Nhận diện sai lầm (P.1)
Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2016
Chương IV
Nhận Diện Sai Lầm
I. Khoa học.
Khoa học đang định
hướng dựa trên hàng loạt những sai lầm và đã có không ít tiền của nhân loại
được dùng phí phạm cho tri thức sai lầm đó.
Khoa học đang tìm
cách trả lời câu hỏi “Vũ trụ là có giới hạn hay không có giới hạn?”.
Và sẽ vĩnh viễn không có câu trả lời đúng, cuối cùng cho câu hỏi đó. Vì sao? Vì
câu trả lời tùy thuộc vào tầm nhìn của kính viễn vọng và các trang thiết bị
quan sát hiện đại không ngừng phát triển đã làm tiêu tốn một lượng tiền của,
vật chất khổng lồ. Mỗi khi con người tiến xa hơn thì sẽ nhìn thấy nhiều hơn
nhưng không thể nhìn thấy được hết toàn phần vũ trụ và đôi khi nhìn lại thì con
người lại nhận biết rằng “Ta đã đánh mất rất nhiều thứ”. Câu hỏi “Vũ trụ hữu
biên hay vô biên?”, đó thật sự là một câu hỏi sai nên không thể có được câu trả
lời đúng và dẫn đến nhiều sai lầm khác. Việc tìm câu trả lời “Vũ trụ có giới
hạn không?” giống như là việc lớn lên của một con người. Khi còn bé, đứa bé chỉ
quanh quẩn trong nhà. Đứa bé nhìn ra khoảng trời bên ngoài nhận biết sự rộng
lớn xung quanh ngôi nhà, đứa bé e dè, sợ sệt thế giới bên ngoài. Tầm nhìn của
đứa bé là vũ trụ chỉ giới hạn xung quanh ngôi nhà. Lớn lên, hiểu biết thêm một
chút đứa trẻ nhận định “Vũ trụ chỉ giới hạn nơi chú sống, có thể là một vùng
quê nghèo hoặc một thành phố lớn”. Sau đó, chàng trai trẻ hiểu biết hơn “Đất
nước mình chỉ là một hành tinh và vũ trụ bao gồm nhiều hành tinh giống như đất
nước mình đang sống”. Chàng trai trẻ háo hức lên đường tìm hiểu những hành tinh
xa xôi như nước Đức, Anh, Pháp, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nam Phi,... và
chàng trai dần tin rằng “Vũ trụ là không có giới hạn” nhưng chàng trai lại đi
tìm “Sự không giới hạn của vũ trụ”. Cho đến khi chàng trai không còn trẻ, người
đàn ông quay về đất nước, về nơi đã sinh ra. Cha mẹ, dòng tộc không còn ai.
Người đàn ông nhận ra rằng “Quê hương, đất nước - Nơi được sinh ra mà con người
còn không rõ biết”. “Vũ trụ là vô biên hay hữu biên?” đã cướp mất tuổi trẻ,
hạnh phúc, gia đình và cả sự hiểu biết về cội nguồn của con người. Phần lớn tài
sản của gia đình không còn vì người đàn ông đã ném chúng vào khoảng không vô
nghĩa. Người đàn ông không còn trẻ cô độc sống hết những ngày còn lại với câu
hỏi “Ta là ai?”. Cũng lại như vậy ngành khoa học vũ trụ đang “Ném tiền qua cửa
sổ” để nhìn ngắm “Sự huyền ảo của vũ trụ về đêm”. Họ cứ ngỡ “Họ đang ở ngoài vũ
trụ”. Thế nên sự đói nghèo, dịch bệnh, chiến tranh, thiên tai,… sẽ không ảnh
hưởng đến họ. Nếu may mắn trái đất còn tồn tại thì ngày họ trở về sẽ nhận biết
“Ta chẳng còn ai” và cô độc sống với những chuỗi ngày còn lại trong sự mông
lung, huyễn hoặc.
Với khối lượng tiền
của được hỗ trợ dồi dào, nhân loại cần một câu trả lời
về thành tựu mà khoa học thu được. Hình ảnh kỳ ảo của vũ trụ, những thiên
hà, ngân hà, khái niệm về vật chất tối, năng lượng tối, lỗ đen vũ trụ,… Sự hình
thành và biến diệt của những hành tinh, những thiên hà,… Lỗ đen nuốt chửng và
làm mất hút những hành tinh,… Giá trị của thành tựu khoa học đạt được dựa trên
định hướng sai lầm thật sự không có nhiều ý nghĩa và tự có khiếm khuyết. Lỗ đen
làm mất hút hoàn toàn vật chất là do sự giới hạn của tri thức khoa học. Điều
này không đúng với định luật bảo toàn vật chất với đại ý “Vật chất không tự
sinh ra cũng không tự mất đi, vật chất chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác,
từ nơi này sang nơi khác”. Định luật bảo toàn vật chất về cơ bản không có sự
khiếm khuyết.
Điều mà các nhà thiên
văn học nhận biết, thu được ngoài không gian không có nhiều khác biệt so với
việc nghiên cứu vật chất ở cấp độ phân tử, nguyên tử. Trong đó hình ảnh kỳ ảo
của các thiên hà, ngân hà là hình ảnh các nguyên tử kim loại, tinh thể phi kim
được phóng đại cực lớn. Hạt nhân là hành tinh, electron là vệ tinh, proton,
nơtron, điện tích âm, dương, từ trường là năng lượng tối, vật chất tối,… Sự
trao đổi electron giữa các nguyên tố là lỗ đen hút mất vật chất và thực tế vật
chất vốn không mất đi. Phải chăng việc tìm hiểu khoa học không gian cũng như
nghiên cứu khoa học ở cấp độ nguyên tử, phân tử dường như cũng không sai khác
nhiều với việc tìm hiểu dòng chảy của con sông với bên lở, bên bồi hoặc tìm
hiểu sự sinh trụ dị diệt của vật chất, hay vòng sinh lão bệnh tử của con người?
Tất cả chỉ là những biến chuyển chứ không là quá trình diệt tận.
Sự thật là có rất nhiều
việc gần gũi, thiết thực với chính tự con người mà bạn còn không rõ biết. Mục
đích sống thực sự của bạn là “Đi tìm và bắt lấy điều gì?”. Khi bạn không có mục
tiêu rõ ràng bạn chỉ quẩn quanh mà không thu được những kết quả cụ thể.
Lý thuyết
về Vụ Nổ Lớn - Bigbang đã tự có sai lầm. Giả thuyết cho rằng “Vụ Nổ Lớn là
khởi nguồn cho việc hình thành vũ trụ và trái đất” là không có cơ sở. Vì để tạo
ra được vụ nổ thì trước đó đã phải có vật chất chứ không thể có việc không có
gì mà xảy ra một Vụ Nổ Lớn. Nếu giả định này là đúng thì vật chất có trước Vụ
Nổ Lớn mới tạm gọi là khởi nguồn của vũ trụ.
Từ lâu đã có một luồng
tri thức nhân loại tin rằng “Sẽ có một ngày con người vượt qua giới hạn không
gian, thời gian để chụp lại hình ảnh của Vụ Nổ Lớn cũng như là hình ảnh của vũ
trụ, trái đất thời sơ khai”. Điều này có thể không? Cơ sở đưa ra giả định này
có phần phức tạp nhưng nhằm đơn giản thì giả định trên dựa vào cơ sở “Hai người
xuất phát tại cùng một vị trí cách La Mã 5000 km, người đi bộ trước 12 tháng,
người còn lại đi tàu cao tốc. Vì thế hiển nhiên là người đi tàu cao tốc sẽ bắt
gặp, vượt qua và đến La Mã trước người đi bộ. Giả thuyết có vẻ hợp lý nhưng lại
có lỗ hổng, người đi tàu cao tốc vượt qua người đi bộ chứ không thể vượt qua
thời điểm nơi chính anh xuất phát và anh cũng không thể nhìn thấy bản thân tại
nơi xuất phát khi đến được La Mã”. Lý thuyết về cỗ máy vượt không gian, thời
gian đã không thực tế. Tôi 40 tuổi không thể vượt không gian, thời gian 20 năm
để gặp tôi 20 tuổi. Vì khi đó tôi 40 tuổi gặp tôi 20 tuổi, vậy ai là tôi? Vật
chất nào tạo ra tôi 20 tuổi, vật chất nào tạo ra tôi 40 tuổi? Sai lầm tiếp nối
những sai lầm.
Y học hiện
đại đang nghiên cứu tế bào mầm, phôi thai người, sinh sản
vô tính,… để tạo ra các cơ quan bộ phận cấy ghép cho người bệnh nhằm hạn
chế việc mua bán nội tạng người sống. Vấn đề dường như thể hiện tính nhân đạo,
là việc cứu người. Nhưng xét lại cũng là việc “Giết nhiều người, cứu một
người”. Xem ra cũng không phải là việc làm hợp đạo. Y đức của người thầy thuốc
sẽ xấu hổ khi làm việc trái lương tâm. Con người, có ai mà không chết? Khi
người bệnh nhận thức, rõ biết điều đó thì sẽ không vì mạng sống của bản thân mà
phải lấy đi sự lành lặn, toàn vẹn của một người còn sống khác. Sự hiểu biết sẽ
làm thay đổi nhận thức, giá trị con người.
Khoa học phát triển
không ngừng. Hàng loạt vũ khí hủy diệt, tên lửa tối tân, chiến hạm hiện đại,
siêu bom hạt nhân,... dùng để giết rất nhiều người. Khi đó, những con người tạo
ra chúng vênh vênh tự đắc “Đây là một thành tựu vượt bậc của khoa học hiện đại”.
Họ thờ ơ hay quên mất việc “Họ đang tạo ra một món đồ dùng để giết rất nhiều
đồng loại” và đôi khi món đồ lấy mạng của chính họ. Nhân loại vẫn cứ vô tâm,
bàng quan “Chuyện của thiên hạ”.
Tôi tự thẹn
và miễn cưỡng mượn lời người xưa nói lại “Người hiểu biết không
đi mà biết, không nhìn mà thấy rõ”.
Nhân
tiện tôi sẽ viết lại một câu chuyện được trích trong tác phẩm “Đường
Xưa Mây Trắng” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Đỉnh
Cao Của Nghệ Thuật
Con đường
này Phật đã từng đi. Người đi thong thả và ngắm nhìn cảnh vật.
Trời gần
trưa, người ghé khất thực ở một xóm ven đường, rồi người mang
bát đi vào một khu rừng yên tĩnh gần đó để thọ trai.
Thọ trai xong, Phật đi kinh hành trong rừng và sau đó người tìm một
gốc cây im mát ngồi xuống để tĩnh tọa. Được sống trở lại một mình trong rừng,
Phật rất hoan hỷ.
Người
ngồi tĩnh tọa được hồi lâu thì thấy một đám thanh niên đi
ngang. Đây chắc là những thanh niên con nhà khá giả bởi
vì người nào cũng ăn mặc tươm tất sạch sẽ. Họ vào khoảng ba mươi người.
Nhiều người cầm nhạc cụ trong tay. Thấy Phật, họ dừng lại, thanh niên đi đầu
cúi chào và hỏi:
- Sa -
môn, ông có thấy một cô gái mới chạy ngang qua đây không?
Phật hỏi
lại:
-
Các bạn tìm cô gái ấy để làm gì?
Người
thanh niên kể lại đầu đuôi câu chuyện. Bọn họ đều là dân thành phố Banarasi. Họ
vào rừng này từ sáng để tổ chức một cuộc vui. Họ có đem theo nhiều nhạc cụ và
một cô vũ nữ. Sau khi đàn hát, múa nhảy và ăn uống, cả bọn đều tìm chốn ngã
lưng để ngủ trưa. Trong khi mọi người ngủ trưa, cô gái đã đánh cắp một số những
đồ châu báu trang sức của bọn con trai và bỏ đi mất. Các chàng trai thức dậy
thấy thế rủ nhau đi lùng bắt cô gái.
Phật nhìn
các chàng trai và trầm tĩnh nói:
- Này các
bạn, trong giờ phút này các bạn nên đi tìm cô gái hay là nên đi tìm chính
các bạn?
Các cậu
con trai ngạc nhiên. Phong thái của ông thầy tu đã đặc biệt
mà câu hỏi của ông ta cũng đặc biệt. Câu hỏi đó làm cho các cậu
giật mình. Họ rủ nhau ngồi xuống, vây quanh Phật. Chàng trai đầu đàn
nói:
- Bạch sa
- môn, có lẽ chúng con nên đi tìm chúng con trước.
Phật nói:
-
Sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại, nhưng tâm ta ít khi
chịu an trú trong giây phút hiện tại. Tâm ta hay ưa
trở về quá khứ hoặc vọng đến tương lai. Ta cứ tưởng
ta là ta, nhưng quả thực ta chưa hề thực sự tiếp xúc ta
với ta, bởi vì tâm ta cứ rong ruổi chạy theo những ảo ảnh của quá khứ và
của vị lai. Chỉ có một phương cách duy nhất để tiếp xúc với sự sống đích thực:
Đó là trở về với giây phút hiện tại. Nếu các em biết trở về với giây phút hiện
tại thì các em trở nên tỉnh thức và lúc đó các em mới có cơ hội tìm được các
em. Các em hãy nhìn những đọt lá xanh và ánh sáng mặt trời đang lọc qua những
đọt lá ấy. Các em đã từng có dịp thật sự ngắm nhìn màu xanh của lá cây trong
trạng thái trầm lặng và tỉnh thức của tâm tư chưa. Màu xanh ấy là một khía cạnh
vi diệu của sự sống. Nếu các em chưa bao giờ thực sự nhìn màu xanh ấy thì bây
giờ đây các em hãy thử nhìn đi.
Các chàng
thanh niên yên lặng. Theo ngón tay trỏ của Phật, họ ngước nhìn những
ngọn lá xanh đang run nhẹ dưới làn gió thoảng của buổi trưa hè.
Một lát sau, Phật quay lại với chàng trẻ tuổi ngồi gần bên người, và nói:
- Em
có ống sáo, vậy em hãy thổi sáo đi.
Chàng
thanh niên hơi ngạc nhiên một chút, nhưng cũng lấy sáo ra. Ngồi lại ngay ngắn,
anh ta đưa sống sáo lên thổi. Mọi người lắng nghe. Tiếng sáo đượm buồn như
tiếng than khóc của một cuộc tình duyên lỡ dỡ. Trong khi anh thổi sáo, mắt Phật
không rời khỏi anh.
Khúc
sáo chấm dứt. Rừng trưa đượm buồn. Mọi người im lặng, Phật cũng im lặng.
Bỗng
nhiên người thanh niên thổi sáo quay lại, cầm đưa ống sáo cho Phật:
- Sa -
môn, ngài thổi sáo đi.
Phật mỉm
cười. Tất cả các chàng trai đều cười rộ. Ai cũng cho anh chàng
là ngộ nghĩnh. Đã có ai đưa ống sáo để bảo một vị sa - môn thổi bao
giờ. Nhưng Phật đã đưa hai tay tiếp nhận ống sáo. Mọi người đều nhìn về vị sa -
môn, sự tò mò trong mỗi người được kích thích.
Phật
thở những hơi thở thật dài và thật nhẹ, rồi người nâng ống sáo
lên ngang miệng. Hình ảnh người con trai thổi sáo năm xưa trong vườn Thượng
Uyển thành Kapilavatthu hiện ra trong Phật. Đó là một đêm trăng. Đó là bà Maha
Pajapati ngồi trên ghế đá đang im lặng lắng nghe. Đó là Yasodhara với đỉnh trầm
thơm mới đổi.
Phật
bắt đầu thổi sáo.
Tiếng sáo
nhẹ như một làn khói nhỏ lơ lửng và nhẹ nhàng đi lên từ một mái tranh
nghèo nào đó ở ngoại thành Kapilavatthu trong giờ nấu cơm chiều. Rồi làn khói
bỗng nhiên tỏa rộng trên không gian như một đám mây.
Đột nhiên
đám mây biến hình thành một đóa hoa sen ngàn cánh, mỗi cánh hoa một màu sắc
khác nhau lấp lánh trong ánh nắng chiều. Đột nhiên một người thổi sáo biến
thành một ngàn người thổi sáo, tất cả những màu nhiệm của vũ trụ đều được chế
biến thành âm thanh, âm thanh muôn màu muôn sắc, âm thanh khi thì nhẹ như gió
thoảng, khi thì mau như tiếng mưa rào, khi thì trong như tiếng hạc, khi thì đậm
đà như tiếng ru con, khi thì sáng rỡ như ngọc lưu ly, khi thì hùng vĩ như tiếng
hải triều, khi thì im lặng như nụ cười của người đã thoát ly được sự hơn thua
còn mất. Chim chóc trong rừng đã im hơi lặng tiếng và gió chiều cũng đang thổi
rì rào trong lá. Rừng được bao phủ bởi một không gian thanh tịnh, an lạc và
nhiệm màu. Tất cả các chàng thanh niên ngồi bên Phật đều trở nên tỉnh táo một
cách kỳ lạ. Họ hoàn toàn sống trong giây phút hiện tại, tiếng sáo đưa họ về với
những màu nhiệm của giây phút hiện tại. Họ có rừng cây, họ có Phật, họ có tiếng
sáo, họ có nhạc, họ có bản thân họ. Tiếng sáo đã chấm dứt, nhưng tiếng sáo vẫn
còn, không có chàng thanh niên nào nghĩ tới cô vũ nữ và những châu ngọc bị đánh
cắp.
Họ
ngồi yên lặng rất lâu. Cuối cùng chàng thanh niên thổi sáo lên tiếng hỏi Phật:
- Sa -
môn, thầy thổi sáo thật hay, con chưa bao giờ nghe ai thổi sáo diệu kỳ như vậy.
Thầy đã học với ai? Con có thể theo thầy để học thổi sáo được không?
Phật mỉm
cười:
- Hồi
nhỏ, tôi đã học thổi sáo, nhưng bảy năm nay tôi không có dịp thổi.
Đây là lần thứ nhất tôi thổi sáo trở lại sau bảy năm, nhưng
tiếng sáo bây giờ lại có chất liệu hơn tiếng sáo ngày trước.
- Tại sao
thế, thưa sa - môn? Tại sao sau bảy năm không tập dượt mà tiếng sáo thầy lại
hay hơn?
- Thổi sáo
hay không phải là chỉ do tập dượt nhiều. Sở dĩ tôi
thổi được hay hơn ngày xưa là tại vì tôi đã tìm được
chính tôi. Nghĩa là tôi đã tìm ra được đạo giác ngộ. Em không
thể đạt được tới chỗ tuyệt vời của nghệ thuật nếu em không lên tới
được chỗ tuyệt cùng của tâm linh. Vì vậy nếu em muốn thổi sáo hay thì em phải
tu học theo con đường tỉnh thức.
Rồi Phật
bắt đầu giảng cho các chàng thanh niên về đạo giác ngộ, về bốn
sự thật và con đường Bát Chánh. Ba mươi người thanh niên nghe người
giảng đều được tỏ ngộ. Tất cả đều quỳ xuống tỏ ý xin làm môn đệ xuất gia của
người.
Phật vui lòng làm lễ xuất gia họ ngay tại chỗ,
và bảo ba mươi chàng thanh niên tìm ngay về vườn Lộc Uyển để
gặp đại đức Kondanna, Người dặn họ trình bày tự sự với thầy Kondanna rồi
xin thầy cho cạo bỏ râu tóc, khoác áo khất sĩ và thọ lãnh những lời chỉ dẫn tu
học. Người bảo trong một tương lai gần họ sẽ được gặp lại người.
Đêm ấy,
Phật nghỉ trong rừng. Sáng hôm sau, người vượt sông Hằng, rồi theo bờ sông đi
về phương Đông.
Qua câu chuyện, tôi đặt lại câu hỏi “Trong giờ phút
này bạn đi tìm cô gái hay tìm chính bạn trước?”
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét