Câu chuyện về đất nước Trung Hoa (P.2)
Thứ Sáu, 7 tháng 10, 2016
Chuyển sang vấn đề khác:
Xuyên
suốt quá trình phát triển lịch sử của đất nước Trung Hoa, người khiến tôi phải
tôn trọng và cảm phục thì chỉ có thể là Lão Tử, tác giả của quyển sách - Đạo
Đức Kinh.
Bởi
vì Lão Tử đã sớm nhận ra sai lầm của quốc gia Trung Quốc trong thời điểm hiện
tại và đã gửi lời cảnh báo đến dân tộc Trung Hoa.
Đáng
tiếc! Những cảnh báo của Lão Tử - Bậc thánh nhân - do dân tộc Trung Hoa thừa
nhận đã bị người đời sau xem nhẹ và diễn giải sai lạc. Đạo Đức Kinh bị mai một
và đánh mất giá trị thực tiễn nhằm ứng dụng vào cuộc sống con người.
Do
sự lầm lạc không nhận biết được chân giá trị quyển sách nên giới lãnh đạo Trung
Quốc đã vấp phải những sai lầm - Làm những việc vô đạo, trái đức.
Nay,
tôi sẽ thay Lão Tử khơi gợi lại những cảnh báo của bậc Thánh nhân nhằm giúp dân
tộc Trung Hoa và nhân loại nhận ra cái nhìn thấu đáo, cùng tột của bậc thánh
nhân.
Thoạt
đầu, Lão Tử phác họa toàn cảnh nguyên nhân khiến cho dân nghèo khó, khốn cùng,
chống đối lại nhà cầm quyền bất kể mạng sống.
Dân chi cơ, dĩ kì thượng thực thuế chi đa, thị dĩ cơ. Dân chi nan trị, dĩ
kì thượng chi hữu vi, thị dĩ nan trị. Dân chi khinh tử, dĩ kì thượng cầu sinh
chi hậu, thị dĩ khinh tử. Phù duy vô dĩ sinh vi giả, thị hiền ư quý sinh.
Dân
bị nghèo đói, khốn cùng là do nhà cầm quyền thu thuế cao quá nên dân đói khổ.
Dân trở nên khó trị vì nhà cầm quyền dùng chính sách cai trị hà khắc, áp bức
người dân vào đường cùng nên dân khó trị. Bởi lẽ rơi vào cảnh khốn cùng, túng
quẩn nên dân không còn sợ chết. Nguyên nhân dẫn đến dân túng quẩn, nghèo đói là
do quan lại, vua chúa ăn chơi sa đọa, tự phụng dưỡng không lo cho dân. Sự nghèo
đói, bần cùng khiến người dân không sợ chết, chống đối lại nhà cầm quyền, gây
loạn lạc trong xã hội. Nếu mà nhà cầm quyền đương thời không thu thuế cao,
không cai trị hà khắc, bóc lột người dân. Nhà cầm quyền không chi tiêu hoang
phí, biết lo cho dân thì người dân tự khắc quy thuận, thuần lương. Bởi vì họ tự
biết quý trọng mạng sống, sẽ không chống đối triều đình cho dù có những phần tử
xấu kích động, gây rối. Xã hội sẽ tự thái bình, ổn định. Thế nên, điều quan
trọng nhà cầm quyền phải làm là hướng cho quan lại triều đình và chính vua chúa
cũng sống đời sống ít ham muốn, biết đủ, sống đạm bạc thì nước nhà sẽ cường
thịnh.
Sau
đó, Lão Tử lí giải cách trị quốc mà ông cho rằng hợp lý hơn.
Dĩ chính trị quốc, dĩ kì dụng binh; Duy dĩ vô sự thủ thiên hạ. Ngô hà dĩ
tri kì nhiên tải. Dĩ thử: Thiên hạ đa kỵ húy nhi dân di bần. Triều đa lợi khí,
quốc gia tư hôn. Nhân đa kỹ xảo, kì vật tư khởi. Pháp luật tư chương, đạo tặc
đa hữu. Kì chính muộn muộn, kì dân thuần thuần. Kì chính sát sát, kì dân khuyết
khuyết.
Họa hề phúc chi sở ỷ, phúc hề họa chi sở phục. Thục tri kỳ cực? Kì vô
chính. Chính phục vi kỳ, thiện phục vi yêu. Nhân chi mê, kì nhật cố cửu.
Người
đời thường dùng chính sách cai trị để trị nước, dùng sự biến hóa, linh động để
điều binh. Những việc làm này không thât đúng đối với việc trị thiên hạ, chỉ có
vô sự mới được thiên hạ. Do đâu mà ta biết được lẽ này? Do bởi: Thiên hạ càng nhiều
lệnh cấm thì nước nhà càng nghèo. Triều đình càng đặt ra nhiều hình luật thì
đất nước càng thêm loạn. Lòng người càng mưu trí, cơ xảo thì việc nảy sinh tư
hữu, chiếm hữu làm của riêng càng nhiều. Luật pháp càng đặt ra nhiều chế tài,
hình phạt thì nạn trộm cướp, phạm pháp càng thêm nhiều. Nên biết trị quốc bằng
luật pháp khoan dung, độ lượng thì dân sẽ thuần hậu. Trị quốc bằng pháp luật hà
khắc thì người dân gặp nhiều khó khăn, bất mãn nhà cầm quyền.
Họa
dựa vào phúc, phúc là chỗ nấp của họa, phúc họa nương nhau mà tồn tại. Ai có
thể phân định được ranh giới rõ ràng? Họa phúc không có gì là nhất định, cố
định. Những việc làm dường như đúng đôi khi lại là sai lầm lớn, chính sẽ có thể
trở thành tà, thiện có thể trở thành ác.
Lão
Tử khẳng định - Loài người đã lầm lạc, không hiểu được lẽ thật này đã từ lâu
lắm rồi.
Trị đại quốc nhược phanh tiểu tiên. Cổ chi thiện vi đạo giả, phi dĩ minh
dân, tương dĩ ngu chi. Dân chi nan trị, dĩ kỳ trí đa. Cố dĩ trí trị quốc, quốc
chi tặc; bất dĩ trí trị quốc, quốc chi phúc. Tri thủ lưỡng giả, diệc kê thức.
Thường tri kê thức, thị vị huyền đức. Huyền đức thậm hĩ viên hĩ, dữ vật phản
hĩ. Nhiên hậu nãi chí đại thuận.
Đây
là lời khuyên của bậc thánh nhân gửi đến những người làm chính trị.
Trị
nước lớn giống như là việc nấu cá nhỏ. Nấu cá nhỏ mà lật lên, lật xuống nhiều
thì cá sẽ nát. Trị nước mà dùng chính lệnh phiền hà, pháp lệnh nhiều thay đổi,
can thiệp quá nhiều vào việc dân thì dân sẽ trá ngụy, chống đối lại. Thế nên,
người xưa khéo dùng đạo trị nước, không khiến cho dân cơ mưu, nhiều trí xảo mà
làm cho người dân trở nên đôn hậu, thuần phác. Dân sở dĩ khó trị là vì nhiều
thủ đoạn, trí mưu. Cho nên dùng trí mưu, thủ đoạn trị nước sẽ gây họa cho đất
nước; không dùng trí mưu mà trị nước là phúc cho dân. Biết rõ hai điều này là biết
cách thức trị nước. Biết rõ và dùng phương pháp đó trị quốc là người có đức.
Người dùng đức mà trị nước thì giúp dân quay về sự thuần lương, chất phác. Dân
thuần lương sẽ sống tùy thuận theo đạo, theo tự nhiên. Tự khắc đất nước sẽ thái
bình thịnh trị.
Người
có đức thì dùng đạo mà tu thân, trị nước bằng cách:
Bất thượng hiền, sử dân bất tranh. Bất quí nan đắc chi hóa, sử dân bất vi
đạo, bất hiện khả dục, sử dân bất loạn.
Thị dĩ thánh nhân chi trị, hư kì tâm, thực kì phúc, nhược kì chí, cường kì
cốt.
Thường sử dân vô tri vô dục, sử phù trí giả bất cảm vi dã. Vi vô vi, tắc vô
bất trị.
Thánh
nhân mà Lão Tử dùng trong đoạn này với nghĩa là người lãnh đạo có đức. Còn chữ
hiền là diễn đạt nghĩa hiền tài, chứ không mang nghĩa hiền đức. Bởi lẽ theo
quan điểm của Lão Tử - Người có đức không ra tranh cạnh với đời, tùy thuận theo
đạo - Việc người cần họ làm thì họ ra sức làm. Việc có lợi mà người đời không
cần họ làm thì họ không tranh cạnh làm. Vì thế, những người ra cạnh tranh làm
thường kém đức. Người kém đức mà có quyền binh thì xã tắc sẽ đại loạn. Thế nên,
đoạn trên sẽ được giải nghĩa như sau:
Không
trọng người hiền tài nhằm không tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh. Nguyên do
người có tài, kém đức sẽ đoạt ngôi vị cao. Không trọng của quý để dân không
sinh lòng tham trộm cướp. Không phô bày những vật khơi gợi lòng ham muốn của
người khác, để lòng người không loạn.
Cho
nên chính sách trị nước của người có đức cao là làm cho người dân có tâm trở
nên hư tĩnh, có đủ cơm no, áo ấm. Lòng thì ít ham muốn tranh giành; Sức khỏe
tốt, xương cốt khỏe mạnh.
Khiến
cho lòng người dường như không biết, không ham muốn mà bọn trí mưu, cơ hội
không dám làm việc càn quấy. Người lãnh đạo có đức làm mà như không làm. Bởi lẽ
những việc cần làm thì người dân đã tự làm lấy. Nguyên tắc của việc trị nước là
trị mà không trị. Nhà cầm quyền quản lý ở cấp độ cao, chỉ điều tiết mọi việc
không can thiệp sâu vào sự phát triển của các thành phần xã hội. Để các thành
phần xã hội tùy thuận, tự do phát triển nhưng không vượt mức thái quá.
Ngoài
ra, Lão Tử còn khuyên nhà cầm quyền phải nên hiểu đạo lý giữ hòa khí với các
quốc gia lân cận, không gây thù hận, chiến tranh để nước nhà yên bình, dân có
cuộc sống ấm no. Nhà cầm quyền hành xử tùy thuận theo đạo tự khắc các nước khác
sẽ quy thuận.
Đại quốc giả hạ lưu, thiên hạ chi giao, thiên hạ chi tẫn. Tẫn thường dĩ
tình thắng mẫu, dĩ tình vi hạ. Cố đại quốc dĩ hạ tiểu quốc tắc thủ tiểu quốc.
Tiểu quốc dĩ hạ đại quốc tắc thủ đại quốc.
Cố hoặc hạ dĩ thủ, hoặc hạ nhi thủ. Đại quốc bất quá dục kiêm súc nhân,
tiểu quốc bất quá dục nhập sự nhân. Phù lưỡng giả các đắc sở dục, đại giả nghi
hạ.
Nước
lớn thì như là vùng nước thấp, vùng nước thấp thường là chỗ quy tụ nước của tất
cả các sông ngòi, kênh lạch, vì thế vùng nước thấp giống như là mẹ của các sông
ngòi. Vì nước lớn như là vùng nước thấp nên sẽ là nơi quy tụ của các nước nhỏ,
giống như là mẹ của các nước nhỏ. Nếu nhà cầm quyền hiểu rõ lẽ đạo này thì khi
đó sẽ có cách ứng xử với các nước nhỏ như tấm lòng của người mẹ đối với con
cái, phải có sự yêu quý, tôn trọng các nước nhỏ. Nước lớn mà tôn trọng nước nhỏ
thì nước nhỏ tự thuần phục, không chống đối. Ngược lại, nước nhỏ mà tôn trọng
nước lớn thì nước lớn sẽ che chở, giúp đỡ.
Khi
nước lớn và nước nhỏ cùng khiêm hạ, tôn trọng lẫn nhau thì thiên hạ sẽ thái
bình, không xảy ra chiến tranh loạn lạc.
Lý giải vấn đề này, Lão Tử cho rằng nước lớn sở dĩ muốn gồm thâu nước nhỏ cũng
chỉ vì muốn bảo hộ, xây dựng. Nước nhỏ sở dĩ chống đối lại cũng chỉ vì muốn tự
chủ, không lệ thuộc vào nước lớn. Nếu cả nước lớn và nước nhỏ đều hiểu được tận
cùng đạo lý, cùng khiêm hạ thì cùng đạt được mục đích, sở cầu của mỗi nước.
Nhưng điều cốt yếu trước nhất - Đó là nước lớn phải khiêm hạ.
Lão
Tử cũng lường trước việc chiến tranh loạn lạc xảy ra khi nhà cầm quyền các nước
sống không tùy thuận theo đạo, ông đã có đôi lời.
Dĩ đạo tá nhân chủ giả, bất dĩ binh cường thiên hạ. Kì sự hiếu hoàn.
Đại quân chi hậu, tất hữu hung niên. Thiện giả quả nhi dĩ, bất cảm dĩ thủ
cường. Quả nhi vật căng, quả nhi vật phạt, quả nhi vật kiêu, quả nhi bất đắc
dĩ, quả nhi vật cường
Người
hiểu đạo phò vua, giúp nước thì không cậy binh lực mạnh mà tranh với thiên hạ.
Bởi vì hiếu chiến, gây hấn sẽ gây ra chiến tranh, hại quốc gia lâm vào nạn binh
đao, loạn lạc, mất nước, gây khổ cho dân.
Lẽ
thường, quân đội đóng ở đâu, gai góc mọc ở nơi đó. Sau trận chiến tranh thì sẽ
có năm đói khổ, mất mùa, dân tình oán thán, ly loạn. Người hiểu đạo dùng binh
thành công, đạt mục đích rồi thì dừng lại không ỷ mạnh mà hơn thiên hạ. Phàm
việc gì cũng không nên thái quá vì làm thái quá sẽ bị phản tác dụng. Vì thế đạt
được mục đích thì dừng lại không tự kiêu, tự mãn. Thể hiện rõ lập trường vì bất
đắc dĩ mới phải dùng binh, đạt được mục đích rồi thì không khoe khoang, cao
ngạo, không tranh hơn thua.
Dụng binh hữu ngôn: Ngô bất cảm vi chủ nhi vi khách, bất cảm tiến thốn nhi
thoái kích. Thị vị hàng vô hàng nhương vô tí, chấp vô binh, nhưng vô địch.
Nhà
cầm quyền hiểu đạo không muốn dân rơi vào cảnh loạn lạc nên không chủ động gây
chiến tranh. Nếu bị nước khác tấn công, gây hấn thì mới phải dùng binh đối
địch. Vì là bất đắc dĩ phải dùng binh đối địch nên thuật dùng binh có câu: Ta
không muốn làm người chủ chiến (khiêu chiến) mà chỉ là người khách (ứng chiến).
Vì giữ hòa khí nên thà lùi một thước chứ không muốn tiến một tấc. Chỉ đem binh
ra dàn trận ứng phó, thể hiện lập trường giữ nước để các nước có ý định xâm
chiếm biết khó mà rút lui. Khi các nước biết khó rút binh, nhà cầm quyền hiểu
đạo cũng không xuất binh truy kích gây oán thù, đạt được mục đích rồi thì dừng
lại vì hiểu rõ đạo lý - Vật cùng tất phản. Nếu dồn đối phương vào đường cùng
thì chiến tranh sẽ xảy ra mà đó là điều mà nhà cầm quyền giữ đạo không mong
muốn. Tiếp đó Lão Tử lại giải bày:
Binh giả bất tường chi khí, phi quân tử chi khí, bất đắc dĩ nhi dụng chi,
điềm đạm vi thượng. Thắng nhi bất mĩ, nhi mĩ chi giả, thị lạc sát nhân. Phù lạc
sát nhân, tắc bất đắc chí ư thiên hạ hĩ.
Binh
khí là vật bất tường, hại người, không phải là đồ vật thường dùng của người
quân tử. Vạn bất đắc dĩ thì mới phải dùng đến; Mặc dù vậy, người hiểu đạo khi
dùng binh khí thì phải giữ hòa khí, tránh gây thương vong. Thắng cũng không cho
rằng hay, giỏi. Nếu cho là tài giỏi thì sẽ đồng nghĩa với thích giết người. Kẻ
nào mà thích giết người thì sẽ gây căm phẫn trong thiên hạ, không xứng đáng là
nhà cầm quyền trị nước.
Trên
thực tế xã hội thời Lão Tử, nhà cầm quyền ở các nước đang tranh đoạt, xâu xé
lẫn nhau nên Lão Tử đã mượn lời người xưa để cảnh tỉnh nhà cầm quyền đương
thời.
Nhân chi sở giáo, ngã diệc giáo chi: Lương cường giả bất đắc kì tử. Ngô
tương dĩ vi giáo phụ.
Người
xưa đã từng dạy, nay ta mượn lời mà nói lại: Cường bạo thì sẽ bị họa sát thân,
chết bất đắc kì tử. Ta nghĩ đây là câu nói rất đúng đắn và xác đáng giống như
là lời răn dạy của người cha.
Lão
Tử còn nhận ra nhà cầm quyền làm việc trái đạo, mang quân xâm chiếm lẫn nhau.
Nhằm lôi kéo người dân phục vụ tham vọng xưng hùng, xưng bá cho nên nhà cầm
quyền các nước dùng lời lẽ mị dân, kêu gọi người dân phục vụ nước nhà vì quốc
gia mà chết thì sẽ được trọng thưởng của cải, ban chức tước, bổng lộc khiến người
dân rơi vào cảnh máu đổ, đầu rơi, tang thương. Lão Tử đã xót xa cảnh tỉnh người
dân, khuyên mọi người giữ đạo
Danh dữ thân thục thân? Thân dữ hóa thục đa? Đắc dữ vong thục bệnh? Thị cố
thậm ái tất đại phí, đa tàng tất hậu vong.
Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đài, khả dĩ trường cửu.
Danh
tiếng với sinh mạng, cái nào quý? Sinh mạng với của cải, cái nào quan trọng?
Được danh tiếng mà mất mạng, cái nào hại? Cho nên ham danh quá thì hao tổn
nhiều, chất chứa của cải nhiều thì lo nghĩ, mất mát nhiều.
Thế
nên, ít muốn biết đủ thì không nhục, không nguy hại cho thân. Làm được như vậy
thì xem như có thể sống lâu.
Mặt
khác, tôi lại tự hỏi “Giới chính trị Trung Quốc học được bài học gì xuyên suốt
mấy ngàn năm lịch sử dân tộc Trung Hoa”.
Sự
hợp tan, thống nhất rồi chia rẽ, phải chăng thể hiện rõ quy luật của đạo?
Nếu
đã không học được gì từ những bài học lịch sử, sách cổ - Nguồn tri thức vô giá
của người xưa, vẫn phạm phải những sai lầm xưa cũ. Vậy thôi hãy đốt bỏ lịch sử
dân tộc, sách cổ.
Giữ
lại làm gì những phế vật vô giá trị?
Tự
hào gì với mớ giấy lộn vô nghĩa?
Về
trị nước, giới chính trị Trung Quốc hiện đang phạm sai lầm khi khiến dân ngày
càng trở nên cơ mưu, trí xảo.
Bởi
lẽ việc dung dưỡng nền kinh tế nhằm bảo toàn vị trí chính trị của giới lãnh đạo
khiến cho người làm kinh tế trở nên quyền biến, trá thuật làm hàng giả, hàng
nhái tràn lan. Mặc tình bóc lột sức lao động người dân.
Sự
gian trá của ngành kinh tế còn bước thêm một bước khiến người dân sống trong
cảnh dối lừa.
Hãy
nhìn lại chương trình quảng cáo giới thiệu của các sản phẩm hàng hóa có nơi
ngành kinh tế bị thương mại hóa có bao nhiêu phần là thật, bao nhiêu phần là
dối lừa?
Vì
sống mãi trong sự dối lừa, con người đã chấp nhận sự gian dối đó là sự thật.
Sự
kiện sữa chứa độc chất có bao nhiêu đứa trẻ vô tội bị đầu độc từ những người
cha, người mẹ bởi lẽ các bà mẹ ngộ nhận, lầm lạc thừa nhận các loại sữa quảng
cáo trên thị trường tốt hơn sữa mẹ?
Và
còn bao nhiêu sản phẩm tiêu dùng độc hại khác mà con người tin dùng,… sẽ hại
người?
Khi
ngành kinh tế tiến hành thương mại hóa các ngành nghề khác như ngành khoa học,
giáo dục, văn hóa, chính trị, quân sự, y tế,… thì mọi thứ đều có thể quy ra
tiền, hoặc là rất nhiều tiền.
Nếu
có rất nhiều tiền thì anh có thể mua được một chiếc ghế chính trị, mua được địa
vị xã hội.
Người
dân cuống cuồng chạy theo đồng tiền, bỏ mặc việc giáo dục con cái cho ngành
giáo dục cùng với số tiền họ bon chen, tích góp.
Đứa
con nhận đống tiền lớn ảo tưởng sự sang giàu, sống thực dụng, ích kỷ, đua đòi.
Ngành văn hóa bị thương mại hóa làm việc lầm lạc, trái đạo đức.
Tôi
muốn nói điều gì?
Hãy
nhìn lại lời những bài hát đang thịnh hành trên thị trường, những ca từ mê đắm
về tình yêu. Dường như cuộc sống nhân loại chỉ còn có tình yêu trai gái cuồng
si, sự dối lừa, tình phụ,…
Hãy
nhìn lại những bộ phim với nội dung dung tục, con người đến với con người bằng
trái tim toan tính, tranh đoạt tình yêu, gia tài. Đánh mất lương tri, mưu mô,
xảo trá. Những con người biến chất, đầy dã tâm, tham vọng,…
Con
người ngày nay sẽ học được gì từ những gì mà ngành văn hóa bị thương mại hóa
mang lại?
Những
đứa trẻ lớn lên trong sự ảo tưởng về giàu sang lại tiếp tục sống trong sự ảo
tưởng về tình yêu và hạnh phúc. Nhưng thực tế cuộc sống hoàn toàn không phải
vậy, chúng sẽ phải hụt hẫng, sự đổ vỡ, ly tán trong gia đình.
Sự
thực dụng và nhiều mưu chước học được từ phim ảnh, con người sẽ khôn khéo hơn
trong việc lừa người dối mình, tranh đoạt, dã tâm,… và còn gì nữa…?
Sự
thương mại hóa các ngành nghề khác, vấn đề sẽ ra sao?
Thôi!
Bạn hãy tự tìm lấy. Đây là vấn nạn lớn không chỉ ở Trung Quốc mà là cả nhân
loại.
Những
sai lầm chết người của thế hệ đi trước và cả thế hệ hiện tại, nhân loại rồi sẽ
phải khắc phục từ đâu?
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét