Mở lối nhị nguyên
Thứ Bảy, 3 tháng 6, 2017
II. Luận thiên hạ xưa.
1. Mở lối nhị nguyên.
Thánh nhân còn
có lỗi lầm
Họ Trần ở nước Tề muốn mưu
phản, đoạt ngôi vua song thấy họ Cao, họ Quốc, họ Tôn còn mạnh nên chưa dám
hành động.
Trần Hằng trù tính kế hoạch
xong, vào tâu với Tề Giản Công:
- Nước Lỗ đã từng dựa vào
Ngô đem binh làm nhục bệ hạ, thù ấy nay phải trả.
Tề Giản Công nghe lời, phong
Quốc Thư làm đại tướng, Cao Vô Bình, Tôn Lâu làm phó tướng rầm rộ kéo đại binh
đi đến biên giới nước Lỗ.
Bấy giờ Khổng Tử đang ở Lỗ
tuyển chép các kinh Thi, kinh Thư,… thì được tin nước Tề kéo quân đánh nước Lỗ,
buông lời than:
- Lỗ là tổ quốc của ta, phải
cứu.
Than rồi, Khổng Tử hỏi học
trò:
- Có trò nào đi ngăn quân Tề
đừng đánh Lỗ, được không?
Hai môn đệ Công Tôn Long và
Chuyên Tôn Sư xin đi, Khổng Tử lắc đầu không đồng ý.
Thấy vậy, Tử Cống nói:
- Tứ con đi có được không?
Khổng Tử đáp:
- Được.
Tử Cống đến đất Tề xin vào
yết kiến Trần Hằng. Hằng biết Tử Cống tên thật là Đoan Mộc Tứ là cao đồ của
Khổng Tử đến đây thuyết khách cho Lỗ bèn mời vào, hỏi:
- Tiên sinh đến đây thuyết
khách cho Lỗ đó chăng?
Tử Cống nói:
- Tôi đến đây vì nước Tề chứ không vì nước Lỗ. Lỗ là nước khó đánh khó đánh sao ngài
lại cho đánh?
Trần Hằng hỏi:
Trần Hằng hỏi:
- Nước Lỗ khó đánh ở chỗ
nào?
Tử Cống nói:
- Lỗ thành thấp, hào nông,
vua yếu, quan hèn, sĩ tốt không luyện tập vì vậy mới là khó đánh. Còn nước Ngô,
thành cao, hào sâu, binh hùng, tướng mạnh mà lại dễ đánh.
Trần Hằng lấy làm khó chịu
nói:
- Khó và dễ tiên sinh nói
nghe điên đảo cả.
Tử Cống mỉm cười nói:
- Cho lui kẻ tả hữu, tôi sẽ
trình bày.
Trần Hằng cho tả hữu lui ra,
Tử Cống nói:
- Nay tướng quốc đem quân
đánh nước Lỗ là cốt lo “mặt trong” chứ không lo “mặt ngoài”. Người đời thường
nói “Nếu lo mặt ngoài thì nên đánh nước yếu, lo mặt trong thì nên đánh nước
mạnh. Thế của ngài hôm nay là không thể đồng sự với các đại thần kia. Các vị
đại thần ấy mà đánh nước Lỗ thì tất sẽ lập công lớn. Vì vậy thế lực của họ ngày
càng thêm mạnh. Còn Tướng quốc không có công trạng gì, không nguy sao được? Nếu
tướng quốc quay sang đánh nước Ngô thì các vị đại thần ắt khổ, quyền chính
trong nước sẽ thuộc về ngài”.
Trần Hằng nghe vậy tươi nét
mặt nói:
- Tiên sinh hiểu ruột gan
tôi lắm. Nhưng đại quân Tề đã đóng quân ở biên giới nước Lỗ, giờ làm sao mà
quay sang đánh nước Ngô?
Tử Cống nghe Trần Hằng hỏi
vậy, liền nói:
- Tôi sẽ thuyết phục vua Ngô
đem quân đánh Tề. Ngài sẽ có cớ đánh Ngô.
Ngay sau đó, Tử Cống liền
sang Ngô, vào yết kiến vua Ngô nói rằng:
- Trước đây, nước Ngô và
nước Lỗ hợp binh đánh nước Tề, vua Tề rất căm thù nước Ngô. Nay vua Tề không
dám đánh nước Ngô mà lại đem quân đánh Lỗ, rồi thừa thắng kéo xuống đánh Ngô,
đó là chắc. Đại vương nên đánh Tề để cứu Lỗ. Nước Lỗ là chư hầu sẽ phục ngài.
Ngô Phù Sai nói:
- Tề là nước phản phúc “Sớm
đầu, tối đánh”. Quả nhân muốn đem binh chinh phạt nước Tề nhưng sợ nước Việt
đánh úp. Giờ quả nhân sẽ cất quân đánh nước Việt trước rồi đánh nước Tề sau.
Tử Cống nói:
- Không nên! Nước Việt yếu,
nước Tề mạnh. Đánh nước Việt mà tha nước Tề sao gọi là trí dũng? Nếu đại vương
có ngại vua Việt, tôi sẽ bảo vua Việt đem quân theo hầu đại vương.
Trận ấy Việt vương Câu Tiễn
có gửi quân tham chiến và quân Ngô đại thắng quân Tề ở Ngãi Lăng.
Lời Bàn:
Mẩu truyện này nói lên tài
thuyết khách của Tử Cống. Thầy của Tử Cống là Khổng Tử người nước Lỗ, mà nước
Tề tỏ ý xâm chiếm nước Lỗ nên các đệ tử vì thầy mà ra sức cứu nước Lỗ. Tử Cống
không dùng binh đao mà chỉ uốn ba tấc lưỡi đẩy lui quân Tề đi chỗ khác. Bởi do
Tử Cống hiểu được tâm ý của Trần Hằng, muốn mượn bên ngoài trừ diệt họ Cao, họ
Quốc, họ Tôn. Ý Trần Hằng là như vậy mà khởi binh đánh nước Lỗ thì quả thật là
quá vụng vì đánh nước Lỗ tất nhiên nước Tề sẽ thắng. Tề thắng thì các quan họ
Cao, Quốc, Tôn sẽ lập được đại công, được trọng dụng thì vị thế của Trần Hằng
sẽ bị suy yếu. Vì lẽ đó Trần Hằng đã nghe lời Tử Cống đình binh lại không đánh
nước Lỗ mà tìm cớ đánh nước Ngô.
Tuy nhiên, nay tôi đề cập
đến mẩu truyện trên lại không vì việc đề cập đến tài thuyết khách của Tử Cống
mà bắt lấy lỗi lầm của bậc thánh nhân Khổng Tử.
Đã hơn 2500 năm nhân loại vì
hai chữ thánh nhân mà lờ đi sai phạm của Đức Khổng Tử. Do vậy mà nhân loại tiếp
tục phạm phải rất nhiều sai lầm tương tự.
Qua mẩu truyện trên, bạn sẽ
nhận thấy lẽ ra cuộc chiến loạn là việc giao tranh giữa 2 nước Tề và Lỗ. Nhưng
do nước Lỗ là nơi Khổng Tử sinh ra nên ông không đành lòng nhìn đất nước mình
rơi vào chiến loạn.
Đó phải chăng là lòng tự hào
dân tộc của Khổng Tử?
Đó là vì Khổng Tử đã trói
nhận thức, tư duy vào quan niệm “Đây là quê hương, đất nước của ta, ta phải tìm
mọi phương cách để bảo vệ, giữ gìn”.
Kết quả của việc thể hiện cái
tôi - cái ngã và cái của tôi - ngã sở của thầy Khổng Tử là không đành lòng nhìn
dân tộc mình sống trong tang thương, mất mát bằng cách thông qua người học trò
Tử Cống tạo ra cuộc chiến loạn giữa 3 nước Tề, nước Ngô và nước Việt.
Ngay khi ta nhìn ở hiện tượng
thì cơ hồ thầy Khổng Tử đã làm đúng nhưng khi nhìn ở bản chất thì việc làm của
thầy Khổng Tử không thật sự ổn vì có rất nhiều người dân vô tội ở nước Tề cùng
với quân tướng nước Ngô, Việt, Tề bị chết thảm nhằm mang lại sự yên bình cho
Khổng Tử và nước Lỗ.
Thêm một giả dụ khác nếu
nước Lỗ không là nơi Khổng Tử sinh ra, phải chăng Khổng Tử sẽ không quan tâm
đến việc nước Tề cất binh đánh nước Lỗ?
Có phải thầy Khổng Tử đã xử
sự thiếu khách quan chỉ nghĩ đến cái lợi trước mắt, chỉ nghĩ đến danh tiếng và
lợi ích cá nhân, dân tộc mình?
…
Về sau, Tần Thủy Hoàng gồm
thâu lục quốc, thống nhất đất nước Trung Hoa.
Phải chăng việc thầy Khổng
Tử dùng Tử Cống làm thuyết khách cứu nước Lỗ không bị nước Tề xâm chiếm trở
thành một việc làm vô nghĩa?
Người Trung Hoa đã xem Khổng
Tử là bậc thánh nhân của dân tộc, lẽ ra thầy Khổng Tử nên xử sự khách quan với
tâm địa thênh thang, rộng mở với niềm tự hào “Là một con người biết sống thuận
đạo, dưỡng đức” thì sẽ không tạo ra lỗi lầm đáng tiếc trên.
Tại sao đến ngay cả bậc
thánh nhân Khổng Tử mà lại còn tạo ra lỗi lầm đáng tiếc?
Vì lẽ thầy Khổng Tử cũng rơi
vào màng lưới vô minh nhị nguyên đối đãi. Thầy Khổng Tử bị trói vào quan niệm
về cái tôi thường tại. Từ đó, tạo ra hàng loạt những ý niệm đối đãi liên quan
đến cái ta, cái của ta, cái của người.
Khi rơi vào nhị nguyên với ý
niệm phân biệt, đối đãi thì việc hành xử của con người sẽ đánh mất sự khách
quan, không thật sự chuẩn mực nữa.
Cụ thể là cái của ta thì
trân trọng, bảo vệ, gìn giữ, xem nhẹ cái của người hơn cái của ta. Nếu cái của
người có giá trị hơn cái của ta thì ta sẽ tìm cách thu đoạt về,…
Khổ đau, chiến tranh, hận
thù,… trong nhân loại từ xưa đến nay phải chăng đều có điểm xuất phát do con
người bị trói nhận thức, tư duy,… vào trong màng lưới vô minh nhị nguyên đối
đãi đó?
Kết quả là được gì?
Vật chất, danh lợi, địa vị,
quyền lực,… chăng? Những thứ đó có ai, có tổ chức, có quốc gia nào đủ khả năng
nắm giữ mãi không?
Chúng thật không thường tại
vì chúng sẽ biến diệt theo thời gian. Nhưng từ sự sai lầm trong tư duy, nhận thức
con người đã tạo ra rất nhiều sai lầm khác như là việc gieo rắc tội ác khắp mọi
nơi. Chiến tranh, thù hận được gieo sâu vào lòng mỗi con người ở mỗi dân tộc,
mỗi đất nước, mỗi tín ngưỡng tôn giáo,… Máu, nước mắt, khổ đau được con người
tạo ra hết đời này sang đời khác và mãi về sau.
Tại sao con người cứ mãi
hành xử như vậy xuyên suốt lịch sử phát triển của loài người?
Vì lẽ với tầm nhìn hạn hẹp,
phiến diện, chủ quan,… khi làm một điều gì đó thì con người chỉ nhìn thấy cái
lợi, cái được, cái hơn,… mà không nhận biết rõ cái hại, cái mất, cái thua,… Vì
họ nghĩ đó là phần của người khác.
Do nghĩ là việc của người
khác nên họ không quan tâm, không lo lắng nhiều đến tổng thể và thế là họ tạo
ra ngày càng nhiều lỗi lầm.
Cụ thể là khi một tên cướp
thực hiện việc giết người cướp của thì hắn chỉ nghĩ đến việc “Hắn sẽ có được
món đồ có giá trị”. Đó là cái lợi, cái được, cái hơn,… của hắn dù rằng vật cướp
được trước đó là của người bị giết nhưng giờ đây đã là của hắn. Tên cướp sẽ
không quá đắn đo, lo nghĩ về cái mất của người bị giết dù rằng cái mất lớn nhất
của người bị cướp là mạng sống con người.
Cũng lại như vậy, chiến
tranh, xung đột vũ trang, bạo loạn,… có khác biệt gì với cách ứng xử của tên
cướp không?
Có chăng chỉ khác nhau là
chiến tranh ở mức độ biểu hiện cao hơn, máu, nước mắt, mạng sống chết nhiều
hơn, thù hận và đau khổ sẽ được đắp cao hơn. Có một sự thật là cho dù cuộc
chiến xảy ra và được biện luận với lý do chính đáng nào đi chăng nữa thì cũng
có vô số xác người ngã xuống, nhà cửa tan hoang, đói nghèo, khổ đau, bệnh tật
triền miên,…
Nhưng những kẻ tạo ra thảm
cảnh tang thương lại không “để mắt” đến điều đó vì họ đang toan tính, chia chác
với nhau phần được, phần hơn, phần lợi,… Còn những người dân nghèo, nạn nhân
của chiến tranh thì cứ gánh lấy cái mất, cái thua, cái hại và đôi khi họ được
xem là “gánh nặng của xã hội” vì họ đã bị tàn phế vì chiến tranh.
Với lối sống thực dụng hiện
nay thì quan điểm sống như trên sẽ không ngừng phát triển lớn mạnh. Khi tư duy,
nhận thức,… con người trói vào quan điểm “Mạnh được yếu thua”, “Cá lớn nuốt cá
bé”, “Chết là hết”,… thì việc cướp bóc, chèn ép, việc xâm lược và chiến tranh
leo thang là điều không khó xảy ra. Những người dân nghèo với hy vọng “đổi
đời”, lại bị cuốn vào vòng xoáy “không giết người thì người giết mình, không
giết người thì sẽ mất tất cả,…”.
Để bảo toàn mạng sống, quyền
lợi những con người nghèo khó, mạng sống mong manh, nhỏ bé, đáng thương, đáng
quý,… phải lao vào cuộc giết chóc mà không rõ phần thắng sẽ thuộc về ai?
Khi nào mình bị chết thảm?
Người được vẫn luôn được, kẻ
mất vẫn cứ mất. Tạo hóa thật không có sự công bằng, khách quan chăng?
Có lẽ nào lại vậy. Thật ra
đã có sự sai lầm ở nhận thức, tư duy của con người. Đó chính là sự giới hạn về
tri thức nhân loại ở thời điểm hiện tại.
Cách đây hơn 2500 năm Phật
Thích Ca đã chỉ ra sai lầm này. Đáng tiếc! Do lòng tham dục và việc giới hạn về
hiểu biết mà con người lờ đi, hoặc là quên bỏ sự thật về việc tồn tại sự sống,
loài người và vũ trụ.
Thực tế là với những con
người chỉ biết cướp đoạt, thâu tóm những cái hơn, cái lợi, cái được,… về mình,
họ sẽ phải trả giá và đánh mất rất nhiều thứ. Bởi lẽ trong cái được luôn có cái
mất, cái hơn luôn có cái thua, cái lợi luôn có cái hại,…
Nếu đứng ở góc nhìn tổng
thể, khách quan nhân loại sẽ dễ dàng nhận ra điều đó. Nếu tinh ý con người sẽ
nhận biết ngay khi thu được cái hơn, lấy được cái lợi phi nghĩa thì con người
đó cùng nhận về cái thua, cái hại, người đời nguyền rủa, xa lánh. Nếu nhìn ở
góc nhìn rộng hơn thì người đó sẽ trả giá về sau nhất là những khi già yếu,
bệnh tật. Khi đó, con cháu và người thân sẽ từ bỏ họ vì đó là những gì mà thế
hệ sau được học hỏi ở việc làm của người đi trước. Kết quả là con cái, dòng họ,
dân tộc, quốc gia,… hư đốn, trụy lạc, bại hoại, suy đồi, tan rã,... Đó là những
cảnh đời nghiệt ngã, lối sống khốn cùng, xã hội con người biến loạn, rối ren.
Còn với tầm nhìn không bị
giới hạn bởi không gian, thời gian thì con người làm việc xấu đó sẽ phải trả
nghiệp quả ở những kiếp về sau trong 3 cõi 6 đường. Đó là quy luật rất khách
quan của tạo hóa mà Phật Thích Ca nhận biết sáng rõ và Như Lai đã mượn ngôn từ
gọi là nhân quả - nghiệp quả, là luân hồi.
Thế nên, đối với những việc
làm trục lợi phi nghĩa, xấu xa, thiếu chừng mực, kém hiểu biết,… nơi con người
nhằm thu về phần được, phần lợi, phần hơn,… ở hiện tại, ở đời này thì con người
đó cũng sẽ nhận lấy cái mất, cái hại, cái thua kém,… ở hiện tại, ở tương lai, ở
những đời tiếp theo vì chúng sinh trong 3 cõi 6 đường thật sự không dễ dàng
“Chết là hết”.
Ở phần đầu của quyển sách
này, tôi đã trình bày những điển tích xưa cũ từ thời Xuân Thu Chiến Quốc. Thời
điểm mà xã hội Trung Hoa cổ trải qua hàng loạt những cuộc chiến sống còn, đẫm
máu giữa các quốc gia, dân tộc, những cuộc sát nhập rồi chia rẽ, chia rẽ rồi
sát nhập nhằm phục vụ cho lợi ích riêng tư cho các chư hầu, chư bá, công khanh,
hoàng thân, quốc thích, các vị Đế vương về quyền lực, địa vị, sức ảnh hưởng,
phẩm vật và gái đẹp. Người dân đen lúc bấy giờ chỉ là những con cờ trong ván cờ
tranh giành quyền lực phi nghĩa, họ sẽ chết vì niềm tự hào dân tộc ảo tưởng,
đánh đổi mạng sống nhằm giành giật những thứ thực sự không thuộc về bản thân
họ, vĩnh viễn không là của họ.
Trong khi người dân đen và
những viên tướng trung dũng tranh đấu sống còn cho niềm tự hào dân tộc, bảo vệ
quốc gia thì ở trong những tòa lâu đài nguy nga, tráng lệ có vô số những vị vua
vô đạo đắm say tửu sắc, trụy lạc,… cùng vô số những quần thần xu nịnh, tiểu
nhân hại người nhằm gom góp tài vật, của báu nhằm đảm bảo vị trí, quyền lợi cá
nhân. Đây cũng là giai đoạn của Bách gia tranh minh - Trăm nhà đua tiếng nhằm
bày tỏ nhân sinh quan về sự sống, xã hội, luân lý quan niệm nhân - nghĩa - lễ -
trí - tín,...
Nhìn lại những thời kỳ lịch
sử đã qua, nhân loại sẽ nhận ra “Ngay từ thời cổ xưa người Phương Đông đã chú
trọng xây dựng nhân cách, đạo đức con người với những phương pháp tu thân, hàm
dưỡng tư tưởng tinh thần nội tâm ở mỗi người và tùy thuộc vào từng thời điểm
bối cảnh xã hội khác nhau mà những học giả, những nhà tư tưởng có những chỉnh
đốn, cải cách cho phù hợp”.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét