hầu la:
- Hãy thay ta đi thăm trưởng giả Duy ma cật.
Ngài La hầu la đáp:
- Thưa Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh
ngài ấy. Vì sao? Nhớ lúc trước, có con các vị trưởng giả ở thành Tỳ da ly đến
gặp, sau khi cúi đầu làm lễ họ hỏi con rằng “Thưa ngài La hầu la! Ngài là con
của Phật, người vì đạo vô thượng bỏ ngôi Chuyển luân Thánh vương mà xuất gia,
việc xuất gia đó có những lợi ích gì?”. Con liền đúng theo pháp mà nói sự ích
lợi của công đức xuất gia. Lúc đó, trưởng giả Duy ma cật đến nói rằng “Thưa
ngài La hầu la! Ngài không nên nói cái lợi của công đức xuất gia. Vì sao? Không
lợi, không công đức mới thật là xuất gia. Về pháp thế gian, có thể gượng nói có
lợi ích, có công đức khi xuất gia; Tuy nhiên, với pháp xuất thế gian thì không
lợi ích, không công đức mới là chân xuất gia. Này ngài La hầu la! Vả lại xuất
gia là không kia, không đây, cũng không ở chính giữa; Rời sáu mươi hai món kiến
chấp, lìa nơi Niết bàn, là chỗ thông đạt của người trí, chỗ làm của hiền thánh,
hàng phục các ma, ra khỏi sáu đường, sạch ngũ nhãn, đặng ngũ lực, rời ngũ căn,
không làm não loạn người khác, dứt các việc tạp ác, hàng phục ngoại đạo, vượt
khỏi giả danh, ra khỏi bùn lầy, không bị ràng buộc, không ngã sở, không chỗ
thọ, không rối loạn trong lòng, ưa hỗ trợ người khác, tùy thuận thanh tịnh. Nếu
được như thế mới thật là xuất gia”.
Liền đó, ngài Duy ma cật nói với con các vị trưởng
giả:
- Mọi người nay đang ở thời chánh pháp hãy nên cùng
xuất gia. Vì sao? Vì Phật ra đời rất khó gặp.
Các chàng thanh niên trẻ đáp:
- Thưa thiện tri thức! Chúng tôi nghe Phật thuyết
“Cha mẹ không cho, không được xuất gia”.
Trưởng giả Duy ma cật ứng đáp:
- Đúng thế. Song mọi người nên biết khi phát tâm vô
thượng bồ đề thì chính đã là xuất gia, ngay khi ấy liền thọ trì đủ đầy giới
luật và giáo lý chánh pháp.
Nghe vậy, ba mươi hai vị con nhà trưởng giả đều phát
tâm vô thượng bồ đề. Vì thế con không kham lãnh đến thăm bệnh ngài ấy.
Phật nói với ngài A Nan:
- Hãy thay ta đi thăm trưởng giả Duy ma cật
Ngài A Nan cũng thoái thác:
- Thưa Thế Tôn! Con không kham lãnh đến thăm bệnh
ngài ấy. Vì sao? Nhớ lại lúc trước, Thế Tôn có bệnh, con đã cầm bát đến đứng
trước cửa nhà một vị Bà la môn chờ cúng dường sữa bò. Lúc bấy giờ, trưởng giả
Duy ma cật đến hỏi “Này ngài A Nan! Làm gì cầm bát đứng đây sớm thế?”. Con đáp
“Thưa cùng trưởng giả, Thế Tôn đang có bệnh nên cần dùng sữa bò để mau chóng
khôi phục thể trạng mạnh lành, vì thế tôi đến đây chờ sự cúng dường”. Trưởng
giả Duy ma cật nghe rồi liền nói “Ngài A Nan đừng bao giờ nói lời như thế! Như
Lai là thân bất hoại, các hạnh ác đã dứt, các hạnh lành đủ đầy, Như Lai đâu còn
có bệnh, không còn có gì não hại được Như Lai. Ngài hãy im lặng mà đi, chớ phỉ
báng Như Lai, chớ để người khác nghe những lời nói như thế, chớ làm cho các trời
Phạm thiên và Bồ tát từ các cõi thanh tịnh nghe được lời ấy. Ngài A Nan này!
Chuyển luân Thánh vương có ít phước báu còn không tật bệnh, huống chi Như Lai
đã đủ đầy tất cả phước báu. Hãy đi đi, ngài A Nan! Chớ làm cho chúng tôi chịu
sự ô nhục đó, hàng ngoại đạo Phạm chí nếu nghe lời ấy hẳn sẽ nghĩ rằng “Sao
được xưng tụng là vị thầy thuốc lớn đủ khả năng trị hết thảy bệnh của tất cả chúng
sinh mà bệnh của mình còn không trị dứt, nếu đã vậy thì làm sao có thể trị được
bệnh người khác?”. Ngài hãy nên đi mau, chớ để cho mọi người biết. Ngài A nan
này! Hãy nên nhớ thân Như Lai chính là Pháp thân, không phải thân do ái dục mà
hợp thành. Phật là bậc Thế Tôn hơn hết ba cõi, thân Phật là dứt sạch nghiệp
chướng, phiền não, tâm thường thanh tịnh, thân Phật là vô nhiễm, không hạn
lượng, thân như thế đâu còn có bệnh?”. Thưa Thế Tôn! Lúc đó, con thật rất hổ
thẹn, bất chợt con khởi nghĩ lẽ nào con đã nghe lầm lời Phật nói. Chợt nghe
giữa hư không có tiếng nói rằng “ Ngài A Nan! Đúng như lời cư sĩ Duy ma cật đã
nói, nhưng chỉ vì ứng nơi đời ác trược nên Phật thị hiện ra việc ấy để độ thoát
chúng sinh. Ngài A Nan! Hãy đi lấy sữa chớ có thẹn”. Thưa Thế Tôn! Trưởng giả
Duy ma cật trí tuệ biện tài dường ấy, cho nên con không kham lãnh đến thăm bệnh
ngài ấy.
Cứ như vậy, lần lượt 500 học trò lớn của Phật trình
bày với Phật chỗ chướng ngại khi đối mặt tham vấn vị trưởng giả Duy ma cật, họ
đồng khen ngợi chỗ biện tài bất khả tư nghị của vị cư sĩ và đều thoái thác việc
đến thăm bệnh.
(Còn tiếp)
Bài liên quan
- Phẩm Văn Thù Sư Lợi Đi Thăm Bệnh
- Phẩm Trò Chuyện Cùng Các Vị Bồ Tát (P.2)
- Phẩm Trò Chuyện Cùng Các Vị Bồ Tát (P.1)
- Phẩm Nói Với Chúng Học Trò Thanh Văn (P.2)
- Phẩm Pháp Phương Tiện - Sự Quyền Biến
- Phẩm Cõi Nước Phật Thích Ca
- Liễu giải kinh Duy ma cật sở thuyết
- Phẩm Căn Dặn
- Phẩm Pháp Cúng Dường
- Phẩm Được Thấy Phật A Súc
- Phẩm Hạnh Bồ Tát
- Phẩm Phật Hương Tích
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét