Chiết giải vấn đề nhị nguyên (P.1)
Thứ Bảy, 10 tháng 6, 2017
2. Chiết giải vấn đề nhị nguyên
Cụ thể là Khổng Tử và Mạnh
Tử với lập luận “Nhân chi sơ tính bản thiện” - con người khi mới sinh ra đều
rất lương thiện. Qua quá trình con người lớn lên, học hỏi, rèn luyện thì mới sinh
khởi những việc làm không tốt, dần dần hình thành nên những đức tính xấu ác như
tham lam, gian xảo, bần tiện, ích kỷ, tàn độc,…
Vì thế nhằm nuôi giữ thiện
tính ở con người Khổng - Mạnh đã chủ trương việc dạy học nhằm rèn luyện nhân
cách, phẩm hạnh, đạo đức. Tư tưởng xuyên suốt trong học thuyết Khổng - Mạnh là
dùng Nhân Trị và Đức Trị.
Dù vậy, học thuyết của Khổng
- Mạnh đã không gặt hái được kết quả đúng như mong mỏi của những người hiền
giả, minh triết. Xã hội vẫn cứ loạn lạc, chiến tranh vẫn cứ triền miên, người
dân vẫn cứ khốn cùng, đói khổ,…
Đến thời Tuân Tử và Hàn Phi,
họ nhận thấy xã hội rối ren, hôn quân bạo chúa thì vô số, gian thần, quan chức
vô loại thời nào, triều đại nào cũng có cho nên việc nhìn nhận bản tính con
người được xét lại.
Dựa vào thực tế, những học
giả này nhận thấy những đứa trẻ khi mới sinh ra sớm thể hiện tính khí tham lam,
xấu ác qua việc giành giật “đồ ăn, thức uống”, tình thương,… họ đã đưa ra lập
luận “Con người khi sinh ra là đã sẵn mang tính ác” - Nhân chi sơ tính bản ác.
Từ đó, những nhà tư tưởng
đưa ra biện pháp đối trị là dùng Pháp Trị - dùng hình luật, các biện pháp cưỡng
chế, áp bức, răn đe,… nhằm đưa con người vào khuôn phép, nguyên tắc để ổn định
kỷ cương xã hội.
Nhưng khi áp dụng tư tưởng
Pháp trị vào thực tế thì lại tạo ra nhiều khiếm khuyết, tạo ra sự phân tầng xã
hội sự giàu nghèo, người quyền thế và dân đen cùng đinh càng thêm rõ rệt, góp
phần làm tha hóa, rối ren xã hội, chiến loạn khắp nơi.
Vì lẽ chế tài, hình phạt,…
chỉ có thể răn đe, trói buộc người dân nghèo khiến đời sống người dân rơi vào
khốn khó, cùng đường còn những thành phần khác dễ dàng thoát ra những biện pháp
quản lý, chế tài hà khắc. Con người lúc bấy giờ nhờ tích lũy thêm nhiều cơ trí,
mưu mô, xảo quyệt,… đã tìm đủ mọi cách để “lách luật” thoát ra khỏi chế tài
nhằm dễ dàng thu gom tài vật, quyền lợi, địa vị,…
Biện pháp hữu hiệu nhất để
“lách luật” mà con người nhờ học hỏi sự cơ mưu, quyền biến trong tư tưởng Pháp
gia đó là “Lợi mê lòng người”.
Cụ thể là con người sẽ dùng
tiền bạc, của báu, người đẹp,… nhằm mua chuộc giá trị nhân cách những người nắm
giữ quyền lực, hoặc là có tầm ảnh hưởng đến việc làm phi pháp,… để được “chiếu
cố, làm ngơ,…” trước những việc làm sai trái mang lại lợi ích cho cá nhân, cho
người bỏ tiền của ra mua chuộc.
…
Khác với cách nhìn nhận bản
tính con người của các nhà tư tưởng cùng thời, Lão Tử nhìn cuộc sống với góc
nhìn khoáng đạt, tổng thể hơn.
Vì thế nhân sinh quan của
Lão Tử không bị trói vào Thuyết tính thiện của Khổng - Mạnh cũng như Thuyết
tính ác của Tuân Tử - Hàn Phi.
Lão Tử nhìn rõ hơn sự thăng
trầm của cuộc sống, của xã hội đương thời. Ông cơ hồ nhận ra quy luật “Nước
ròng, nước lớn”, ông điềm tỉnh, bình thản nhìn nhận lại mọi vấn đề và giữ mình
không bị cuốn vào cám dỗ, lợi danh cũng như vòng xoáy của cuộc sống, việc chiến
loạn triền miên.
Do đứng ở góc nhìn khách
quan nên Lão Tử tựa như đã đặt mình làm bờ sông để “quán sát” hiện tượng “Con
nước ròng, con nước lớn” và sự hiểu biết của ông về những quy luật của cuộc
sống rõ ràng hơn, ông nhận ra quy luật “Con nước ròng, con nước lớn” cơ hồ có
biểu hiện ở mọi sự vật, hiện tượng.
Tiếp đó, Lão Tử nhận ra khi
sống tùy thuận theo những quy luật trên thì tâm trí con người sẽ thảnh thơi, tự
tại và thân mạng được an ổn, không rơi vào hung hiểm.
Tuy nhiên, Lão Tử thật sự
không rõ biết quy luật cuộc sống có nguồn gốc từ đâu, ông đã tìm hiểu nguồn tri
thức cổ để tường tận nguyên ủy của quy luật cuộc sống nhưng nơi nguồn tri thức
cổ mà ông “góp nhặt” được vẫn không lý giải rõ ràng về cội nguồn sự sống và
những quy luật cuộc sống.
Sau cùng, ông tùy thuận thừa
nhận chữ “đạo” mà người xưa đã dùng làm khái niệm chung nhất chỉ cội nguồn phát
sinh loài người, sự sống và vũ trụ.
Lão Tử đã mặc định “Tổng hòa
những quy luật cuộc sống và sự sống tạm gọi là đạo”.
Do nhận biết nguồn tri thức
cổ có điểm không thật chuẩn xác, rõ ràng cũng như việc ông không thể thấu rõ
“đạo” mà ông lại thừa nhận rõ thật hơn là “Đạo khả đạo phi thường đạo”.
Về sau, Lão Tử vẫn miệt mài
tìm hiểu, nhận biết đạo nhưng ông không thể lĩnh hội rốt ráo “đạo”. Sai lầm của
Lão Tử trong việc lĩnh hội đạo là đã né tránh, không tìm hiểu về thế giới vô
hình.
Có lẽ lúc bấy giờ ông nhận
định “Chạm vào thế giới vô hình tâm ông sẽ động loạn, không an, có thể an nguy
đến mạng sống”.
Trên thực tế là khi Lão Tử
sống tùy thuận theo đạo thì ông rất tự tại, an ổn và vì sự an toàn Lão Tử đã
không thâm nhập vào thế giới tâm linh.
Điều này được nhìn nhận sáng
rõ hơn qua phương thức Lão Tử truyền trao nguồn tri thức mà ông lĩnh hội, nhận
biết vào xã hội loài người. Việc truyền trao Đạo đức kinh âm thầm, lặng lẽ
trong giới ẩn sĩ và việc che dấu thân phận, tên tuổi thật để nhận biết rằng xã
hội thời Lão Tử thật sự loạn lạc, rối ren đồng hành với sự bại hoại, suy đồi
của giai cấp lãnh đạo phong kiến. Lão Tử thực sự chỉ muốn sự an toàn mạng sống cho
chính ông cũng như mọi người trong xã hội.
Có rất nhiều sự chuẩn mực có
trong học thuyết của Lão Tử đáng kể đến là sự chuẩn mực về việc con người khi
tham đắm ngũ dục - của cải, người đẹp, uống ăn, danh lợi, địa vị sẽ “sớm chết”,
điều này đúng cả hai mặt: Chủ quan và khách quan,...
Cũng chính do không rõ biết
“Đạo là gì?” mà ông không thể trả lời được hàng loạt những câu hỏi quan trọng
cho tri thức loài người.
Lão Tử chỉ có thể khuyên
người sống tùy thuận theo đạo, không tham đắm tài vật, lợi danh nhằm bảo toàn
tính mạng, kéo dài tuổi thọ nhưng ông không thể trả lời được những câu hỏi
“Sống để làm gì? Không lẽ con người sẽ kéo dài năm tháng sống ở đời để uống ăn,
ngủ nghỉ, duy trì nòi giống?”.
Nếu không phải sống để thọ
hưởng thì tại sao con người phải sống?
Còn bằng thọ hưởng tiền tài,
danh lợi, đam mê dục vọng,… thì con người sẽ phải “sớm chết”,…
Vậy con người phải sống ra
làm sao?
Tại sao phải sống thuận theo
đạo?
Nếu chỉ đơn thuần là kéo dài
tuổi thọ thì có đáng phải thuận theo đạo không?
Ở đây, ta nhận thấy những
câu hỏi trên rất gần với câu hỏi về cội nguồn con người.
Tại sao con người được sinh
ra?
Có lẽ nào con người sinh ra
để bệnh, già rồi chết?
Hiển nhiên là Lão Tử không
thể trả lời được những câu hỏi then chốt của sự sống. Cũng vì lẽ đó mà tư tưởng
của Lão Tử không thể được ứng dụng rộng khắp. Chỉ có những người chán ngán thế
sự suy đồi, loạn lạc,… mới tin nhận và thuận theo nhằm an toàn mạng sống.
Bởi do giới hạn tri thức mà
những con người sống tùy thuận theo đạo cũng không rõ biết con đường mà họ đang
đi. Còn những người sống trong vòng xoáy cuộc sống xã hội không thể học hỏi,
thuận theo vì lẽ giới thống trị bạo quyền, sa đọa, những kẻ “ăn trên, ngồi
trước” cùng với nhóm người cùng đinh, quẫn bách sinh tâm cường đạo, giặc cướp,…
không thể ngừng dứt tham đắm, si mê, tàn độc,…
Bởi lẽ họ không rõ biết sống
thiện lương thì sẽ được gì?
Họ chỉ thấy ở nơi đó có sự
nghèo khó, khốn đốn, đói khổ, lưu lạc,…
Thật vậy, họ không trả lời
được câu hỏi “Tại sao phải lương thiện? Ai cho tôi lương thiện?...”. Vì thế mà
con người thời Lão Tử phải ngụp lặn sống mãi trong chiến loạn, hận thù. Vấn đề
đạo của Lão Tử bị dừng lại, giới hạn ở đấy.
Người kế thừa, nối tiếp tư
tưởng Lão Tử để lại tên tuổi trong tri thức nhân loại được biết đến là Trang
Tử. Tuy nhiên, do giới hạn về góc nhìn, nhận thức mà nhân loại đã có sự ngộ
nhận về sự thành công trong học thuyết Trang Tử. Trang Tử thật sự không giúp
Đạo Lão tiến lên mà rẽ sang một bước ngoặt mới và từ đó từng bước làm mai một
Đạo Lão.
Đối với pháp thế gian, phàm
mọi việc nếu không có sự phát triển tiến lên mà chỉ dừng lại thì cũng đồng
nghĩa với việc tụt dốc, rơi rớt vì những sự vật, hiện tượng khác vẫn không
ngừng vươn lên huống hồ là việc lạc vào đường rẽ, lối nghẽn.
Lẽ ra, Trang Tử phải phát
triển học thuyết Lão Tử bằng việc tìm hiểu, nhận biết thông suốt về đạo. Đằng
này Trang Tử lại bỏ qua, không chú trọng việc rõ biết đạo mà đi đào sâu tìm
hiểu việc dưỡng sinh, kéo dài tuổi thọ. Do mơ hồ biết việc giữ “Tâm xích tử”
giúp con người kéo dài tuổi thọ khiến Trang Tử phát triển học thuyết theo
khuynh hướng thoát tục, lánh đời.
Từ đó, học thuyết của Lão -
Trang tạo ra không ít ngộ nhận, lầm lạc cho người đời sau về phương pháp tu
tiên, về việc luyện thuốc “Trường sinh, bất tử”.
Con người có thể siêu nhiên
xuất thế, thoát tục khi mang xác thân vật chất được không?
Nói cho cùng tận đó chỉ là
việc trốn tránh trách nhiệm, bổn phận của một người sống, là việc lánh đời.
Có việc trường sinh không?
Việc kéo dài tuổi thọ bằng
việc giữ tâm xích tử là thật có, việc tạo ra hình thần - huyễn thân rồi xuất ra
khỏi xác thân rong chơi tiêu diêu, tự tại là thật có. Nhưng dù kéo dài tuổi thọ
đến bao lâu rồi thì cũng đến một ngày con người sẽ chết. Còn việc bất tử thì
hoàn toàn không thể. Vậy mà đã có không ít người trong nhân loại phải chết oan uổng
cho việc tìm phương thuốc trường sinh bất tử. Với tri thức ngày nay nhân loại
sẽ dễ dàng nhận ra có sinh là có tử, có đến tất có đi,…
Đến như sự tồn tại của trái
đất cũng không thể là mãi mãi thì một thực thể tồn tại trong hành tinh xanh lại
có thể bất tử được sao?
Thế mà cho đến ngày nay vẫn
có không ít người còn u mê, ngu muội,… tin rằng có sự bất tử. Cụ thể là có vài
người trước khi chết đã nhờ sự trợ giúp của khoa học bảo bọc, giữ gìn sự toàn
vẹn xác thân vì họ tin rằng một lúc nào đó khoa học sẽ phát triển đến khả năng
giúp những xác chết hồi sinh sống đời bất tử. Thật là quá hão huyền, hoang
đường!
…
Tuy nhiên, cũng không có
nhiều người hành trì giữ “Tâm xích tử” đạt đến khả năng tạo huyễn thân, xuất
huyễn thân du nhập cõi giới vô hình.
Lý do?
Ngay trong học thuyết của
Lão - Trang đã thể hiện một khiếm khuyết rõ nét, sự khiếm khuyết này cũng là
sai lầm chung của nhân loại. Cũng chỉ là một chữ Tham nhưng có sai khác về bản
chất. Khi nhìn thấy con người vì tham đắm ngũ dục thì sẽ sớm chết Lão - Trang đã
xa lánh sự tham ngũ dục nhưng lại rơi vào việc tham sống - việc dưỡng sinh, kéo
dài tuổi thọ.
Vì xuất phát điểm không
chuẩn nên không dễ dàng gì người tu tiên về đến đích dễ dàng. Chính vì lẽ đó mà
khi hành trì tạo huyễn thân người tu tiên sợ rằng “có đi ra mà không có trở về”
nên việc tiến tu gặp nhiều trở ngại và cho dù thành công trong việc tạo huyễn
thân cũng không thật là cứu cánh giúp người tu đạo thoát ra 3 cõi 6 đường. Bởi
lẽ còn sinh thì hẳn là còn tử.
Hơn nữa, nếu khi xuất hình
thần mà người tu đạo không giữ vững định tâm hư tĩnh mà lưu xuất tà niệm, niệm
bất thiện thì dễ xảy ra việc điên loạn hoặc bị “chiếm mất nhà” mà người tu đạo
gọi là “đoạt xá”.
Chính do việc không tìm ra
được phương cách trường sinh bất tử, việc không thật sự là cứu cánh giúp người
thoát khổ, việc lánh đời, thoát tục,… mà tri thức nhân loại dần quên bỏ đạo Lão
- Trang.
Qua phần luận giải trên, bạn
sẽ nhận ra những học thuyết, triết giải hàng đầu có giá trị thực tiễn của hệ tư
tưởng thời Bách gia chư tử đều vướng vào nền tảng nhị nguyên, đối đãi và không
thực sự sáng rõ cùng tột vì vậy mà không giúp con người thoát ra khỏi sự bấn
loạn nội tâm, sự tham đắm, si mê, chiến tranh, thù hận, loạn lạc,…
Nhưng có một sự thật là
nguồn tri thức cổ đó chứa đựng những phương pháp rèn luyện, tu thân, hàm dưỡng
nội tâm, tinh thần,… thật sự chuẩn mực góp phần xây dựng cuộc sống xã hội hài
hòa, yên bình và đến nay tính thực tiễn, khả dụng của những bài học quý giá
trên dường như đã bị lãng quên.
…
(Còn tiếp)
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét