Lạm bàn về Đạo Đức Kinh - Lão Tử
Thứ Hai, 10 tháng 10, 2016
Nhân
việc trình bày về Đạo Đức Kinh - Nguồn tri thức vô hạn mà con người dường như
lãng quên mà giới chính trị Trung Quốc đã đi sai lệch. Tôi sẽ lạm bàn thêm về
Đạo Đức Kinh và Lão Tử, hiển bày ra những sai lầm mà tri thức nhân loại đang
vấp phải khi nhìn nhận, tìm hiểu đánh giá một vấn đề.
Tri
thức nhân loại đã và đang vướng vào một căn bệnh di truyền, nguy hại mà chưa có
phương thuốc chữa trị hữu hiệu. Đó là căn bệnh “ Lấy ngọn bỏ gốc”.
Có
lẽ do sự hiểu biết hạn hẹp và tính chủ quan khi nghiên cứu, tìm hiểu mà tri
thức nhân loại thường nghiên cứu, đánh giá vấn đề một cách phiến diện, thiếu
tính thực tế. Căn bệnh này dễ nhận thấy ở tất cả các ngành nghề trong xã hội từ
chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa, tôn giáo, con người, gia đình,…
Mặc
dù, ngay khi những nhà nghiên cứu đặt ra vấn đề tìm hiểu về một vấn đề nào đó
mà họ quan tâm. Họ vẫn đặt vấn đề tìm hiểu gốc lên hàng đầu nhưng họ không đứng
ở góc nhìn tổng thể nên dẫn đến lầm lạc.
Điển
hình là vấn đề Lão Tử - Đạo Đức Kinh. Những nhà nghiên cứu đã đặt ra vấn đề đầu
tiên là tìm hiểu về con người Lão Tử. Hàng loạt câu hỏi đặt ra “Lão Tử tên thật
là gì, ở đâu, làm gì, sinh ngày nào, mất năm nào, sống ở thời phong kiến nào,…?”.
Điều
này thực sự mang lại lợi ích gì ngoài những cuộc tranh luận, bút chiến không
hồi kết. Vì bị cuốn vào tranh luận nên những nhà nghiên cứu rơi vào sự chủ quan
khi đánh giá, tìm hiểu Đạo Đức Kinh. Đánh mất tính khách quan khi nhìn nhận tư
tưởng của Lão Tử dẫn đến sai lạc không ít. Thật là “Lấy ngọn bỏ gốc”.
Trên
thực tế, điều mà nhân loại cần nhìn nhận, học hỏi là ở tư tưởng của Lão Tử. Đây
mới thật sự là gốc. Còn việc sống chết, họ tên của Lão Tử chỉ là phần ngọn.
Tuy
nhiên, để chấm dứt trận bút chiến không hồi kết về cuộc đời Lão Tử tôi sẽ đi
vào “Vết xe đổ” của các nhà nghiên cứu nhằm hiển bày sự thật.
Lão
Tử là ai?
Người
có thể trả lời câu hỏi này sẽ không ai khác ngoài Doãn Hĩ và có lẽ Lão Tử - Doãn
Hĩ không thể là hai người.
Lão
Tử sinh ở thời nào?
Câu
trả lời đúng nhất chỉ có thể là thời phong kiến với bối cảnh lịch sử các nước
đang phân tranh, chém giết lẫn nhau, xã hội loạn lạc.
Các
nhà nghiên cứu sẽ tự bảo vệ sự hiểu biết của họ bằng phản biện “Tôi đã chủ quan
khi khẳng định vấn đề”.
Tôi
sẽ không tranh biện bởi lẽ việc đúng sai trong nhìn nhận vấn đề này chẳng gây
hại và cũng không lợi ích gì cho tôi và sự hiểu biết của nhân loại.
Nhưng
cũng để giúp vấn đề được nhân loại tường tận hơn, tôi sẽ lý giải.
Trong
Đạo Đức Kinh - Lão Tử có đoạn viết.
Thiên địa bất nhân dĩ vạn vật vi sô cẩu. Thánh nhân bất nhân dĩ bách tính
vi sô cẩu.
Lão
Tử đưa ra lời khẳng định. Trời đất không có tình người, xem mọi vật là bình
đẳng, không phân biệt, mọi thứ đều là như chó rơm không thương, không ghét.
Thánh nhân ở đây được Lão Tử được dùng với hàm nghĩa người ở trên tức là nhà
cầm quyền - Vua chúa, quan lại đương thời. Thế nên câu sau sẽ được diễn nghĩa “Vua
chúa, quan lại đương thời không có tình người, xem dân đen như chó rơm, như cỏ
rác, mặc sức vơ vét, bóc lột, hà hiếp”.
Không
dừng lại đó, Lão Tử viết tiếp:
Triều thậm trừ, điền thậm vu, sương thậm hư; Phục văn thái, Đái lợi kiếm,
yếm ẩm thực, tài hóa hữu dư, thị vị đạo khoa, phi đạo dã tai.
Triều
đình thật là ô uế, suy đồi, đồng ruộng thì hoang phế, kho lương thì cạn kiệt. Trong
khi đó vua chúa, quan lại thì ăn chơi sa đọa thể hiện qua lối sống của nhà cầm
quyền mặc áo gấm thêu, đai thì mang kiếm báu, ăn uống vô độ, chán mứa, để phục
vụ xa hoa, thối nát của triều đình và gia tộc, nhà cầm quyền ra sức vơ vét, bóc
lột người dân, tích góp vàng bạc, của cải về làm của riêng. Nhà cầm quyền ra vẻ
đạo mạo, tinh tươm để che dấu những việc làm xấu xa, đen tối. Cuối cùng Lão Tử
đưa ra một kết luận “Vua chúa, quan lại thời ông là trùm trộm cướp”.
Hơn
ai hết, Lão Tử là người hiểu đạo, giữ đạo. Ông tự nhận biết với hai câu nói
trên dù ông có 100 cái mạng cũng khó lòng sống sót. Thế nên ông sẽ không để lộ
thân phận, tên tuổi thật sự của mình.
Nếu
nhân loại cứ nhìn nhận, đánh giá,... Đạo Đức Kinh - Lão Tử ở góc nhìn chủ quan,
phiến diện, không sát với thực tế. Nhìn hiện tượng mà không nhìn rõ bản
chất,... thì đến bao giờ nhân loại mới nhận biết và sống được với nguồn tri
thức sâu rộng của Lão Tử?
Tôi
tự hỏi “Tri thức nhân loại đang tiến lên hay tụt lùi so với sự hiểu biết của
người xưa”.
Và
bạn - Khi nhận ra chân giá trị quyển sách Đạo Đức Kinh thì nhân loại sẽ phải
thừa nhận Lão Tử là rồng trong thiên hạ.
Lão
Tử đã là thần long thì nhân loại chỉ có thể thấy đầu mà không thấy đuôi cũng là
lẽ thường.
Nếu
lịch sử ghi nhận quyển Đạo Đức Kinh mà nhân loại đang lưu giữ có nguồn gốc xuất
phát từ Doãn Hĩ là chính xác thì Lão Tử chính là Doãn Hĩ. Bởi lẽ việc trao
truyền quyển sách có an nguy đến mạng sống của chính người trao truyền thì
người trao truyền chỉ có thể là người viết ra quyển sách đó. Lão Tử là người
hiểu đạo và cũng là người giữ đạo, ông biết rằng để lộ thân phận sẽ mất mạng
nhưng ông cũng biết việc cần thiết phải rộng truyền quyển sách để người đời
hiểu lẽ đạo, tùy thuận sống theo đạo thì xã hội sẽ bớt loạn lạc, các nước sẽ
không phân tranh, tương tàn lẫn nhau. Người dân hiểu đạo sẽ không rơi vào quỷ
kế của nhà cầm quyền đương thời. Vì thế ông mới mạo hiểm tính mạng trao truyền
quyển sách.
Sẽ
có không ít nhà nghiên cứu cho rằng tôi chủ quan khẳng định vấn đề này với lí
do Doãn Hĩ chỉ là một viên quan nhỏ giữ cửa ải thì khó thể có sự hiểu biết cao
sâu, uyên bác mà viết được quyển sách Đạo Đức Kinh.
Câu
nói “Tri nhân tri diện bất tri tâm” luôn đúng nhưng không có nhiều người lĩnh
hội và sống được với câu nói đó. Lão Tử - Doãn Hĩ là một người đắc đạo mà người
đắc đạo lại được Lão Tử diễn tả như sau:
Cổ chi thiên vị đạo giả, vi diệu huyền thông, thâm bất khả thức, cố cưỡng
vị chi dung.
Dự hề nhược đông thiệp xuyên, do hề nhược uý tứ lân, nghiễm hề kì nhược
phác, khoáng hề kì nhược cốc, hồn hề kì nhược trọc.
Lão
Tử đã khiêm hạ không dám nhận mình là
người đắc đạo. Thế nên ông chỉ mượn lời người xưa mà nói:
Người
đắc đạo xưa thời tinh tế mầu nhiệm, thông đạt sâu xa đến mức người thiên hạ
không thể đoán được, hiểu được (Bởi vì tư dục của lòng người quá lớn).
Vì
người đời không thể biết được, hiểu được người đắc đạo nên Lão Tử miễn cưỡng tả
họ như sau:
Họ
rụt rè như người mùa đông lội qua suối, họ nghi ngại như sợ láng giềng ở bốn
bên. Như là một người khách, họ đoan chính, nghiêm chỉnh. Họ tùy thuận như băng
tan thì nước chảy. Họ dày dặn, mộc mạc như gỗ chưa đẽo. Họ lờ mờ, ẩn hiện như
trong hang tối. Họ hỗn độn như nước đục.
Qua
những câu từ mà Lão Tử đã trình bày trong Đạo Đức Kinh, tôi rất hy vọng nhân
loại nên nhìn nhận các sự vật, hiện tượng nên nhìn ở góc nhìn bản chất đừng mê lầm nhìn nhận ở góc
nhìn hiện tượng mà có đánh giá các sự vật, hiện tượng không được khách quan.
Về
học thuyết, tư tưởng trong Đạo Đức Kinh, tôi chỉ có thể nói một lời “Vì thiếu
khách quan, các học giả đã diễn đạt bị sai lạc”.
Thực
ra, tôi là người hậu học, mạt tiến không dám hơn người. Có chút cơ duyên, tôi
được người bạn tặng quyển sách Đạo Đức Kinh, trong lòng tôi rất mong học hỏi
được nhiều điều bổ ích.
Với
trí hiểu biết nông cạn, tôi nhận ra Đạo Đức Kinh chẳng có điều gì đáng để học.
Bởi lẽ trong Đạo Đức Kinh có câu “Tuyệt học vô ưu; Học bất học”. Các học giả đã
diễn dịch hai câu trên với hàm ý - Dứt học thì không lo; Lấy sự không học mà
học.
Có
lẽ không riêng gì cá nhân tôi, quyển sách Đạo Đức Kinh với cách diễn giải như
vậy thì gần như là vô nghĩa. Vì bởi Lão Tử khuyên ta không nên học hỏi thì có
gì mà tìm hiểu.
Sau
đó, tôi đã chủ quan tách câu “Tuyệt học vô ưu”, “Học bất học” ra khỏi Đạo Đức
Kinh và diễn giải theo hàm nghĩa khác. Tôi cho rằng Tuyệt học vô ưu không thể diễn
đạt theo nghĩa dứt học không lo mà chỉ có thể hiểu là điều cao nhất, cùng tột
của sự học là người học đạt đến sự không lo âu, muộn phiền. Còn học bất học là
ta học nhưng không chấp chặt vào những gì ta đã học, đã biết. Chỉ khi đó ta mới
mở lòng ra học thêm được những cái hay, cái mới.
Ví như tôi là một người yêu
thích đánh đàn, tôi tìm gặp một người thầy giỏi để học đàn đến khi tôi trở
thành một người đánh đàn tài giỏi. Nếu tôi dừng lại không tìm hiểu, học hỏi,
sáng tạo thêm thì tôi chỉ là một người đánh đàn tài giỏi, là học trò của người
đánh đàn kia.
Nhưng
nếu tôi lại tìm học thêm ở những người tài giỏi khác thì mọi chuyện sẽ khác đi…
Khi
đó, tôi cứ ngỡ các nhà nghiên cứu đã thiếu khách quan khi nhìn nhận tư tưởng
của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh. Các học giả đã trói buộc cách diễn giải xuyên
suốt Đạo Đức Kinh vào câu dứt học thì không lo - Tuyệt học vô ưu khiến cho Đạo
Đức Kinh trở nên xa rời cuộc sống. Đánh mất đi giá trị thực tiễn của tri thức
người xưa. Tôi đã có ý định dấn thân vào cuộc bút chiến nhưng chánh định đã
cảnh tỉnh “Nhân loại sẽ không được ích lợi gì trong cuộc tranh luận không hồi
kết”.
Thế
nên tôi đã dừng lặng lại. Rồi nay nhân dịp viết quyển sách “Hãy là đường xưa
mây trắng bay…”, tôi đã dùng Đạo Đức Kinh để cảnh tỉnh những sai lầm của giới
lãnh đạo Trung Quốc và sự hiểu biết của nhân loại.
Nhân
dịp tôi tỏ bày chút hiểu biết về Lão Tử và Đạo Đức Kinh những mong các nhà
nghiên cứu có cách nhìn tổng thể, khách quan hơn khi nhìn nhận và đánh giá vấn
đề.
Lược
dịch lại Đạo Đức Kinh, tôi thừa nhận hai câu “Tuyệt học vô ưu” và “Học bất học”
khi đặt trong ngữ cảnh của Đạo Đức Kinh thì các dịch giả đã giải nghĩa “Dứt học
không lo”, “Lấy sự không học mà học” là thật sự chuẩn xác.
Việc
tách hai câu trên ra khỏi Đạo Đức Kinh và diễn giải khác đi là sai lầm của tôi
khi tìm hiểu Đạo Đức Kinh.
Tuy
nhiên, cũng nhờ sự sai lầm đó mà tôi đã lĩnh hội Đạo Đức Kinh ở khía cạnh khác.
Nhưng
dường như dịch giả mà tôi biết đã bị ảnh hưởng tư tưởng của chủ nghĩa duy vật
nên chủ quan nhận định Đạo Đức Kinh của Lão Tử là học thuyết vô thần.
Nhà
nghiên cứu trên đã đúng khi đưa ra nhận định Lão Tử là người không tin vào việc
“Thượng đế đã tạo ra loài người và vạn vật qua những ngôn từ trong Đạo Đức Kinh”.
Đạo xung, nhi dụng chi hoặc bất doanh, uyên hề tự vạn vật chi tôn. Tỏa kỳ
nhuệ, giải kỳ phân, hòa kì quang, đồng kì trần, trạm hề tự hoặc tồn. Ngô bất
tri thuỳ chi tử, tượng đế chi tiên.
Bản
thể của đạo là hư không như công dụng của đạo lại vô cùng. Có lẽ đạo tạo ra vạn
vật, vạn vật vận hành trong quy luật của đạo. Đạo không để lộ sự tinh nhuệ,
nhưng lại giải trừ những rối loạn, tranh cạnh, hòa đồng với mọi vật, đạo rất
sâu kín nhưng lại tồn tại mãi.
Lão
Tử thừa nhận ông không thể hiểu nó là con ai nhưng có lẽ đạo có trước cả trời
đất.
Nhưng
họ lại chủ quan nhận định Lão Tử theo chủ thuyết vô thần. Nếu tinh ý ta sẽ nhận
thấy Lão Tử thừa nhận việc tồn tại của quỷ thần. Ông nhận biết nếu loài người
sống tùy thuận theo đạo thì quỷ thần không hại được.
Tích chi đắc nhất giả: Thiên đắc nhất dĩ thanh, địa đắc nhất dĩ ninh, thần
đắc nhất dĩ linh, cốc đắc nhất dĩ doanh, vạn vật đắc nhất dĩ sinh, hầu vương
đắc nhất dĩ vi thiên hạ trinh. Kì trí chi.
Thiên vô dĩ thanh tương khủng diệt, địa vô dĩ ninh tương khủng phế, thần vô
dĩ linh tương khủng yết, cốc vô dĩ doanh tương khủng kiệt, vạn vật vô dĩ sinh
tương khủng diệt, hầu vương vô dĩ quí cao tương khủng quyết.
Đây
là những vật được đạo mà thành hình: Trời được đạo nên trong xanh, đất được đạo
nên yên, thần được đạo nên linh, khe ngòi được đạo nên tràn đầy. Vạn vật được
đạo nên sinh trưởng. Người được đạo mà có thiên hạ - làm vua chúa. Những việc
đó do tùy thuận theo đạo mà được vậy.
Nhưng
Lão Tử lại tiếp lời: Nếu trời mà không thuận theo đạo thì sẽ tan, đất không
thuận theo đạo thì đất sẽ lở, thần mà không thuận theo đạo thì sẽ mất linh, khe
ngòi không thuận theo đạo thì sẽ cạn mất, vạn vật mà không thuận theo đạo thì
sẽ bị diệt vong, vua chúa mà không thuận theo đạo thì sẽ mất ngôi.
Dĩ đạo lị thiên hạ, kì quỉ bất thần, phi kì quỉ bất thần, kì thần bất
thương nhân; Phi kì thần bất thương nhân, thánh nhân diệc bất thương nhân. Phù
lưỡng bất tương thương, cố đức giao qui yên.
Dùng
đạo mà sống trong trời đất thì cho dù quỷ thần cũng không thể làm hại được.
Chẳng những quỷ thần không hại được mà vua chúa, quan lại triều đình cũng không
làm hại được. Cả hai lực lượng vô hình - Quỷ thần và hữu hình - Người đều không
làm hại được. Thế nên người sống thuận theo đạo thì rất yên ổn, không ai có thể
gây hại được.
Thế
nên cho rằng Lão Tử theo chủ thuyết vô thần là có phần gượng ép. Lão Tử thừa
nhận có quỷ thần nhưng quỷ thần cũng nằm trong đạo, phải tùy thuận theo đạo.
Ông thừa nhận xã hội đang đánh mất đạo nên loạn lạc khắp nơi. Vì vậy ông quay
về ở ẩn, làm người giữ đạo và khuyên mọi người cùng giữ đạo.
Thượng nhân vi chi nhi vô dĩ vi; Thượng nghĩa vi chi nhi hữu dĩ vi. Thượng
lễ vi chi nhi mạc chi ứng, tắc nhương tí nhi nhưng chi.
Cố thất đạo nhi hậu đức, thất đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa,
thất nghĩa nhi hậu lễ. Phù lễ giả, trung tín chi bạc, nhi loạn chi thủ. Tiền
thức giả đạo chi hoa, nhi ngu chi thủy. Thị dĩ đại trượng phu xử kì hậu, bất cư
kì bạc, xử kì thực, bất cư kì hoa, cố khứ bỉ thủ thử.
Lão
tử trình bày: Người có lòng nhân thì làm việc tốt mà không nghĩ mình đã làm
việc tốt. Người có lòng nghĩa thì làm việc tốt, để tâm đến những việc tốt mình
đã làm. Người giữ lễ thì làm việc theo lễ nghĩa và buộc người khác xử sự theo
lễ nghĩa. Đôi khi thái quá khiến mất hết tình.
Đạo
mất rồi mới có đức, đức mất rồi mới có nhân, nhân mất rồi sau mới có nghĩa,
nghĩa mất rồi sau mới có lễ. Lễ là biểu hiện cho sự suy vi trung tín, là đầu
mối của những rối loạn trong xã hội. Vì lẽ lễ nghĩa là biểu hiện của sự giả
tạo, gượng ép. Không phải là gốc của đạo. Cho nên người hiểu đạo không trọng lễ
nghi rườm rà, không bày vẻ, chỉ xử sự theo lẽ đạo.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tư tưởng khiêm
nhu, bất tranh của Lão Tử rất có hại dẫn đến sự diệt thân mình và diệt vong. Sẽ
khiến loài người chậm phát triển, ngăn chặn sự tiến bộ của loài người.
Do
không nhìn ở góc nhìn khách quan, tổng thể các nhà nghiên cứu đã không lĩnh hội
được hàm ý ở trong Đạo Đức Kinh. Hoa mai, hoa đào đến mùa xuân lại ra hoa; cây
ra hoa, kết trái, trái chín. Những sự vật hiện tượng trên có cần phải cạnh
tranh quyết liệt để phát triển không hay đó chỉ là quy luật của tự nhiên. Con
người đã sai lầm khi tạo ra những cạnh tranh khốc liệt, không đáng có, không
lành mạnh để rồi gây hại cho chính con người.
Ông
cũng khẳng định lại lời nói trước đó - Loài người đã lầm lạc, không hiểu được
lẽ thật này đã từ lâu lắm rồi. Vì thế nên con người mới có những phản ứng trái
ngược nhau khi tìm hiểu đạo.
Thượng sĩ văn đạo, cần nhi hành chi. Trung sĩ văn đạo, nhược tồn nhược
vong. Hạ sĩ văn đạo, đại tiếu chi. Bất tiếu, bất túc dĩ vị đạo.
Người
hiểu biết, sáng suốt nghe đạo thì gắng sức làm theo. Người bình thường nghe đạo
thì nửa tin, nửa ngờ. Người không hiểu biết nghe đạo thì cười rộ, mỉa mai và dè
bĩu. Lão Tử thừa nhận: Nếu không cười nhạo thì đạo đã không còn là đạo.
Nhưng
nhìn xã hội loạn lạc, lòng người điên đảo do không hiểu đạo, làm điều trái đạo,
Lão Tử đã xót xa vì không thể giúp người dân có cuộc sống yên bình nên đã cảm
thán.
Ngô uyên thậm dị tri, thậm dị hành. Thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành.
Ngôn hữu tôn, sự hữu quân. Phù duy vô tri, thị dĩ bất tri ngã.
Lời
của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm. Nhưng thiên hạ không ai hiểu được, làm được.
Lời nói của ta có cơ sở, việc của ta nói có căn cứ nhưng người đời không làm
theo, không chịu hiểu, không chịu tin nên không biết đến ta.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét