Chiết giải vấn đề nhị nguyên (P.2)
Thứ Tư, 14 tháng 6, 2017
…
Khuất
Nguyên cũng vì vướng vào màng lưới vô minh của nhị nguyên mà loạn trí, trầm
mình xuống sông tuẫn tiết. Bởi lẽ dù rằng qua sự hiểu biết tự thân ông đã vạch
ra nhiều lối đi trong cuộc sống nhưng ông không rõ là nên chọn con đường nào để
sống hết quãng đời còn lại.
Thế
nào là đúng? Thế nào là sai?
Ông
“xét lại” khoảng thời gian sống đã qua, ông nhận biết “Mình không sai”.
Nhưng
nếu không sai tại sao ông gặp phải kết cục hiện tại?
Vua
không trọng, phế truất rồi lưu đày xuống Giang Nam, không có người thông hiểu
kể cả người bạn học nhiều, biết rộng là quan Thái bốc Trịnh Thiềm Doãn,… Và ông
lại rơi vào suy tư “Có lẽ mình sai? Sai chỗ nào?”. Ông không tìm được câu trả
lời và do bản tính cang cường, cố chấp, cực đoan mà ông nghĩ rằng “Đã không có
ai hiểu ông, có sống cũng bằng thừa, cuộc sống không cần đến ông, ông cũng
không cần sự sống,…”.
Do
không muốn sống một cuộc sống đến hồi vô dụng, kéo lê thê quãng đời qua những
tháng năm dài ông đã tự tận. Dù vậy ông vẫn không trốn thoát khỏi màng lưới nhị
nguyên, đối đãi đang bao phủ, xiết chặt, đè nặng tâm trí ông.
Hàn
Phi cũng nhận lấy cái chết bi thảm từ màng lưới nhị nguyên. Do mặc định bản
tính con người là ác ông đã vạch ra đường lối Pháp Gia để đối trị. Hàng loạt
hình luật, biện pháp trừng phạt, chế tài,… đặt ra nhằm đưa xã hội vào nguyên
tắc, khuôn khổ, nề nếp,…
Nhưng
sự cơ xảo có trong học thuyết của ông khiến các thành phần gian lận, cơ hội,
thủ đoạn,… tìm ra nhiều kẽ hở của luật pháp nhằm tranh giành phần hơn, hưởng
lợi,… Thế là thêm hàng loạt những chế tài bổ sung được áp dụng nhưng nhóm người
cơ mưu, thủ đoạn lại tiến lên một chiến lược mới, hữu dụng. Phương cách “Lợi mê
lòng người” thực sự mang nhiều lợi ích cho mọi thành phần “Ăn trên, ngồi trước”
của xã hội.
Việc
thể hiện tài năng về chính trị qua những đề xuất chính sách chiến lược đa dạng
của Hàn Phi đã giúp Tần Thủy Hoàng bước đầu an định, thống trị thiên hạ, đất
nước.
Qua
đó, tạo ra tư thù ngấm ngầm trong Lý Tư. Người bạn đồng môn Lý Tư sớm nhận ra
người chặn đường tiến thân của mình ở triều chính là Hàn Phi nên đã dùng gian
kế hãm hại. Thế là chấm dứt đời một nhà tư tưởng kiệt xuất nhưng có phần lầm
đường.
Nếu
đổ lỗi cái chết của Hàn Phi hoàn toàn do nơi Lý Tư là có phần khiên cưỡng vì
thật ra đó chính là âm kế của Tần Thủy Hoàng.
Do
việc áp dụng các chế tài hà khắc có ở luận thuyết của Hàn Phi đã dồn người dân
vào đường cùng gây ra sự căm phẫn trong lòng thiên hạ, Tần Thủy Hoàng chấp nhận
việc giết Hàn Phi để trấn an lòng người và cũng nhằm mục đích “Giết gà dọa khỉ”
với dụng tâm áp đảo tinh thần các thế lực đối nghịch âm thầm.
Lẽ
ra, Hàn Phi sau khi dùng hàng loạt các chế tài, hình luật,… để sắp xếp lại trật
tự xã hội. Ông phải tiến hành giáo dục nâng cao ý thức tự giác tuân thủ pháp
luật ở con người nhằm từng bước gỡ bỏ những chế tài, án phạt,… Việc điều chỉnh,
ổn định lại xã hội dựa vào con đường Đức Trị và Nhân Trị. Vì lẽ thật chẳng ra
sao, thật chẳng đúng,… khi sự hiểu biết con người càng nâng lên thì con người càng
phạm pháp nhiều. Con người càng khôn ngoan thì lại càng có nhiều thủ đoạn tinh
quái và tạo ra thêm vô số lỗi lầm.
Hẳn
là Hàn Phi không thể không biết đến câu “Đạo cao một thước, ma cao một trượng”
nhưng ông đã không thể tùy thuận theo dẫn đến gặp họa sát thân. Có lẽ đã có sự
xung đột tư tưởng giữa Tần Thủy Hoàng và Hàn Phi vì chính sách cai trị độc tài
của Tần Thủy Hoàng là sách lược ngu dân nhằm dễ bề cai trị.
Thế
nên, con người càng đặt ra nhiều chế tài, hình luật,… thì việc tạo tội sẽ càng
thêm nhiều, thủ đoạn xảo quyệt và tinh vi hơn. Việc làm đó sao bằng việc giáo
dục ý thức giúp con người hoàn thiện nhân cách, phẩm hạnh nhằm từng bước xóa bỏ
những chế tài, biện pháp cưỡng chế. Có lẽ khi “Đạo thấp xuống còn nửa thước thì
ma sẽ giảm thiểu còn non nửa trượng”. Có một sự thật là với một rừng cây đang
phát triển đồng đều, mỗi cây sẽ đều cố vươn cao hơn những cây khác. Nhưng nếu
ta tiến hành chặt thấp xuống gần như toàn bộ số cây ở cánh rừng đó thì những
cây không bị chặt còn lại sẽ không cố vươn cao thêm nữa. Chúng cũng chẳng thể
thấp xuống cho đến khi một cơn gió lốc quét qua hoặc là một luồng điện được
phóng từ trên trời thẳng xuống những thân cây đơn độc,…
Nếu
chấp nhận dùng sự hiểu biết chân chính và nhìn với góc nhìn tổng thể, khách
quan bạn sẽ nhận thấy về bản chất là không có sự khác biệt ở trong những sự
vật, hiện tượng khác nhau. Sự chi phối của những quy luật khách quan luôn đồng
nhất và tương tự, chúng không lệ thuộc vào không gian cùng thời gian, chỉ là sự
tùy thời.
Có
lẽ nào nhân loại cứ xây dựng nề nếp, kỷ cương,… xã hội con người bằng việc dùng
các biện pháp cưỡng chế, trừng phạt,… bằng vô số chế tài, hình luật không ngừng
được bổ sung mà không dựa trên cơ sở tự ý thức, sự hiểu biết con người ngay
trong kỷ nguyên hiện đại, văn minh và tiến bộ. Đã thế sao có thể khiên cưỡng
bảo hộ, che đậy bằng những ngôn từ gây ra sự ngộ nhận, lầm lạc “Con người ngày
càng hiểu biết, văn minh và ý thức sống không ngừng nâng lên”.
…
Xét
thêm về việc “Lợi mê lòng người”.
Ở
đây, ta sẽ thấy có rất nhiều sự được và mất trong cùng một vấn đề. Ta nhận
thấy: Những người cơ hội, thủ đoạn,… sẽ phải trả một cái giá không hề nhỏ. Họ
sẽ mất một lượng tiền của, tài vật lớn nhằm mang về quyền lợi, địa vị, tiền của
dồi dào hơn kèm theo sự rủi ro, nguy hiểm. Bởi do không hẳn là lúc nào họ cũng
thành công trong việc thực hiện những việc làm bất minh, bất tường đó. Thêm
nữa, những thế lực bị mua chuộc “ăn quen, nhịn không quen” nhũng nhiễu thi
thoảng lại vòi vĩnh, xin thêm.
Những
người bị mua chuộc được gì, mất gì?
Họ
được một số tiền lớn, một khối tài sản khổng lồ và họ mất đi giá trị phẩm cách
con người. Dù rằng với vị trí đang nắm giữ họ vẫn có thể tiếp tục gom góp nhiều
tài vật hơn nữa. Nhưng một khi giá trị nhân cách con người không còn thì họ đã
mất tất cả. Thực tế là lúc họ tại vị thì những kẻ cơ hội, thủ đoạn,… vẫn xum
xoe, bợ đỡ,… Dù vậy, ngay khi họ quay lưng đi thì những kẻ cơ hội sẽ buông lời
miệt thị, coi khinh vì con người khi đánh mất nhân cách rồi thì không đáng xem
là một con người nữa.
Nhất
là khi những người bị mua chuộc “sa cơ, thất thế” thì họ sẽ nếm trải “tất cả vị
đắng” của thói đời. Đáng thương thay cho những tâm hồn tội lỗi! Đó chính thật
là cái giá mà họ phải trả, “gieo nhân nào sẽ phải gặt quả nấy”, họ đã gieo nhân
“bán nhân cách, giá trị con người” thì phải nhận quả tương xứng của “một con
người không còn giá trị con người”. Vì thế họ sẽ chẳng thể than thân, trách
phận, hận ghét lòng người đen bạc đổi thay.
Không
chỉ vậy! Dù là có “lắm bạc, nhiều tiền”, địa vị cao, danh lợi nhiều nhưng trong
lòng họ luôn có những bấn loạn, nơm nớp lo sợ,… bởi vì họ không rõ biết khi nào
những việc làm sai trái của họ bị phơi bày ra ánh sáng. Khi đó họ sẽ mất tất
cả, điều này là hoàn toàn có thể xảy ra vì cuộc sống luôn có sự tiến bộ đổi
thay.
Khi mặt trời lên thì ngay cả những nơi sâu
thẳm, tối tăm, mù mịt nhất cũng sẽ có lúc nhận được những tia nắng sớm và hơi
ấm luôn bao phủ khắp không gian.
Ở
vấn đề trên, ta lại thấy một điều đáng tiếc. Nếu chỉ xét vấn đề được mất ở
những kẻ cơ hội thủ đoạn và người bị mua chuộc thì ta bị rơi vào màng lưới nhị
nguyên đối đãi, sự hiểu biết của ta sẽ bị sự vô minh che lấp. Ở đây ta thấy có
một khối tài sản, một khoản tiền lớn luân chuyển qua lại giữa người dùng tiền
của mua chuộc người khác và người bán giá trị nhân cách cá nhân cùng gia đình.
Số
tiền của, tài sản,… đó là của người bỏ ra mua chuộc người khác hay của người bị
mua chuộc?
Điều
đáng tiếc là số tiền của đó không thật sự là của hai hạng người trên. Số tiền
của đó thật sự là giá trị thặng dư của toàn nhân loại. Phần lớn giá trị thặng dư
đó là mồ hôi, nước mắt, sức lực và cả máu xương của những người lao động chân
chính. Họ đã tạo ra chúng nhưng không hoàn toàn làm chủ sở hữu chúng vì “cơm áo
gạo tiền”, vì sự giới hạn về nhận thức, tư duy của toàn nhân loại. Vì thế họ
chấp nhận “Giá trị thặng dư đó không thuộc về họ” và hai hạng người trên nghiễm
nhiên giành giật, thu về rồi nhận làm của mình. Thật là điên đảo thị phi!
Nhưng
cuộc sống luôn có những giới hạn mà khi con người dù cố tình hay vô ý vượt qua
đều phải đánh đổi những giá trị tương đương. Dù rằng người lao động đã lờ đi và
quên bỏ “Khối tài sản thặng dư” vì họ cần được sống. Tuy nhiên, khi người lao
động bị dồn vào đường cùng, không còn đủ điều kiện đảm bảo cuộc sống nữa thì họ
sẽ không cần sống, không sợ chết nữa.
Họ
sẽ vùng lên đòi lại những gì thuộc về họ thì hai hạng người tham lam, hèn hạ
trên liệu có còn ngang nhiên ngồi thọ hưởng, “ăn trên, ngồi trước” được không?
Đã
có rất nhiều cuộc đấu tranh, chính biến do con người tạo ra nhằm thay đổi, cải
tổ lại bộ máy quản lý cai trị xã hội với mong mỏi thể chế chính trị mới mang
lại sự bình đẳng, hài hòa, dân chủ và bác ái cho con người.
Tại
sao việc giành giật lại “Giá trị thặng dư” của người lao động lại không chạm
đến hai hạng người thâu tóm “Giá trị thặng dư” mà lại nhằm vào việc thay đổi bộ
máy quản lý cấp nhà nước?
Bởi
lẽ nhận thức của nhân loại hiện nay là sự hòa bình, tiến bộ, phát triển của một
đất nước là do thành phần lãnh đạo đất nước quyết định.
Con
người có cùng chung nhận định rằng “Chính việc quản lý yếu kém của thể chế
chính trị đã tạo ra những lỗ hổng và dung dưỡng thành phần cơ hội, thủ đoạn
cùng với nhóm người “Sâu dân, mọt nước”. Thế nên muốn lập lại trật tự cho một
xã hội, một đất nước con người sẽ tìm đủ mọi cách để thay đổi thể chế chính
trị””.
Trong
bối cảnh xã hội đó thì sẽ phát sinh ra một số thế lực đối lập với thành phần
cai trị đương thời do một trong hai hạng người đứng đầu tổ chức:
-
Một là người trong số những người dân cùng đường tự đứng ra chịu trách nhiệm
lãnh đạo với ý chí “Xóa bỏ bất công, tổ chức cải cách lại xã hội,...”.
-
Hai là người thuộc hạng người cơ hội, thủ đoạn,… lợi dụng bối cảnh rối ren,
khuấy đảo mọi việc nhằm tranh giành quyền lực, địa vị.
Sở
dĩ có việc tạo ra những lực lượng đối lập là do dựa vào tâm ý chung, niềm tin,
sự mong mỏi,… ở nơi người lao động, dân nghèo,… mà sẽ có một số người đứng ra
thành lập những tổ chức với quan điểm đối lập hoặc thể hiện việc cải tổ lại
những chính sách không chuẩn mực của thể chế chính trị đương thời cùng với việc
thể hiện lập trường lo cho dân nghèo và người lao động nhằm lôi kéo, gom góp sự
ủng hộ về vật chất, tinh thần cũng như mạng sống con người.
Những
cuộc đấu tranh, chiến loạn, chính biến,… phần lớn đều bắt đầu từ những nguyên
nhân, yếu tố, bối cảnh xã hội đặc trưng như vậy.
Liệu
giải pháp vùng lên giành lại phần “Giá trị thặng dư”, giành lấy quyền làm chủ,
quyền lãnh đạo có phải là việc làm chuẩn mực, cần thiết, đáng làm, cần làm, nên
làm và không có lỗi lầm?
Thực
ra đó không là một giải pháp tối ưu. Khi sự hiểu biết của nhân loại còn bị trói
vào màng lưới nhị nguyên phân biệt, dính mắc đối đãi thì máu, nước mắt, khổ
đau, hận thù sẽ không ngừng dứt bởi do sự tàn ác man rợ, thú tính,… trong việc
giết hại lẫn nhau để giành lấy phần hơn về cho cá nhân, dòng tộc, quốc gia,…
ngày càng thêm khốc liệt. Dù rằng ai thắng, ai thua thì luôn có rất nhiều người
dân nghèo, người vô tội bị giết sau những cuộc tàn sát thảm khốc, con lại thiếu
cha, vợ lại mất chồng, những cảnh đời nghiệt ngã, những ông già bà lão đơn
chiếc, héo hon, những đứa trẻ bơ vơ, lưu lạc,...
Lịch
sử loài người đã chứng kiến bao nhiêu cuộc nổi dậy, vùng lên, chiến loạn khốc
liệt, đẫm máu con người?
Có
lẽ sẽ không sai khi nói “Máu, nước mắt loài người đổ xuống cho những cuộc chiến
tranh từ xưa đến nay không hề ít hơn nước của 4 đại dương (Thái Bình Dương, Bắc
Băng Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương) trên trái đất. Xương thịt của những
người chết do những cuộc chiến cũng không thể nhẹ hơn trọng lượng của “5 châu,
4 biển”.
Phải
chăng vì thế mà nước biển, đại dương có vị mặn của máu và nước mắt con người?
Kết
quả của những cuộc chiến loạn dù thất bại hay thành công thì cũng chỉ có cùng
một đáp án. Một thể chế chính trị được tái thiết trở lại. Thể chế chính trị mới
ban đầu có thể cũng có những cải cách, tiến bộ vì sự phát triển cho con người,
thuận theo lòng dân. Theo năm tháng thì mọi việc sẽ lại trở nên như cũ vì lẽ sự
tư hữu luôn tồn tại trong lòng của mỗi con người.
Khi
thể chế chính trị mới nắm vững vai trò lãnh đạo, nếu những con người trong hệ
thống lãnh đạo đó cũng như các thành phần, tầng lớp kinh tế, xã hội, người dân
không trao dồi đạo đức, nhân cách, phẩm hạnh của tư tưởng “Biết vì nhau mà
sống” thì việc tư hữu sẽ từng bước làm cho xã hội con người trở nên rối ren,
điên đảo. Đó cũng là mầm móng cho một cuộc cách mạng, cuộc tái thiết mới sẽ lập
lại.
Lịch
sử phát triển loài người chưa từng thoát ra quy luật “Nước lớn, nước ròng” này.
Máu, nước mắt lại đổ, khổ đau và thù hận lại được tạo ra.
Vậy
nên không thể làm một cuộc cách mạng vũ trang lật đổ chính quyền bạo ngược,
không vì dân, vì nước. Vì lẽ mọi việc đâu lại vào đấy, máu của những người
thân, những người dân và cả bạn sẽ đổ xuống cho những cuộc chiến sống còn phi
nghĩa.
Nhất
là khi việc giành lấy quyền cai trị được thực hiện thành công do bởi thế lực
của những người cơ hội, thủ đoạn,… thì việc trước mắt họ sẽ phải củng cố vai
trò, vị trí cầm quyền. Sau đó, họ sẽ phải gom góp quyền lực, lợi ích cho cá
nhân, dòng tộc cùng với những thành phần xã hội nắm giữ quyền lực về chính trị,
kinh tế,... Những lời hứa hẹn trước người dân vì thế sẽ bị quên lãng hoặc chỉ
được thực hiện tượng trưng và hình thức.
Lẽ
nào lại không có lối thoát cho những người dân nghèo và người lao động chân
chính?
Có
một lối thoát thực sự cho xã hội con người. Đó là khi con người dùng sự hiểu
biết khách quan, sáng rõ. Khi đó, người dân không bị cuốn vào những cuộc tranh
giành quyền lực của giới chính trị và cả thành phần lực lượng, tổ chức đối lập.
Họ sẽ không tham gia vào những cuộc đấu tranh nổi dậy giành lấy quyền lãnh đạo,
cai trị.
Nếu
nhà lãnh đạo xây dựng thể chế chính trị chuẩn mực lo cho dân, cho nước thì
người dân hết lòng ủng hộ. Còn khi nhà lãnh đạo trở nên suy đồi, bạo ngược,
quay lưng lại, không chăm lo đời sống, việc làm của người dân thì người dân
cũng quay lưng lại với các thành phần lãnh đạo và không ủng hộ nhà cầm quyền
như trước.
Nếu
nhà cầm quyền đó muốn tồn tại thì sẽ phải sửa sai những việc không đúng, không
chuẩn mực để chăm lo đời sống người dân. Xây dựng, phát triển xã hội tiến tới
công bình, văn minh, tiến bộ, tự do và bác ái.
Đó
là một phần của giải pháp khắc phục khủng hoảng chính trị cho xã hội con người
trong thời điểm hiện tại và tương lai. Đó là cuộc cải cách, cuộc cách mạng về
tư tưởng, tư duy, nhận thức về cuộc sống, xã hội loài người giúp con người dần
tiến đến một thế giới hòa bình, ấm no và thịnh vượng.
Giải
pháp cuộc cách mạng tư tưởng hòa bình sẽ thay thế cho những cuộc cách mạng vũ
trang tàn khốc, đẫm máu, nước mắt nhưng không đem lại một sự phát triển bền
vững, ổn định, mang tính nhân văn, không dựa trên sự hiểu biết, cảm thông và
tình yêu thương đồng loại.
Thiết
nghĩ, nhân loại hãy nên nhìn nhận lại mọi vấn đề ở góc nhìn tổng thể, khách
quan nhằm từng bước sửa sai những quan niệm, định kiến sai lầm, hẹp hòi khiến
lịch sử loài người phải viết bằng những trang đẫm máu, nước mắt và hận thù.
Qua
phần trình bày trên, bạn sẽ nhận ra “Từ lâu, nhân loại đã trói nhận thức, tư
duy vào mạng lưới nhị nguyên vô minh với vô số sự phân biệt, dính mắc đối đãi”.
Việc
đúng sai, được mất, hơn thua, thiện ác, sang hèn, quân tử - tiểu nhân, tham lam
- bố thí, si mê - hiểu biết, sân hận - nhẫn nhịn, kiêu ngạo - khiêm nhường,
vọng động - điềm tỉnh, tranh đoạt - buông xả,…
Do
đứng ở góc nhìn phiến diện, hạn hẹp, chủ quan,… nên con người đã đánh giá, nhìn
nhận mọi vấn đề đều có sự thiên lệch, mắc phải hàng loạt những sai lầm. Từ đó,
con người đã tạo ra vô số cuộc chiến tranh xâm lược, cướp bóc, giết người cũng
như việc “vắt kiệt” nguồn sống của trái đất,… Những việc làm đó khiến con người
và muôn loài phải sống trong nỗi thống khổ, thù hận, tang thương, mất mát, đau đớn,…
Phải
chăng tôi cũng đang rơi vào màng lưới nhị nguyên mà “xét lại” và phân biệt, lý
giải mọi vấn đề nhằm chứng tỏ sự thông minh, nhiều hiểu biết của cá nhân?
Thực
tế là những điều tôi trình bày cơ hồ không mang lại cho tôi nhiều lợi ích. Việc
bước vào màng lưới vô minh của tôi là nhằm xé bỏ tấm màng vô minh đã bao bọc,
trói buộc nhận thức, tư duy nhân loại cho mãi đến ngày nay. Sau khi “xét lại”
rồi trình bày những vấn đề đã qua, hiện tại và tương lai tôi sẽ quên bỏ vì với
tôi những điều đó thật không còn giá trị. Tôi chỉ làm điều đó nhằm giúp bạn
nhận biết mọi việc sáng rõ, đúng thật. Để rồi bạn chọn lựa lấy con đường cho
bạn và cũng là tương lai của nhân loại.
Quay
về hiện tại, phải chăng nhận thức, tư duy con người ngày nay đã thoát ra ngoài
tấm lưới vô minh nhị nguyên đối đãi?
Dường
như con người đã quên bỏ việc nhìn nhận về khái niệm nhị nguyên đối đãi. Việc
quên bỏ không đồng nghĩa với việc xé bỏ, phá tan tấm màng vô minh. Nhân loại
không còn chú tâm đến khái niệm nhị nguyên nhưng lại luôn sống và trói nhận
thức, tư duy vào nhị nguyên với tâm phân biệt, dính mắc ngày càng khắc khe, hời
hợt. Đó là sự thật.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét