Phẩm Trò Chuyện Cùng Các Vị Bồ Tát (P.1)
Thứ Sáu, 19 tháng 2, 2016
Lúc bấy giờ,
Phật bảo Di Lặc Bồ tát :
- Hãy thay ta
thăm trưởng giả Duy ma cật.
Di Lặc Bồ tát
đáp:
- Thưa Thế Tôn!
Con không kham lãnh việc thăm bệnh ngài Duy ma cật. Vì sao? Nhớ lại lúc trước
con nói hạnh “Bất thoái chuyển” cho vị Thiên vương cõi trời Đâu Suất cùng quyến
thuộc, khi ấy cư sĩ Duy ma cật đến nói “Ngài Di Lặc! Thế Tôn thọ ký cho ngài
một đời sẽ được quả vô thượng chánh đẳng chánh giác, đó là đời nào mà ngài được
thọ ký? Đời quá khứ chăng? Đời vị lai chăng? Đời hiện tại chăng? Nếu là đời quá
khứ thì quá khứ đã qua. Nếu là đời vị lai nhưng vị lai sẽ luôn chưa đến. Nếu là
đời hiện tại thì hiện tại vốn không có sự dừng lặng, vậy hiện tại là khi nào?
Như lời Phật từng nói “Này chư Tỳ kheo! Như ông ngay bây giờ cũng sinh, cũng
già, cũng chết”. Nếu dùng vô sanh mà được thọ ký thì vô sanh tức là chánh vị.
Thật ra ở trong chánh vị cũng không thọ ký, cũng không được quả vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Thế nào là Bồ tát Di Lặc được thọ ký một đời? Là từ Như sinh
mà được thọ ký, hay từ Như diệt mà được thọ ký? Nếu từ Như sinh mà được thọ ký
mà Như vốn không có sinh ra. Nếu từ Như diệt được thọ ký mà Như vốn lại không
có diệt. Tất cả chúng sinh đều Như, tất cả pháp cũng đều Như, các Thánh Hiền
cũng Như, cho đến Di Lặc cũng Như. Nếu Di Lặc được thọ ký thì tất cả chúng sinh
cũng phải được thọ ký. Vì sao? Vì Như là không hai, không khác. Nếu Di Lặc được
quả vô thượng chánh đẳng chánh giác thì tất cả chúng sinh cũng đều được. Vì
sao? Tất cả chúng sinh chính là tướng Bồ đề. Nếu Di Lặc được diệt độ, tất cả
chúng sinh cũng đều diệt độ. Vì sao? Vì Như Lai biết tất cả chúng sinh rốt ráo
vắng lặng, chính là tướng Niết bàn, chẳng còn diệt nữa. Cho nên Di Lặc, chớ
dùng pháp đó dạy bảo các vị Thiên tử, thật không có chi gọi là phát tâm vô
thượng chánh đẳng chánh giác, cũng không có chi gọi là sự thoái lui Bồ đề tâm.
Ngài Di Lặc! Hãy làm cho các vị Thiên tử này từ bỏ chỗ kiến chấp phân biệt Bồ
đề. Vì sao? Vì Bồ đề không thể dùng thân được, không thể dùng tâm được. Tịch
diệt là Bồ đề vì diệt các tướng; Chẳng quán chiếu là Bồ đề vì rời các duyên;
Chẳng hiện hạnh là Bồ đề vì không chấp giữ; Đoạn dứt là Bồ đề vì bỏ các kiến
chấp; Lìa huyễn là Bồ đề vì dứt các vọng tưởng. Chướng là Bồ đề vì ngăn các
nguyện; Bất nhập là Bồ đề vì không tham đắm. Thuận là Bồ đề vì thuận chân như;
Trụ là Bồ đề vì trụ pháp tánh; Không hai là Bồ đề vì lìa chấp pháp tánh; Bình đẳng
là Bồ đề vì đồng hư không; Không làm là Bồ đề vì không sinh, trụ, diệt; Biết là
Bồ đề vì rõ tâm hạnh chúng sinh; Không đến là Bồ đề vì không nhóm họp; Không
họp là Bồ đề vì rời tập khí phiền não; Không xứ sở là Bồ đề vì không hình sắc;
Giả danh là Bồ đề vì danh tự vốn không; Như huyễn hóa là Bồ đề vì không thủ xả;
Không loạn là Bồ đề vì thường tự vắng lặng; Vắng lặng là Bồ đề vì tánh thanh
tịnh; Không giữ là Bồ đề vì rời các duyên; Không khác là Bồ đề vì các pháp bình
đẳng; Không sinh là Bồ đề vì không thể chỉ ra; Vi diệu là Bồ đề vì các pháp khó
biết.
- Thưa Thế Tôn!
Khi ngài Duy ma cật nói pháp ấy, liền đó có hai trăm vị Thiên tử chứng được
pháp vô sanh. Vì thế, nên con không kham lãnh việc đến thăm ngài ấy.
Phật bảo Đồng tử
Quang Nghiêm:
- Hãy thay ta thăm
trưởng giả Duy ma cật.
Quang Nghiêm
đáp:
- Thưa Thế Tôn!
Con không kham lãnh đến thăm bệnh ngài ấy. Vì sao? Nhớ lại ngày trước con từ
trong thành Tỳ da ly vừa ra, lúc đó ngài Duy ma cật mới vào thành, con liền
chào “Thưa cư sĩ! Ngài từ đâu đến đây?”. Ngài ấy đáp “Tôi từ đạo tràng đến”.
Con hỏi “Đạo tràng là gì?”. Ngài ấy nói tâm chánh trực là đạo tràng vì không hư
dối. Phát nguyện hạnh Bồ đề là đạo tràng vì làm xong các việc. Lòng tin kiên
định là đạo tràng vì thêm nhiều công đức. Tâm Bồ đề là đạo tràng vì không sai
lầm. Bố thí là đạo tràng vì không mong phước báu. Trì giới là đạo tràng vì hạnh
nguyện đầy đủ. Nhẫn nhục là đạo tràng vì đối diện trước mọi chúng sinh tâm
không chướng ngại. Tinh tấn là đạo tràng vì không biếng trễ, lười nhác. Thiền
định là đạo tràng vì tâm đã điều phục nhu hòa. Trí tuệ là đạo tràng vì thấy rõ
các pháp. Tâm từ là đạo tràng, đồng với chúng sinh. Tâm bi là đạo tràng, nhẫn
chịu sự khó nhọc. Tâm hỷ là đạo tràng vì an lạc nơi chánh pháp. Tâm xả là đạo
tràng vì trừ lòng thương ghét. Thần thông là đạo tràng vì thành tựu lục thông.
Giải thoát là đạo tràng vì không lấy, không bỏ. Phương tiện là đạo tràng vì
khéo giáo hóa chúng sinh. Tứ nhiếp là đạo tràng vì hay nhiếp độ chúng sinh. Đa
văn là đạo tràng vì đúng theo chỗ nghe mà thực hành. Hàng phục tâm là đạo tràng
vì thường quán chiếu rốt ráo tự tánh các pháp. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là đạo
tràng vì lìa bỏ pháp hữu vi. Tứ đế là đạo tràng vì chẳng lầm pháp thế gian.
Duyên khởi là đạo tràng vì từ vô minh cho đến già, chết đều không hết. Các
phiền não là đạo tràng vì biết là vô ngã. Tất cả pháp là đạo tràng vì biết các
pháp rỗng không, vắng lặng. Hàng ma là đạo tràng vì không lay động. Tam giới là
đạo tràng vì không chỗ đến. Sư tử rống là đạo tràng vì không sợ sệt. Thập lực,
vô úy, pháp bất cộng là đạo tràng vì không các lỗi. Tam minh là đạo tràng vì
không còn chướng ngại. Một niệm biết tất cả pháp là đạo tràng vì đã thành tựu
nhất thiết chủng trí. Này Thiện nam tử! Nếu Bồ tát đúng theo các pháp ba la mật
mà giáo hóa chúng sinh, thời bao nhiêu việc làm hoặc nhất cử nhất động đều phải
biết là từ nơi đạo tràng mà ra, thảy đều do nơi Pháp giới mà thành tựu”.
Khi cư sĩ Duy ma
cật nói pháp ấy, có năm trăm vị trời người đều phát tâm vô thượng chánh đẳng
chánh giác. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bệnh ngài ấy.
Phật bảo Bồ tát
Trì Thế:
- Hãy thay ta
đến thăm trưởng giả Duy ma cật.
Bồ tát Trì Thế
đáp:
- Thưa Thế Tôn!
Con không kham lãnh đến thăm ngài ấy. Vì sao? Nhớ lại lúc trước, con đang ở nơi
tịnh thất, bấy giờ Thiên ma Ba Tuần hóa thành trời Đế Thích cùng một muôn hai
ngàn Thể nữ trổi nhạc, ca hát đồng hiện thân. Thiên ma cùng Thể nữ cúi đầu làm
lễ dưới chân con, chắp tay cung kính rồi đứng sang một bên. Con ngỡ trời Đế
Thích đến tham vấn nên bảo rằng “Chào, ngài Kiều Thi Ca! Dù có phước lớn ngài
chớ buông lung. Ngài nên quán ngũ dục là vô thường để cầu cội lành, ở nơi thân
mạng, tài sản mà nên tu pháp bền chắc”. Thiên ma liền nói “Thưa Chánh sĩ! Xin
Ngài nhận cho một muôn hai ngàn Thể nữ này để dùng hầu hạ, dọn dẹp”. Con nói
rằng “Này ngài Kiều Thi Ca! Ngài đừng cho tôi những vật phi pháp, tôi là người
xuất gia cầu giải thoát, việc thọ dụng Thể nữ là giới luật mà dòng dõi học trò
Phật Thích Ca không thể khứng nhận”. Con nói chưa dứt lời, bỗng thấy ngài Duy
ma cật hiện thân và nói “Đây chẳng phải là trời Đế Thích, đây là Thiên ma Ba
Tuần đến làm loạn động chánh định của ngài đấy”. Nói đoạn, ngài ấy liền quay
lại vấn Thiên ma “Các vị Thể nữ này hãy cúng dường cho ta, ta sẽ thọ nhận. Việc
này có được không?”. Thiên ma Ba
Tuần kinh hãi thầm nghĩ “Hẳn là trưởng giả Duy ma cật đến gây phiền cho ta?
Nghĩ vậy, Thiên ma muốn biến mất mà không thể được như ý, dù vận dụng hết quyền
phép Thiên ma cũng không thể ẩn hình. Xảy nghe giữa hư không có tiếng rằng “Này
Thiên ma Ba Tuần! Hãy đem Thể nữ cho trưởng giả Duy ma cật thì mới đi được”.
Thiên ma vì không còn cách nào khác, lại rất kinh hãi nên đành chấp nhận việc
cúng dường Thể nữ.
Khi ấy, ngài Duy
ma cật ôn tồn nói với các Thể nữ “Thiên ma đã đem các ngươi cho ta rồi, nay các
ngươi đều phải phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác”. Rồi tùy theo căn cơ
của Thể nữ mà ngài Duy ma cật diễn nói Pháp yếu để chúng Thể nữ đều phát tâm Bồ
đề bất thoái chuyển. Sau khi diễn nói pháp bất khả tư nghị trưởng giả Duy ma
cật sách tấn chúng Thể nữ rằng “Các ngươi đã phát tâm cầu sự giải thoát hoàn
toàn, từ nay các ngươi đã có niềm vui an lạc của chánh pháp thế nên về sau đừng
buông lung tánh ý mà lại đắm nhiễm các món ngũ dục vô thường”. Thể nữ hỏi “Thế
nào là niềm vui an lạc của chánh pháp?”. Trưởng giả Duy ma cật đáp “Niềm vui an
lạc của chánh pháp là niềm vui tín tâm Phật, thích nghe pháp, ưa cúng dường
Tăng, xa lìa ngũ dục đắm nhiễm, thường quán ngũ ấm như oán tặc, nhận rõ thân tứ
đại như rắn độc, biết sáu căn rỗng không, niềm vui giữ gìn thân khẩu ý thanh
tịnh, niềm vui vì lợi ích chúng sinh, niềm vui cung kính cúng dường thiện tri
thức, niềm vui hành pháp nhẫn nhục nhu hòa, niềm vui tích lũy căn lành, niềm
vui thiền định chẳng loạn ý, niềm vui rời đắm nhiễm thế gian đặng trí tuệ sáng
suốt, niềm vui mở rộng tâm Bồ đề, niềm vui hàng phục chúng ma phiền não, oán
hờn, sinh tử…, niềm vui cõi nước thanh tịnh, niềm vui thành tựu các tướng tốt
mà vun bồi công đức, niềm vui trang nghiêm đạo tràng, niềm vui nghe pháp thâm
diệu mà không kinh sợ, niềm vui nơi ba môn giải thoát mà không vui phi thời,
niềm vui gần bạn đồng học, niềm vui ở chung với người không phải đồng học mà
lòng không chướng ngại, vui giúp đỡ ác tri thức, vui gần thiện tri thức, niềm
vui tâm hoan hỷ thanh tịnh, vui thực hành vô lượng pháp phương tiện khéo. Đó là
niềm vui an lạc của Bồ tát”. Khi ấy, Thiên ma Ba Tuần bảo các Thể nữ rằng “Ta
muốn các người cùng về”. Các Thể nữ đáp “Ngài đã đem chúng tôi cho cư sĩ, chúng
tôi đã có niềm vui chánh pháp, chúng tôi ưng lắm, chúng tôi không còn muốn vui
theo ngũ dục nữa”. Thiên ma liền thưa với trưởng giả Duy ma cật rằng “Xin ngài
hãy xả thí các Thể nữ! Người nên đem tất cả tài vật của mình để bố thí cho kẻ
khác, người đó mới là Bồ tát”. Ngài Duy ma cật nói “Ta đã xả rồi, ngươi hãy đem
họ đi để cho tất cả các người được pháp nguyện đầy đủ”. Lúc ấy, các Thể nữ hỏi
cư sĩ Duy ma cật rằng “Chúng tôi nên làm gì ở nơi cung ma?”. Ngài Duy ma cật
đáp “Này các Thể nữ! Có Pháp môn là Vô tận đăng, các vị nên thọ trì. Pháp môn
Vô tận đăng là pháp phương tiện thù thắng, xảo diệu ví như một ngọn đèn mồi đốt
trăm ngàn ngọn đèn, những chỗ tối đều được sáng tỏ, ánh sáng lan tỏa mãi không
cùng tận. Là như thế đấy! Hơn nữa, một vị Bồ tát hướng dẫn, khai mở trí tuệ cho
hàng trăm ngàn chúng sinh phát tâm Bồ đề, đạo tâm của người đó cũng chẳng bị
tiêu mất, tùy nói pháp gì đều đem lợi lạc cho các Pháp lành, đó gọi là Vô tận
đăng. Các vị hãy nên ở nơi cung ma mà dùng Pháp môn Vô tận đăng ngõ hầu giúp
cho vô số Thể nữ cùng mọi người phát tâm vô thượng bồ đề, đó là báo ơn Phật,
cũng là việc làm lợi ích cho tất cả chúng sinh”. Bấy giờ, các Thể nữ cúi đầu
đảnh lễ dưới chân trưởng giả Duy ma cật rồi theo Thiên ma Ba Tuần trở về cung
Ma, thảy đều biến mất không còn nữa.
- Thưa Thế Tôn!
Ngài Duy ma cật có thần lực tự tại, trí tuệ biện tài như thế nên con không kham
lãnh đến thăm bệnh ngài ấy.
Phật bảo Thiện
Đức, vị này là con của một vị trưởng giả giàu có:
- Hãy thay ta
đến thăm trưởng giả Duy ma cật.
Thiện Đức đáp:
- Thưa Thế Tôn!
Con không kham lãnh đến thăm bệnh ngài ấy. Vì sao? Nhớ lại thuở trước, con lập
ra hội Đại thí ở nhà cha con, hạn trong bảy ngày để cúng dường cho tất cả vị Sa
môn, Bà la môn, cùng hàng ngoại đạo, kẻ nghèo khó, hèn hạ, cô độc và kẻ ăn xin.
Bấy giờ, ngài
Duy ma cật đến trong hội nói:
- Này con nhà
trưởng giả! Ông muốn lập hội Đại thí chăng? Lập hội Đại thí không phải làm như
thế này. Muốn lập hội Đại thí thì ông phải lập hội Pháp thí.
Con hỏi:
- Thưa cư sĩ!
Sao gọi là hội Pháp thí?
Ngài Duy ma cật
đáp:
- Hội Đại thí mà
đồng thời cúng dường tất cả chúng sinh, không trước không sau. Lập hội Đại thí
mà được như thế gọi là hội Pháp thí.
Con hỏi:
- Muốn lập hội
Pháp thí phải làm thế nào?
Ngài Duy ma cật
đáp:
- Nghĩa là lập
hội Đại thí vì đạo giải thoát, khởi Bồ đề tâm; Vì cứu chúng sinh, khởi tâm đại
bi; Vì muốn giữ gìn chánh pháp, khởi tâm hoan hỷ; Vì nhiếp trí tuệ, làm theo
tâm xả; Vì nhiếp tâm tham lam khởi bố thí ba la mật; Vì độ kẻ phạm giới khởi
trì giới ba la mật; Vì pháp vô ngã khởi nhẫn nhục ba la mật; Vì rời tướng thân
tâm khởi tinh tấn ba la mật; Vì tướng Bồ đề khởi thiền định ba la mật; Vì nhất
chủng thiết trí khởi trí tuệ ba la mật; Vì giáo hóa chúng sinh mà khởi nói pháp
Không; Chẳng bỏ pháp hữu vi mà khởi pháp Vô tướng; Thị hiện thọ sinh mà khởi
pháp Vô tác; Hộ trì Chánh pháp khởi pháp phương tiện khéo; Vì độ chúng sinh khởi
pháp tứ nhiếp; Vì cung kính tất cả khởi pháp trừ khinh mạn; Đổi thân, mạng và
tài sản khởi ba pháp bền chắc; Trong pháp lục niệm khởi ra pháp nhớ tưởng; Ở
sáu pháp hòa kính khởi tâm chánh trực; Chân chánh thực hành thiện pháp khởi
chánh mạng trong sạch; Vì tâm thanh tịnh hoan hỷ khởi sự gần gũi các bậc thiện
tri thức; Vì chẳng ghét người dữ khởi tâm điều phục; Vì pháp xuất Tam giới gia
khởi thâm tâm; Vì đúng theo chỗ nói mà làm khởi đa văn; Vì diễn nói pháp vô
tranh luận khởi ở chỗ yên lặng; Vì đi tới Phật huệ khởi ra ngồi yên lặng (Thiền
định - Thiền quán); Vì mở ràng buộc cho chúng sinh khởi sự truyền pháp; Vì đầy
đủ tướng tốt và thanh tịnh cõi Phật khởi sự nghiệp phước đức; Vì muốn biết tâm
niệm tất cả chúng sinh đúng chỗ nói pháp khởi ra nghiệp trí; Vì biết tất cả
pháp không lấy không bỏ, vào môn nhất tướng khởi ra trí tuệ Bát nhã; Vì đoạn
tất cả phiền não, tất cả chướng ngại, tất cả việc bất thiện khởi làm tất cả
pháp trợ Phật đạo. Như vậy đấy,Thiện nam tử! Đó là hội pháp thí. Nếu Bồ tát trụ
nơi hội pháp thí đó, là vị đại thiện tri thức, cũng là phước điền cho tất cả
thế gian.
- Thưa Thế Tôn!
Khi trưởng giả Duy ma cật nói pháp ấy, trong chúng Bà la môn có hai trăm người
đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lúc đó, tâm con
đặng thanh tịnh, con đã cất lời ngợi khen chưa từng có và cúi đầu đảnh lễ dưới
chân ngài Duy ma cật. Con liền mở chuỗi Anh lạc giá đáng trăm ngàn lượng vàng
dâng lên, ngài ấy không ứng nhận. Con nói:
- Thưa bậc Đại
thiện tri thức! Xin ngài hãy nhận, tùy ý ngài sử dụng.
Ngài Duy ma cật
liền lấy chuỗi Anh lạc chia làm hai phần, một phần đem cho người ăn xin hèn hạ
nhất trong hội, còn một phần đem dâng cho Đức Nan Thắng Như Lai. Tất cả chúng
trong hội đều thấy cõi nước Quang Minh và Đức Nan Thắng Như Lai, lại thấy chuỗi
Anh lạc ở trên cõi Đức Phật Nan Thắng biến thành bốn trụ đài quí báu, bốn mặt
đều trang nghiêm rực rỡ không ngăn che nhau.
Khi ấy, ngài Duy
ma cật hiện thần biến xong, lại nói rằng:
- Nếu người thí
chủ dùng tâm bình đẳng bố thí cho một người ăn xin rất hèn hạ và cũng xem người
ấy là tướng phước điền của Như Lai, việc bố không có sự phân biệt với lòng đại
bi bình đẳng, không cầu quả báo, đó gọi là đầy đủ pháp thí vậy.
Trong thành,
những người ăn xin hèn hạ nhất thấy thần lực và nghe lời nói của ngài Duy ma
cật đều phát tâm vô thượng bồ đề, cầu nhất thiết chủng trí. Vì thế, nên con
không kham lãnh đến thăm bệnh ngài Duy ma cật.
Cứ như thế, các
vị Bồ tát thảy đều tuần tự trình bày với Phật chỗ chướng ngại khi đối mặt tham
vấn vị trưởng giả Duy ma cật, họ đồng khen ngợi chỗ biện tài bất khả tư nghị
của vị cư sĩ và đều thoái thác việc đến thăm bệnh.
Bài liên quan
- Phẩm Quán Chiếu Căn Tánh Chúng Sinh
- Phẩm Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát
- Phẩm Văn Thù Sư Lợi Đi Thăm Bệnh
- Phẩm Trò Chuyện Cùng Các Vị Bồ Tát (P.2)
- Phẩm Nói Với Chúng Học Trò Thanh Văn (P.2)
- Phẩm Nói Với Chúng Học Trò Thanh Văn (P.1)
- Phẩm Pháp Phương Tiện - Sự Quyền Biến
- Phẩm Cõi Nước Phật Thích Ca
- Liễu giải kinh Duy ma cật sở thuyết
- Phẩm Căn Dặn
- Phẩm Pháp Cúng Dường
- Phẩm Được Thấy Phật A Súc
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét