Chọn lựa tích cực của Phật Thích Ca ngay sau ngày thành đạo…
Thứ Tư, 4 tháng 7, 2018
Người nói Phật nói, Phật biết, Phật thấy,… thì hà sa nhưng biết
đến Phật, hiểu được Phật liệu có được mấy người?
Vô Ưu này, trải qua bao đời lầm lạc, rất nhiều lần nương nhờ ngón
tay chỉ mặt trăng mà có được sự an tịnh nhất thời, song vẫn không tìm được lối
ra khỏi biển mê sinh tử luân hồi hàng vạn muôn ức kiếp... Rồi thì tấm lưới vô
minh cũng được Vô Ưu xé toạc ngay trong hiện kiếp. Cụ thể là ngày 27 tháng 12
năm 2010 tôi một phen “Minh tâm, kiến tánh”, an nhàn đón nhận đóa vô ưu. Ngẫm
lại Ơn soi sáng của Phật Thích Ca đối với Vô Ưu (nói riêng), đối với chúng sinh
nơi 3 cõi (nói chung) khiến Vô Ưu vô cùng cảm phục, thầm kính trọng. Do vậy Vô
Ưu rất mong phần nào đáp tạ thâm ân, cũng như không cô phụ tâm bi mẫn của vị
Giác giả đáng kính và cũng đồng thời là người bạn đời lớn của nhân loại.
Vì lẽ đó Vô Ưu vọng mang từ bi tâm của Người một phen làm người
khách thong dong giữa đời ô trọc. Bi nguyện thiết tha ở Vô Ưu là những mong làm
bừng sáng lại ngọn đuốc chánh pháp cứu khổ, lợi lạc của Người nơi biển khổ thế
nhân.
Trải qua nhiều năm dài đằng đẳng ngược xuôi mà việc trả ơn Người
vẫn chông chênh, nghẽn lối khiến Vô Ưu thấy nhàm mỏi, cảm nhận sâu sắc câu nói
của Người “Chúng sinh cõi Ta Bà cang cường, khó độ”. Dù vậy, việc cần làm đã
làm, việc cần viết đã viết. Tin rằng “Tư tưởng làm sống lại chánh pháp Phật
Thích Ca sẽ nở hoa trong thời gian không xa”. Việc làm đã xong, có lẽ cũng đã
đến lúc “xếp áo quy ẩn”, “xóa dấu chim bay” kẻo không lại khiến lòng người hoài
nghi một tấm chân tình.
…
Thời gian gần đây, tôi có dạo quanh một vài trang mạng của đạo
Phật, tôi dễ dàng nhận thấy phần nhiều nội dung bài viết có phần viễn vông, xa
rời con đường chánh pháp trong lòng mỗi người, cũng như ở giáo điển của người
thầy vĩ đại - Phật Thích Ca. Dù rằng các trang mạng viết y kinh nhưng cách diễn
giải lại rơi vào nhị nguyên, không có lối thoát.
Trong mê có ngộ
Trong ngộ có mê
Mê mê, ngộ ngộ
Mê ngộ không dừng
Đường ra nghẽn lối…
Vô Ưu dẫu biết rằng kiến văn hãy còn hạn hẹp nhưng cũng rõ lý
“Biết được gốc thì nắm được ngọn” nên sẽ cẩn ghi vài lời bạt.
Trước tiên, Vô Ưu sẽ lược dẫn y kinh việc Đại phạm thiên Sahampati
thỉnh cầu Phật thuyết pháp những 3 lần. Vô Ưu sẽ diễn giải thoát ý, lược bỏ từ
trùng lấp theo lối y kinh của giáo lý Phật giáo nguyên thủy sơ khai.
Gốc tích của câu chuyện là sau ngày thành đạo Phật Thích Ca đã
quán chiếu vạn pháp rồi khởi ý nhập niết bàn tịch diệt. Thiên chủ phạm thiên
Sahampati nhận biết Phật muốn xuất ly thế gian, bỏ mặc chúng sinh 3 cõi 6 đường
trong đó có ông ta chìm nổi trong luân hồi nên đã hiện thân trước Phật và thiết
tha mong cầu Phật nhập thế, cứu độ người si mê, kẻ tham đắm...
…
Sau khi thành đạo, Phật đã quán chiếu lại vạn pháp. Lúc bấy
giờ Người khởi lên ý “Ta đã chứng đạt pháp Vô Sanh, pháp này thật thâm áo, khó
nhận thức, khó thấu hiểu, an tịnh, cao thượng, vượt mọi lý luận hiện tại,… Chỉ
có những người thông tuệ, không chấp trước, ít vọng tưởng mới thâm nhập rốt ráo
nghĩa lý. Nhưng người đời đang say mê theo luyến ái, chìm đắm trong ngũ
dục,… Vì vậy họ sẽ không dừng lặng để trực nhận sự thật luôn đúng của lý duyên
khởi - Cái này có mặt vì cái kia có mặt. Đối với họ thật khó để nhận thức đúng
mực tri thức vô thượng về sự tịnh chỉ các hành, từ bỏ mọi duyên sinh, đoạn trừ
tham ái, si mê, tà kiến, xả ly dục vọng, cứu cánh Niết bàn… Cho dù ta ra sức
thuyết giảng pháp thì người đời cũng rất khó thâm nhập, thấu hiểu, nhận thức
đúng vấn đề mà ta muốn trình bày. Điều này sẽ làm nhọc lòng khiến ta sẽ mất đi
sự tự tại, thanh nhàn, an lạc… Thế rồi Thế Tôn đã khởi các câu kệ vi diệu, thậm
thâm, chưa từng có:
Chánh pháp ta chứng ngộ
Cần thuyết giảng hay không?
Bởi những kẻ chìm đắm
Trong ái dục sân hận
Khó ngộ được pháp này
Pháp thù thắng vô sanh
Tinh tế và thâm sâu,
Thật không dễ lĩnh hội.
Những kẻ mê ái dục
Lắm si mê bao phủ,
Rất khó để thâm nhập
Rốt ráo nghĩa Niết bàn.
Nghĩ vậy, Phật muốn khởi ý nhập diệt hơn là lưu lại cõi Ta Bà lắm tham
đắm, mong cầu, vọng tưởng đảo điên,… Khi ấy, Phạm thiên Sahampati dùng tha tâm
thông biết được thâm ý của Đức Thế Tôn sẽ không ra sức giảng giải pháp Tối
thượng vi diệu nên đã dấy khởi lời cảm thán bi thiết:
Như thế thì cõi thế gian này sẽ chóng bị tiêu diệt
Như thế thì cõi thế gian này sẽ sớm bị tàn hoại
Bởi vì tâm của Như Lai, Bậc A La Hán,
Đấng Chánh Biến Tri, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,…
Đã không ra sức thuyết giảng giáo pháp mầu nhiệm
…
Ngay lập tức, vị Phạm thiên Sahampati hiện thân trước Đức Thế Tôn,
với tư thế đắp y bên vai trái, quỳ bên gối phải trên mặt đất, rồi chắp tay cung
kính nói:
- Bạch Đức Thế Tôn! Xin đức Thế Tôn thuyết pháp! Xin bậc Thiện Thệ
thuyết pháp! Thế giới này có những hạng chúng sinh ra đời bị ô nhiễm ít. Nếu họ
không được nghe chánh pháp, họ sẽ đọa vào các cõi xấu. Nếu được nghe pháp đệ
nhất chân nghĩa đế họ sẽ chứng ngộ bản tâm, liễu nghĩa vô sanh, thoát khỏi vòng
mê lầm sinh tử.
Nói xong, vị Phạm thiên ngâm một bài kệ nói rằng ở xứ Magadha
(Ma-kiệt-đà) đã xuất hiện các tà thuyết của ngoại đạo, những tà thuyết sai lạc,
mê lầm này đang chi phối con người và các cõi giới. Nay thỉnh cầu Đấng Thế Tôn,
người đã dùng pháp nhãn thanh tịnh nhận biết mọi chúng sinh bị sinh - lão -
bệnh - tử bức ngặt và hiện còn u mê, chìm đắm trong khổ đau, phiền não. Xin Thế
Tôn hãy rải từ bi tâm mà mở cửa pháp vô sanh vi diệu cứu khổ kẻ mê đắm sinh tử
giúp họ liễu thoát luân hồi. Tin rằng sẽ có những chúng sinh thọ trì, nghe,
hiểu và chứng ngộ được diệu pháp vô sanh.
Phật đã từ chối vì Người nhận thấy tâm chúng sinh còn ngu muội -
tham đắm, si mê, sân hận, hoài nghi, kiêu mạn, còn mãi vui thú nơi ngũ dục,…
Thật khó có thể lĩnh hội giáo pháp thậm thâm mà Người đã chứng ngộ hoàn toàn.
Song trước sự thỉnh cầu bi thiết của Đại phạm thiên, Phật đã lại
quán chiếu tâm ý của chúng sinh nơi 3 cõi. Phật đã nhìn thấy tâm ý của chúng
sinh nơi 6 nẻo qua phong cảnh ao sen ở trước mặt. Nơi đó có các loài sen khác
nhau như sen xanh, sen hồng, sen trắng… chúng mọc trong hồ, lớn dần trong nước,
phát triển dưới mặt nước, một số chưa vươn khỏi mặt nước, số khác vừa chạm đến
mặt nước, số khác đã khoe sắc trên mặt hồ, những cánh sen lung linh trong gió,
tỏa hương thơm thanh mát cho đời mà không hề chướng ngại ở gốc tích bùn dơ,
nước đọng.
Thế rồi, Đức Thế Tôn thấu hiểu lời cầu khẩn của vị Thiên chủ Phạm
thiên là thuần khiết, vô úy. Với con mắt của bậc giác ngộ hoàn toàn, ánh nhìn
của Phật tràn đầy bi mẫn đối với muôn loài chúng sinh. Ngài nhận diện ở nẻo
người có những hạng chúng sinh bị uế trược ít xen lẫn cùng những chúng sinh bị
uế trược nhiều; những hạng chúng sinh có căn cơ bậc thượng, thông tuệ, bén nhạy
và những hạng chúng sinh có căn cơ trì độn; những hạng chúng sinh có thiện tính
và những hạng chúng sinh có ác tính; những người ham học, dễ dạy bảo và những
người khó dạy bảo; Phật nhận ra có một số chúng sinh sống và biết nghĩ đến
những cảnh tái sinh tương tục trong tương lai, biết sợ khi phạm phải những điều
tội lỗi, sinh tâm hối cải, phục thiện. Và kia là những chúng sinh đã nhàm mỏi
việc sinh tử luân hồi, họ đang khao khát tìm lối thoát ra khỏi sự ràng buộc,
dính mắc của quy luật tương tục nhân duyên, nghiệp quả…
Theo y kinh thì cho đến khi Phạm thiên Sahampati thỉnh cầu lần thứ
3, Đức Phật mới nhận lời và Người đã lưu lại cõi Ta Bà thêm 49 năm nữa để
thuyết pháp, độ sinh.
Những người dịch giải đoạn kinh văn ghi lời Phật thuyết này thời
rất nhiều nhưng liệu có mấy ai thấu hiểu được chân nghĩa thâm sâu ẩn tàng trong
từng lời Phật thuyết?
Đã hơn 2500 năm rồi mà người mê vẫn mê, kẻ ngộ chân tâm tiền nhân
vẫn như bóng chim, tăm cá. Bởi do chẳng tỏ ngộ hoàn toàn chánh pháp nên việc
dùng pháp không sáng rõ, minh bạch.
Từ lâu, người học Phật trì tụng Tam tạng kinh mà chẳng ngộ ý kinh,
rơi vào huyền hoặc, bí ảo hoặc trói vào giả pháp vô ngôn, đoạn lìa văn tự nhằm
che giấu góc khuất, sự mờ tối nơi tri thức chưa tột cùng...
Ngay đoạn kinh văn trên người học Phật tin rằng có một Phạm thiên
Sahampati hiện thân và 3 lần khẩn thiết thỉnh cầu Phật nhập thế.
Học Phật mà như thế thì biết đến bao giờ mới liễu ngộ Phật tánh?
Vậy nên càng gặp khó khi chuyển Phật tánh thành Tánh Phật và thật
không dễ khai mở thông suốt sự hiểu biết giải thoát hoàn toàn mà vị giác giả
bậc thầy mấy phen lao nhọc, tận tụy…
Việc cần học không học, việc cần lĩnh hội, không lĩnh hội,… lại
đắm chìm trong mê mờ, mụ mẫm, chấp văn ngữ, tham huyền, mộng huyễn,...
Thật ra thông qua đoạn kinh văn này Phật đã ám thị một điều là
Phật đã từng phân vân, từng trăn trở, từng băn khoăn,… trước một chọn lựa quan
trọng bậc nhất trong một kiếp sống sau cùng nơi lưới mộng luân hồi.
Vì người dấn thân rộng truyền chánh pháp hay ngoảnh mặt, quay lưng
với đời, riêng hưởng niềm hỷ lạc, an tịnh, thảnh thơi?
Và cuối cùng Người đã chọn lựa việc dấn thân vì từ bi tâm sinh
khởi, vì thấu hiểu nỗi thống khổ của chúng sinh nơi 3 cõi, rõ biết quy luật
luân hồi ở 6 đường là thật có và cả con đường thoát khỏi biển mê sinh tử. Đó
mới thật là điều Như Lai gửi gắm nơi đoạn kinh văn trên.
Tại sao Phật Thích Ca lại thuyết ra sự hiện thân của Phạm thiên
Sahampati cùng 3 lần thỉnh cầu?
Vì người đương thời bấy giờ cả tin vào giáo pháp của hơn 62 học
thuyết ngoại đạo sai lầm, vọng chấp thần thông, huyễn thuật, bùa chú. Tuy
nhiên, Giác giả rõ biết cả 62 học thuyết đang được phổ truyền đều rơi vào tà
kiến cực đoan chấp Thường, chấp Đoạn, hoàn toàn không có lối thoát ra khỏi luân
hồi. Do vậy Người đã tùy thuận thuyết giảng Kinh đại sự nhân duyên nói về sự ra
đời một vị Giác giả chánh biến tri. Đây là việc làm tùy thuận nhằm tiếp cận
người mê rồi từng bước tháo gỡ những định kiến, tà kiến, tri thức mê lầm, thuận
duyên rộng truyền chánh pháp liễu thoát luân hồi sinh tử, cứu khổ chúng sinh
nơi Tam giới.
Có thể nói nếu không có yếu tố huyền hoặc, siêu hình, việc hiện
diện của thế giới tâm linh, sự vô minh mê lầm của chúng sinh 3 cõi cũng như
việc không tồn tại con đường thoát khỏi luân hồi thì Phật Thích Ca sẽ không bao
giờ dấn thân vào sự lao nhọc trải qua 49 năm trèo non, lội suối, băng rừng,… vì
người khổ, kẻ mê mà trình bày Tam tạng giáo điển.
Hãy nên cẩn trọng nhận diện “Trong huyền hoặc, siêu hình,… có mê
tín, có chánh tín”. Phật Thích Ca thuyết huyền hiển chánh chứ không thuyết
huyền vì lợi dưỡng, lợi danh, buông thả tà tâm, giăng lưới mê cuồng nơi người
đắm nhiễm. Hơn 2500 về trước, hiển nhiên là tri thức người xưa không thể thông
đạt vạn sự như người đương thời nên Phật Thích Ca phải dùng đến pháp phương
tiện tiếp dẫn như người uống thuốc cần có nước để dẫn dược.
Đáng tiếc là ngày nay sự hiểu biết con người có sự tăng trưởng
vượt mức như tâm hoài nghi, kiêu mạn, chấp trước cũng vươn xa, tâm mê cuồng,
tham đắm, tâm phân biệt chủ quan… đã chặn đứng sự hiểu biết khách quan, tổng
thể, toàn diện… có nơi giáo lý của bậc Giác giả.
Biết trách ai đây?
Người mê, kẻ ngộ hay việc rạch ròi đời đạo, lý luận nhị nguyên
thiên kiến thiển cận…
…
Nếu bảo Người vì danh tiếng, quả vị Phật mà bước chân trần đi
thuyết giảng thì hẳn là lời hư vọng, nghịch tai. Ngay như người kém trí cũng
chẳng dại gì bỏ chút gia sản nhỏ nhoi, mở lời hoa mỹ để “bỏ hình, bắt bóng”. Sự
thật là Phật Thích Ca hoàn toàn tự chủ trong việc quay về nắm lấy vương quyền,
trị vì đất nước Thích Ca. Nhưng Người đã quyết định chọn con đường đầy gian khó
để dấn thân. Việc làm dũng mãnh, cao cả, vĩ đại của Phật Thích Ca người hẹp
lượng, si mê, tham đắm, hoài nghi, kiêu mạn khó thể thâm nhập tận cùng nghĩa
lý.
Liệu có mấy ai dám đánh đổi cuộc đời mình như thế nhất là khi chưa
tường tận vạn pháp, cũng như việc chưa tự đoạn dứt luân hồi?
…
Những điều tôi vừa trình bày là lời của người mê hay kẻ ngộ? Là
lời hư vọng chăng?
Vị giác giả Thích Ca phải vay mượn từ bi tâm của chư Thiên mới
đoái hoài đến nỗi thống khổ của chúng sinh nơi 3 cõi. Chỉ đến khi Phạm thiên
Sahampati khuyến thỉnh những 3 lần mới động tâm ra sức vì người.
Thật là điên đảo thị phi. Nếu Phật Thích Ca tầm thường đến vậy thì
Vô Ưu này đâu thể xem Người là người bạn lớn.
…
Hiểu Người rồi, rõ biết chúng sinh cõi Ta Bà cang cường, khó độ.
Thêm vào từ bi tâm vay mượn nơi Người, thế nên từ bi tâm của Vô Ưu không thật
tha thiết, nặng lòng. Vì vậy Vô Ưu đã thoái chí, chùn tâm,... Dẫu vậy, Vô Ưu
hứa với lòng sẽ không cô phụ Người. Cho đến lúc tùy thuận làm sáng rõ giáo pháp
của Người, Vô Ưu sẽ lui về sau, trả dứt những đoạn ân tình vay mượn, sau cùng
sẽ thâu thần tịch diệt.
Thà làm đống xương khô nơi gò hoang, đất lạnh
Không cất tiếng gầm của sư tử chúa lạc bầy đàn.
Bài liên quan
- Phương Tây khám phá đạo Phật
- Giải mã đạo Phật
- Chọn lựa của nhân loại
- Đơn nghiệp - Cộng Nghiệp
- Bồ tát - Thanh văn
- Huyền môn và đạo Phật
- Một nguyên nhân khác khiến cho đạo Phật bị lu mờ
- Hóa giải thâm cừu, đại hận giữa các hệ phái đạo Phật
- Tam Tạng kinh do ai thuyết?
- Diệu ý Như Lai
- Phác họa chân dung Giác giả Thích Ca
- “Khai quan điểm nhãn” (P.4)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét