“Khai quan điểm nhãn” (P.1)
Thứ Sáu, 6 tháng 7, 2018
Bước ngoặc lịch sử nơi sự hiểu biết khách quan, sáng rõ, tổng thể
và đúng mực của nhân loại đã được khai mở cách đây
những hơn 2500 năm
Sau khi chấp nhận lời thỉnh cầu của vị Phạm thiên Sahampati về
việc nhập thế rộng truyền chánh pháp hiển bày con đường giác ngộ, giải thoát
hoàn toàn, Ðức Phật đã khởi nghĩ:
- Ai là người đầu tiên được thọ nhận giáo lý về pháp vô sanh thậm
thâm, vi diệu? Ai là người có thể lĩnh hội chánh pháp mau chóng nhất? Đạo sư
Alara Kalama (vị thầy đầu tiên của Phật khi Người dấn thân xuất gia cầu đạo),
là người có học vấn uyên thâm, mẫn tiệp, là bậc tri thức thông tuệ đã trải qua
thời gian dài hành trì tìm về sự giải thoát hoàn toàn, mọi ràng buộc, dính mắc
đã được gạn lọc tinh sạch. Như Lai sẽ truyền thụ giáo pháp giải thoát hoàn toàn
cho người này trước.
Liền đó, một vị Phạm thiên hiện thân, đảnh lễ và thưa rằng:
- Bạch Đức Thế Tôn, đạo sư Alara Kalama đã từ trần vừa được một
tuần.
Ðức Phật dùng thiên nhãn xác nhận điều này. Rồi Người nghĩ đến vị
đạo sư Uddaka Ramaputta.
Lại một vị Phạm thiên hiện thận và bạch rằng:
- Đạo sư Uddaka Ramaputta vừa mới qua đời đêm trước.
Ðức Phật lại dùng thiên nhãn kiểm nhận. Rồi Người nghĩ đến năm
người bạn - Kondanna (Kiều Trần Như), Bhaddiya, Vappa, Mahanama Kulika, Assaji
- những người rất tinh tấn từng cùng tu học và đã trải qua 6 năm dài hành trì
pháp tu khổ hạnh. Phật dùng thiên nhãn quán sát, nhận thấy năm vị này là hiện
đang ở tại Lộc Uyển (Vườn Nai, Migadava), trong làng Isipatana, cách thành phố
Benares 10km về phía bắc.
…
Cũng như đoạn kinh văn mà tôi từng lược dẫn ở bài viết Chọn lựa
tích cực của Phật Thích Ca ngay sau ngày thành đạo… đoạn lược trích y kinh
trên đã rơi vào yếu tố huyền về sự hiện thân của hai vị Phạm thiên và việc Phật
dùng thiên nhãn kiểm chứng cũng như tìm dấu năm người bạn đồng tu dạo trước.
Để đúng mực và cũng nhằm đơn giản vấn đề thì câu chuyện trên sẽ
được tóm lược lại như sau:
Sau khi giác ngộ, đạt sự giải thoát hoàn toàn và quyết định chọn
lựa con đường đầy gian khó, lao nhọc vì người cùng chúng sinh 3 cõi rộng truyền
chánh pháp, Phật đã nghĩ đến các vị đạo sư, những vị lãnh đạo tinh thần nhiều
hiểu biết, đáng kính ở các nước thuộc lưu vực sông Hằng. Đó là tư duy táo bạo
và sáng suốt của Phật Thích Ca. Bởi lẽ một khi hai vị giáo chủ tôn giáo danh
tiếng nhất lúc bấy giờ lĩnh hội, thấu hiểu, xác tín giáo pháp thậm thâm, vi
diệu,… là đúng thật thì công cuộc rộng truyền chánh pháp đến với đại chúng sẽ
dễ dàng và thuận lợi.
Tuy nhiên, sau khi dò hỏi thì được biết hai vị đạo sư danh tiếng
đã qua đời. Thật sự không có vị Phạm thiên nào hiện ra mách bảo và cũng không
có việc Phật dùng thiên nhãn tìm dấu năm người bạn đồng tu. Phật chỉ việc thong
thả bước đi và hỏi thăm mọi người về những thông tin cần biết.
Nhằm giúp vấn đề rõ ràng, minh bạch những đoạn trích dẫn kinh điển
về sau tôi sẽ tùy thuận giản lược yếu tố huyền hoặc, thần thông để không rối
mắt mọi người. Việc diễn giải sẽ chú trọng nghĩa, dịch thoát ý, lược bỏ sự
trùng lấp thường thấy ở kinh điển gốc thời sơ kỳ Phật giáo cũng như lối dịch giải
y kinh của những người học Phật chưa có được sự tỏ ngộ cần và đủ.
Nhiếp phục năm người bạn đồng tu
nơi vườn Lộc Uyển
Trên đường đi đến vườn Lộc Uyển, Phật gặp một tu sĩ thuộc dòng tu
khổ hạnh là Upaka. Nhìn thấy dung mạo sáng rỡ, dáng vẻ thanh tịnh, thoát tục
của Phật, Upaka cúi chào và hỏi:
- Này đạo hữu, ngũ quan của đạo hữu thật thanh tịnh, nước da của
đạo hữu thật tươi sáng. Đạo hữu đã xuất gia với ai? Thầy của đạo hữu là ai? Đạo
hữu đang truyền giáo pháp của ai?
Phật đã đáp bằng bài kệ:
Như Lai đã vượt qua tất cả
Đã thông suốt vạn pháp
Thoát ly mọi ràng buộc,
Từ bỏ tất cả, không còn ái nhiễm,
Tự mình thấu hiểu 3 cõi
Cái biết của Như Lai không có người dạy
Không ai hiểu rõ vạn pháp bằng Như Lai.
Trên thế gian và kể cả chư thiên,
Không ai có thể hiểu biết bằng Như Lai.
Như Lai là một vị A la hán trên thế gian này,
Là một vô thượng sư
Tự mình thành bậc Toàn Giác
Tâm vắng lặng và thanh tịnh.
Như Lai đang trên đường đến xứ Karsi
Ðể chuyển bánh xe Pháp
Giữa thế giới người mù,Như Lai sẽ gióng trống pháp Vô sanh.
Tu sĩ Upaka hỏi lại:
- Này đạo hữu! Phải chăng đạo hữu đã tự nhận mình là A la
hán, là người đã giải thoát hoàn toàn?
Phật đáp:
- Những người giải thoát hoàn toàn đều là Như Lai, đều đã tận diệt
mọi uế trược, trần cấu, đoạn dứt tất cả những phiền muộn, những hiểu biết sai
lạc, mê lầm. Thế nên, Như Lai là người đã giải thoát hoàn toàn.
Upaka cúi đầu, bước đi miệng thì thầm:
- Có thể như vậy được sao? Có thể như vậy được sao?
(Lưu ý: A la hán đã được diễn giải bằng nhiều cách khác
nhau. Và để đơn giản vấn đề tôi sẽ góp nhặt, thống nhất diễn nghĩa cụm từ A la
hán. A la hán là người đã giải thoát hoàn toàn, không còn dính mắc vào mọi ràng
buộc khổ não, sinh tử, niết bàn,…)
…
Rồi thì Phật cũng đến Lộc Uyển, nơi mà năm người bạn đồng tu thuở
trước đang làm trú xứ để học và hành đạo. Những người bạn đồng tu nhìn thấy
Phật từ xa nhưng trong lòng họ không muốn tiếp đón Phật. Nguyên do là họ đã
từng rất tin tưởng, nể trọng sự hiểu biết uyên thâm, công phu hành trì nghiêm
cẩn, chí hướng xuất trần dũng mãnh cũng như đời sống phạm hạnh quyết liệt của
Đức Phật. Vì lẽ đó họ đã cùng theo Phật thực hành lối tu khổ hạnh gian khó. Rồi
thì niềm tin vững chắc của họ đối với Phật đã bị mất đi khi họ bắt gặp Phật
nhận bát sữa từ một cô gái ở gần dòng sông Ni liên thiền (Niranjara), họ lại
thấy Phật có xu hướng tiếp xúc với nhiều người. Họ vội nghĩ Phật đã từ bỏ con
đường tu đạo giải thoát và rơi vào đời sống lợi dưỡng xa hoa. Nghĩ vậy nên họ
đã cùng nhau bỏ đi , họ đâu biết rằng do theo đuổi pháp tu khổ hạnh cực đoan
khiến cho Phật kiệt sức hoàn toàn, chính nhờ việc thọ nhận bát sữa của cô bé
gái kịp lúc mà Phật đã duy trì được mạng sống và thức tỉnh. Do đích thân kiểm
chứng và nhận ra sự không thật đúng của lối tu khổ hạnh Phật đã từ bỏ pháp tu
khổ hạnh, chuyển sang thực hành pháp tu trung đạo. Nhờ thay đổi pháp hành đúng
lúc mà Phật mới trở nên là một bậc Giác giả hoàn toàn.
…
Mặc dù đã toan tính như vậy nhưng khi Phật đến nơi thì cả năm
người đều bất giác đứng dậy và cúi chào. Trước dáng vẻ oai nghi, dung mạo sáng
rỡ, thoát tục,… của Phật những người bạn đồng tu bước đầu đã bị nhiếp phục. Dù
vậy họ vẫn nói:
- Này đạo hữu! Đạo hữu đã từ bỏ những pháp tu nghiêm khắc và khổ
hạnh. Đạo hữu đã không tiếp tục cố gắng tu học mà quay về lối sống hưởng thụ xa
hoa, lợi dưỡng. Đạo hữu không còn xứng đáng là một người tu sĩ. Lẽ ra đạo hữu
không nên đến đây, đạo hữu không xứng đáng đến gặp chúng tôi.
Phật bình thản đáp:
- Này các bạn! Tôi không hề xa hoa, không hề trở lại lối sống lợi
dưỡng. Tôi đã không ngừng cố gắng và nỗ lực. Và tôi đã chứng ngộ vạn pháp,
chứng ngộ pháp vô sanh bất diệt. Tôi sẽ chỉ các bạn con đường và cách để các
bạn chứng ngộ được sự giải thoát hoàn toàn. Nếu các bạn thực hành thì các bạn
cũng sẽ chứng ngộ sự thật đó bằng chính tuệ giác của các bạn. Khi đó, các bạn
sẽ có được đời sống thường an lạc tịnh, giải thoát hoàn toàn mọi ràng buộc bởi
sinh tử, khổ não.
Năm người bạn đồng tu hoài nghi chất vấn:
- Này đạo hữu! Trước đây với bao nhiêu giới luật nghiêm khắc, khổ
hạnh mà đạo hữu còn chưa đạt được cái biết cùng tột nơi vạn pháp. Khi ấy đạo
hữu cũng không có sự chứng ngộ thù thắng nào tương ưng với sự hiểu biết của một
bậc Giác giả. Rồi sau đó đạo hữu không tiếp tục cố gắng, đạo hữu từ bỏ pháp tu
phạm hạnh, rơi vào lợi dưỡng. Với những sự thoái thất, buông xuôi thì làm sao
đạo hữu có thể đạt được sự chứng ngộ giải thoát hoàn toàn, trở thành một
Bậc Toàn Giác?
Đứng trước sự hoài nghi của năm người bạn cũ Phật Thích Ca đã hỏi:
- Này các bạn! Các bạn đã từng một lần nào trước đây nghe tôi nói
với các bạn về những lời như vừa rồi chăng?
Năm người bạn đồng tu thừa nhận:
- Thật sự là chưa bao giờ cả.
Đức Phật bằng vào một sự chân thành đã khẳng định lại một lần nữa
nhằm xác tín với năm người bạn.
- Tôi đã giác ngộ hoàn toàn Thật tướng của vạn pháp, liễu thoát
sinh tử, rõ biết luân hồi và cách thoát khỏi luân hồi. Tôi sẽ hướng dẫn các
bạn. Và … nếu các bạn thọ nhận, hành trì thì tự các bạn sẽ chứng ngộ sự thật
đó. Các bạn sẽ tự giải thoát hoàn toàn cho chính mình.
Sau khi nghe Phật quả quyết khẳng định sự giác ngộ hoàn toàn mà
không hề có sự tự ti, mặc cảm năm người bạn Kondanna, (Kiều Trần Như),
Bhaddiya, Vappa, Mahanama Kulika, Assaji, họ vốn là những bậc thiện tri thức
nhiều hiểu biết đã từng bước khôi phục niềm tin nơi người bạn cũ. Và cũng như
qua nét mặt, cử chỉ, phong thái đỉnh đạc, trang nghiêm của Phật mà họ dần tin
rằng Phật đã thật sự chứng ngộ, là một Giác giả đã tựu thành đạo quả, là người
có đủ khả năng chỉ dạy cho mình đạt đến sự giác ngộ, giải thoát hoàn toàn.
Vì vậy năm người bạn đồng tu đã thỉnh Phật nghỉ ngơi ở một nơi mát
mẻ, an tịnh trong vườn Lộc Uyển.
Vào buổi tối hôm đó, họ đã lắng nghe Phật thuyết giảng bài pháp
đầu tiên đánh dấu sự ra đời của bộ giáo lý chánh pháp vô thượng, thù thắng, vi diệu.
Bài pháp thoại đầu tiên của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thuyết giải cho năm
người bạn là Kinh Chuyển Pháp Luân
(Còn tiếp)
Bài liên quan
- Chọn lựa của nhân loại
- Đơn nghiệp - Cộng Nghiệp
- Bồ tát - Thanh văn
- Huyền môn và đạo Phật
- Một nguyên nhân khác khiến cho đạo Phật bị lu mờ
- Hóa giải thâm cừu, đại hận giữa các hệ phái đạo Phật
- Tam Tạng kinh do ai thuyết?
- Diệu ý Như Lai
- Phác họa chân dung Giác giả Thích Ca
- “Khai quan điểm nhãn” (P.4)
- “Khai quan điểm nhãn” (P.3)
- “Khai quan điểm nhãn” (P.2)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét