Phẩm Hạnh Bồ Tát
Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2018
Khi đó, Phật Thích Ca đang nói pháp nơi vườn cây Am la, vườn ấy
bỗng nhiên rộng rãi trang nghiêm, tất cả đại chúng trong Pháp hội đều trở thành
sắc vàng.
Ngài A Nan liền hỏi Phật:
- Thưa Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà có điềm lành này, vườn đây
bỗng nhiên rộng rãi trang nghiêm, tất cả đại chúng đều hiện sắc vàng sáng rỡ?
Phật đáp:
- Này A Nan! Đây là thần biến của cư sĩ Duy ma cật, Văn Thù Sư Lợi
cùng đại chúng cung kính nơi Như Lai, họ đồng phát tâm muốn đến nên trước hiện
điềm lành này.
Lúc đó, trưởng giả Duy ma cật nói với ngài Văn Thù Sư Lợi:
- Ta nên cùng nhau đến ra mắt Phật để cho các Bồ tát cõi nước
Chúng Hương được đảnh lễ, cúng dường Thế Tôn.
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói:
·
Đúng vậy! Giờ là lúc hợp thời, rất nên đi.
Trưởng giả Duy ma cật dùng sức thần thông đem cả đại chúng và các
tòa sư tử đặt trên lòng bàn tay phải đi đến chỗ Phật. Khi đến nơi rồi, trưởng
giả Duy ma cật đặt tất cả xuống và cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, sau đó đi
quanh Phật bảy vòng, rồi chắp tay đứng một bên. Các vị Bồ tát thảy đều rời bảo
tòa đồng thời đảnh lễ dưới chân Phật, sau cũng đi quanh bảy vòng rồi đứng sang
một bên. Các đại đệ tử, Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương cả thảy đều làm
như vậy.
Bấy giờ, Thế Tôn như pháp thăm hỏi các vị Bồ tát rồi bảo tất cả
cùng ngồi lại chỗ cũ. Đại chúng im lặng làm theo.
Khi đại chúng đã an vị, Phật bảo ngài Xá lợi phất:
- Ông có thấy thần lực tự tại, bất khả tư nghị của Đại sĩ Duy ma
cật chăng?
Ngài Xá lợi phất đáp:
- Thưa Thế Tôn! Con đã thấy.
Phật lại hỏi:
- Ý ông nghĩ sao?
Ngài Xá lợi phất đáp:
- Thưa Thế Tôn! Con thấy các việc làm ấy thật không thể nghĩ bàn,
thật không phải lấy ý mà suy lường được.
Ngài A Nan hỏi Phật:
- Thưa Thế Tôn! Con ngửi thấy mùi hương xưa nay chưa từng có, đó
là mùi hương gì?
Lúc đó, ngài Xá lợi phất liền đáp:
- Đó là mùi hương nơi lỗ chân lông của chúng tôi thoát ra.
Ngài A Nan lại hỏi:
- Mùi hương ấy do đâu mà có?
Ngài Xá lợi phất đáp:
- Việc ấy do trưởng giả Duy ma cật dùng Hóa Bồ tát đến khất thực
cơm thơm ở cõi nước Chúng Hương, nơi Phật Hương Tích đang giáo hóa. Do thọ trai
cơm ấy nên ở lỗ chân lông đại chúng thoát ra mùi hương kia.
Khi ấy, ngài A Nan quay sang hỏi trưởng giả Duy ma cật:
- Thưa Đại sĩ Duy ma cật! Mùi hương đó sẽ lưu lại khoảng bao lâu?
Trưởng giả Duy ma cật nói:
- Đến khi cơm đó tiêu hết.
Ngài A Nan hỏi:
- Cơm đó bao lâu mới tiêu hết?
Ngài Duy ma cật đáp:
- Thưa ngài A Nan! Cơm hương ấy tùy căn tánh chúng sinh mà sự tiêu
hết có nhanh chậm. Với những hàng Thanh văn chưa vào chánh vị, ăn cơm đó đến
khi vào chánh vị rồi mới tiêu. Người đã vào chánh vị, ăn cơm đó đến khi tâm
giải thoát rồi mới tiêu. Người chưa phát tâm đại thừa ăn cơm đó đến khi phát
tâm đại thừa rồi mới tiêu, người đã phát tâm đại thừa ăn cơm đó khi được vô
sanh pháp nhẫn rồi mới tiêu. Người đã được vô sanh pháp nhẫn ăn cơm đó đến khi
trở thành Đại Bồ tát rồi mới tiêu. Ví như phương thuốc có công năng trị được
mọi thứ bệnh tật, người được uống phương thuốc đó liền trừ hết các độc trong
thân rồi thì phương thuốc ấy mới giải trừ. Cơm hương này cũng vậy, khi trừ hết
tất cả độc phiền não, tham ái, si mê, sân hận… rồi thì mới tiêu.
Ngài A Nan nói với Phật:
- Thật là điều chưa từng có! Thưa Thế Tôn! Hẳn món cơm thơm ấy có
thể làm Phật sự?
Phật nói:
- Đúng thế đấy, A Nan! Có cõi Phật lấy ánh sáng của Phật mà làm
Phật sự, có cõi lấy Bồ tát mà làm Phật sự, có cõi lấy người huyễn của Phật hóa
hiện ra mà làm Phật sự, có cõi lấy cây Bồ đề mà làm Phật sự, có cõi lấy y bát,
tọa cụ của Phật mà làm Phật sự, có cõi lấy cơm ăn mà làm Phật sự, có cõi lấy
vườn rừng, lâu đài, nhà cửa làm Phật sự, có cõi lấy 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp mà
làm Phật sự, có cõi lấy thân Phật mà làm Phật sự, có cõi lấy hư không mà làm
Phật sự, chúng sinh tùy theo duyên mà vào chánh đạo. Có cõi lấy mộng, huyễn,
bóng, vang, ảnh trong gương, trăng dưới nước, ánh nắng dợn, các thí dụ, các
pháp phương tiện, sự quyền biến mà làm Phật sự, có cõi lấy tiếng gọi, lời nói,
văn tự mà làm Phật sự, có cõi lấy Phật thanh tịnh vắng lặng, không nói không
làm, không tướng không biết, không tạo không tác mà làm Phật sự. Như thế đó, A
Nan! Những pháp phương tiện Phật bày ra đều là Phật sự cả.
- Thêm nữa, A Nan! Có bốn ma và tám muôn bốn ngàn phiền não thường
khiến chúng sinh 3 cõi nhọc nhằn, mỏi mệt. Chư Phật lại dùng các pháp ấy mà làm
Phật sự, đó gọi là vào Pháp môn giải thoát của tất cả chư Phật. Bồ tát vào pháp
môn này khi rõ biết tất cả cõi Phật nghiêm tịnh không lấy làm mừng, cũng không
ham muốn, không xa lìa, cũng không kiêu hãnh cho rằng đã đắc trí tuệ Phật; Hoặc
khi thấy tất cả cõi Phật đương hiển hiện sự bất tịnh cũng không lo, không ngại,
không từ bỏ, chỉ nương nơi trí tuệ Phật giữ lòng thanh tịnh, an lạc; Khi được
nghe pháp Phật chưa từng có liền cung kính ngợi khen và ra sức thọ trì, phát
tâm đại thừa hoằng pháp. Người học Phật nên thấu suốt rằng Như Lai công đức
bình đẳng, chan hòa vì việc giáo hóa mọi chúng sinh mà hiện ra các cõi Phật
chẳng đồng.
- Này A Nan! Ông thấy cõi nước của chư Phật có nhiều chỗ khác
nhau, song hư không thì không khác. Cũng như thế, ông nghe ta nói sắc thân Phật
tuy nhiều sai biệt song trí tuệ vô ngại của chư Phật là bình đẳng. Chư Phật với
sắc tướng, chủng tánh, giới, định, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến,
thập lực, vô sở úy, các pháp bất cộng, đại từ đại bi, oai nghi, thọ mạng, nói
pháp giáo hóa thành tựu chúng sinh, nghiêm tịnh cõi Phật, đủ các pháp Phật,…
thảy đều đồng đẳng, cho nên gọi là Tam Muội Tam Phật Đà, gọi là Đa Đà A Dà Độ,
gọi là Phật Đà. Nếu ta diễn nói nghĩa ba câu này thì dầu suốt đời của ông cũng
không thể ghi nhớ hết. Nói cách khác là nếu chúng sinh đầy dẫy trong cõi Tam
thiên đại thiên thế giới đều như A Nan, cùng là hạng đa văn bậc nhất, đều được
niệm tổng trì thì dù những người đó suốt cả đời suy lường cũng không lãnh thọ
được viên mãn trí tuệ Phật. Như thế đấy, A Nan! Trí tuệ những bậc vô thượng
chánh đẳng chánh giác không có hạn lượng, vượt ra ngoài biên kiến, biện tài vô
ngại không thể nghĩ bàn.
Ngài A Nan liền nói:
- Thưa Thế Tôn! Từ nay về sau con không dám tự cho mình là đa văn
nữa.
Phật nói:
- Chớ nên khởi tâm thoái thất, nhục chí, ngài A Nan. Vì sao? Vì ta
nói ông đa văn hơn hết trong hàng Thanh văn chớ không phải nói ông đa văn ở
hàng Bồ tát. Này A Nan! Người có trí không nên so sánh với các hàng Bồ tát.
Biển sâu còn có thể dò được, chớ thiền định, trí tuệ, tổng trì, biện tài, tất
cả công đức của Bồ tát không thể đo lường được. A Nan này! Ông hãy xem Đại sĩ
Duy ma cật từng hiện bày sức thần thông trong một lúc mà tất cả hàng Thanh văn,
Bích Chi Phật trải trăm ngàn kiếp tận lực biến hóa đều không thể làm được. Điều
đó chứng thực cho ông thấy rằng trí Bát nhã của hàng Bồ tát là không thể nghĩ
bàn.
Bấy giờ, các Bồ tát ở nước Chúng Hương đồng chắp tay hỏi Phật
Thích Ca:
- Thưa Thế Tôn! Chúng con khi mới đến cõi này, tâm tưởng đã cho là
hạ liệt, nay chúng con xin tự sám hối tâm niệm bất tịnh ấy. Vì sao? Vì phương
tiện của chư Phật là không thể nghĩ bàn, vì độ thoát chúng sinh nên tùy nghi mà
hiện ra cõi Phật tương ưng với tâm tánh chúng sinh nơi giáo hóa. Thưa Thế Tôn!
Xin Thế Tôn ban cho pháp phương tiện để chúng con khi trở về cõi Chúng Hương
được nhớ nghĩ đến Như Lai.
Phật bảo các Bồ tát cõi Chúng Hương rằng:
- Có Pháp môn tận, vô tận giải thoát các ông nên thọ trì. Sao gọi
là tận? Tận là pháp hữu vi. Sao gọi là vô tận? Vô tận là pháp vô vi. Bồ tát
thời không tận hữu vi, cũng không trụ vô vi.
- Sao gọi là không tận hữu vi? Vì Bồ tát không lìa đại từ, không
bỏ đại bi, sâu phát tâm cầu nhất thiết chủng trí mà không hề quên lãng, việc
giáo hóa chúng sinh quyết không có sự nhàm mỏi, chán chường. Đối với Từ bi hỷ
xả thường nhờ nghĩ, hành trì, giữ gìn chánh pháp không tiếc thân mạng, làm các
việc lành không hề buông lung, chí thường hồi hướng đến chúng sinh, cầu pháp
không giải đãi, diễn nói pháp không tiếc lời, siêng cúng dường chư Phật, vào
trong sinh tử mà không sợ sệt; Đối với việc được mất lòng không lo, không đắm,
không khinh người chưa học, kính người học pháp như Phật, gặp người bị phiền
não giúp họ cho phát chánh niệm, nhận ra được cái vui xa lìa thế tục không cho
là quí, không đắm việc hỷ lạc thiền định mà khởi tâm hỷ vì người; Ở trong thiền
định mà xem như nơi địa ngục, ở trong sinh tử mà tự tại giải thoát như nơi Pháp
thân Phật; Thấy người đến cầu pháp xem như thầy lành, bạn quý, bỏ tất cả vật sở
hữu dính mắc, ràng buộc, nỗ lực hành Bồ tát đạo, thành tựu trí tuệ Bát nhã,
chứng ngộ vô thượng Bồ đề; Thấy người phá giới tâm liền nghĩ việc ứng cứu, với
các pháp ba la mật xem như là cha mẹ, với các pháp phương tiện xem như là quyến
thuộc, làm việc lành không có sự hạn lượng, suy lường, đem các việc trang
nghiêm ở các cõi Phật thanh tịnh, ra sức trau dồi cõi nước của mình, thực hành
bố thí vô hạn, đầy đủ tướng tốt, trừ tất cả điều xấu, gạn lọc trong sạch thân
khẩu ý, trải nhiều số kiếp sinh tử mà lòng càng thêm mạnh mẽ, nghe chư Phật
thuyết pháp kiên trì, không nhàm mỏi, dùng gươm trí tuệ phá giặc phiền não, ra
khỏi ấm, giới, nhập, gánh vác chúng sinh để được hoàn toàn giải thoát, dùng sức
đại tinh tấn phá dẹp quân ma, thường cầu vô niệm, thật tướng trí tuệ, thực hành
ít muốn, biết đủ mà chẳng bỏ việc đời, không làm sai chánh pháp mà thuận theo
thế tục, khởi trí tuệ Bát nhã dẫn dắt mọi chúng sinh, đặng niệm tổng trì đã
nghe không quên, khéo biết căn cơ người nghe nhằm ra sức diễn nói pháp yếu đoạn
dứt lòng nghi, tâm tà vạy của chúng sinh cầu pháp, dùng nhạo thuyết biện tài
thuyết pháp vô ngại, thanh tịnh mười nghiệp lành hưởng thọ phước trời người, tu
bốn món vô lượng mở đường Phạm thiên, khuyên thỉnh người nói pháp, tùy hỷ ngợi
khen điều lành, đặng tiếng tốt của Phật, thân, khẩu, ý trọn lành, đặng oai nghi
của Phật, công phu thọ trì các pháp lành sâu dày ngày càng tinh tấn, đem pháp
khí đại thừa giáo hóa thành tựu Bồ tát Tăng, lòng không buông lung, không mất
các hạnh lành. Bồ tát hành các pháp như thế gọi là Bồ tát không tận hữu vi.
- Sao gọi là không trụ vô vi? Vì Bồ tát hành trì tánh không, không
lấy không làm chỗ chứng đắc; Hành trì vô tướng, vô tác, không lấy vô tướng, vô
tác làm chỗ chứng đắc; Hành trì pháp vô sanh, không lấy vô sanh làm chỗ chứng
đắc; Quán vô thường mà không từ bỏ việc làm điều lành; Quán chiếu pháp thế gian
là khổ mà không ngăn ngại việc sinh tử; Quán vô ngã mà chỉ bày người không nhàm
mỏi; Quán tịch diệt mà không trụ diệt tận định; Quán xa lìa mà thân tâm tu các
pháp lành; Quán không chỗ về mà về theo pháp lành; Quán pháp vô sanh mà nơi
sinh diệt gánh vác tất cả việc; Quán vô lậu mà không đoạn các lậu; Quán không
chỗ làm mà dùng việc làm để giáo hóa chúng sinh; Quán Không mà không từ bỏ lòng
đại bi; Quán chánh vị mà không theo tiểu thừa đoạn diệt; Quán các pháp hư vọng,
không bền chắc, không nhân, không chủ, không tướng, không bản nguyện chưa thành
tựu không lìa bỏ phước đức, thiền định, trí tuệ. Bồ tát hành trì các pháp như
thế gọi là Bồ tát không trụ vô vi.
- Lại vì đủ các phước đức mà không trụ vô vi; Vì đủ cả trí tuệ mà
không tận hữu vi; Vì đại từ bi mà không trụ vô vi; Vì viên mãn bản nguyện mà
không tận hữu vi; Vì tích lũy các pháp lành trị bệnh cho mọi chúng sinh mà
không trụ vô vi; Vì tùy bệnh cho thuốc mà không tận hữu vi; Vì biết bệnh chúng
sinh mà không trụ vô vi; Vì dứt trừ bệnh chúng sinh mà không tận hữu vi. Các Bồ
tát chánh sĩ hành trì pháp này thời không tận hữu vi, không trụ vô vi; Đó gọi
là Pháp môn tận, vô tận giải thoát, đây là pháp mà các vị Bồ tát cần gìn giữ,
thọ trì.
Bấy giờ, các Bồ tát ở cõi nước Chúng Hương nghe Phật nói pháp này
rồi tâm rất hoan hỷ, cả thảy đều đem các thứ hoa đủ màu sắc thơm tho rải khắp
cõi Tam thiên đại thiên cúng dường Phật. Các vị Bồ tát cõi nước Chúng Hương
đồng đảnh lễ dưới chân Phật Thích Ca và ngợi khen vì được nghe pháp chưa từng
có, họ cùng nói rằng “Ở cõi Ta Bà, chỉ có Phật Thích Ca Mâu Ni mới có đủ năng
lực mà bày ra được các pháp phương tiện khéo”. Nói rồi, các vị Bồ tát liền trở
về cõi nước Chúng Hương.
Tinh yếu lược giải:
- Này A Nan! Ông thấy cõi nước của chư Phật có nhiều chỗ khác
nhau, song hư không thì không khác. Cũng như thế, ông nghe ta nói sắc thân Phật
tuy nhiều sai biệt song trí tuệ vô ngại của chư Phật là bình đẳng. Chư Phật với
sắc tướng, chủng tánh, giới, định, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến,
thập lực, vô sở úy, các pháp bất cộng, đại từ đại bi, oai nghi, thọ mạng, nói
pháp giáo hóa thành tựu chúng sinh, nghiêm tịnh cõi Phật, đủ các pháp Phật,
thảy đều đồng đẳng, cho nên gọi là Tam Muội Tam Phật Đà, gọi là Đa Đà A Dà Độ,
gọi là Phật Đà. Nếu ta diễn nói nghĩa ba câu này thì dầu suốt đời của ông cũng
không ghi nhớ hết. Nói cách khác là nếu chúng sinh đầy dẫy trong cõi Tam thiên
đại thiên thế giới đều như A Nan, cùng là hạng đa văn bậc nhất, đều được niệm
tổng trì thì dù những người đó suốt cả đời suy lường cũng không lãnh thọ được.
Như thế đấy, A Nan! Trí tuệ những bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác không có
hạn lượng, vượt ra ngoài biên kiến, biện tài không thể nghĩ bàn.
Ngài A Nan liền nói:
- Thưa Thế Tôn! Từ nay về sau con không dám tự cho mình là đa văn
nữa.
Phật nói::
- Chớ nên khởi tâm thoái thất, nhục chí, ngài A Nan. Vì sao? Vì ta
nói ông đa văn hơn hết trong hàng Thanh văn chớ không phải nói ông đa văn ở
hàng Bồ tát. Này A Nan! Người có trí không nên so sánh với các hàng Bồ tát.
Biển sâu còn có thể dò được, chớ thiền định, trí tuệ, tổng trì, biện tài, tất
cả công đức của Bồ tát không thể đo lường được. A Nan này! Ông hãy xem Đại sĩ
Duy ma cật từng hiện bày sức thần thông trong một lúc mà tất cả hàng Thanh văn,
Bích Chi Phật trải trăm ngàn kiếp tận lực biến hóa đều không làm được. Điều đó
chứng thực cho ông thấy rằng trí Bát nhã của hàng Bồ tát là không thể nghĩ bàn.
Chỉ cần một vài lời vấn của Giác giả thì người học Phật Thanh văn
thừa sẽ rơi vào điều tự ti, mặc cảm. Cuộc đối thoại giữa Phật Thích Ca và ngài
A Nan đã bày ra sự thật thường gặp ở người học Phật xưa nay.
Phẩm Hạnh Bồ tát, vị Giác giả lại diễn nói những việc mà người học
Phật ứng nguyện pháp khí đại thừa, cầu trí tuệ Bát nhã rất nên thọ trì, đây là
việc ích người, lợi mình. Muốn vượt thoát dòng sinh tử ngay nơi hiện kiếp người
học Phật nhất thiết phải tinh tấn, dũng mãnh cầu trí tuệ Bát nhã. Muốn chóng
viên thành trí tuệ Bát nhã người học Phật phải nhất thiết phát tâm đại thừa,
hành Bồ tát đạo, rất nên triệt ngộ “Pháp thí là vi diệu, thù thắng bậc nhất”.
Giác giả xuất thế xưa nay nhẫn đến mai sau đều do nơi Pháp thí mà thành tựu.
Bấy giờ, các Bồ tát ở nước Chúng Hương đồng chắp tay hỏi Phật
Thích Ca:
- Thưa Thế Tôn! Chúng con khi mới đến cõi này, tâm tưởng đã cho là
hạ liệt, nay chúng con xin tự sám hối tâm niệm bất tịnh ấy. Vì sao? Vì phương
tiện của chư Phật là không thể nghĩ bàn, vì độ thoát chúng sinh nên tùy nghi mà
hiện ra cõi Phật tương ưng với tâm tánh chúng sinh nơi giáo hóa. Thưa Thế Tôn!
Xin Thế Tôn ban cho pháp phương tiện để chúng con khi trở về cõi Chúng Hương
được nhớ nghĩ đến Như Lai.
Phật bảo các Bồ tát cõi Chúng Hương rằng:
- Có Pháp môn tận, vô tận giải thoát các ông nên thọ trì. Sao gọi
là tận? Tận là pháp hữu vi. Sao gọi là vô tận? Vô tận là pháp vô vi. Bồ tát
thời không tận hữu vi, cũng không trụ vô vi.
- Sao gọi là không tận hữu vi? Vì Bồ tát không lìa đại từ, không
bỏ đại bi, sâu phát tâm cầu nhất thiết chủng trí mà không hề quên lãng, việc
giáo hóa chúng sinh quyết không có sự nhàm mỏi, chán chường. Đối với Từ bi hỷ
xả thường nhờ nghĩ, hành trì, giữ gìn chánh pháp không tiếc thân mạng, làm các
việc lành không hề buông lung, chí thường hồi hướng đến chúng sinh, cầu pháp
không giải đãi, diễn nói pháp không tiếc lời, siêng cúng dường chư Phật, vào
trong sinh tử mà không sợ sệt; Đối với việc được mất lòng không lo, không đắm,
không khinh người chưa học, kính người học pháp như Phật, gặp người bị phiền
não giúp họ cho phát chánh niệm, nhận ra được cái vui xa lìa thế tục không cho
là quí, không đắm việc hỷ lạc thiền định mà khởi tâm hỷ vì người; Ở trong thiền
định mà xem như nơi địa ngục, ở trong sinh tử mà tự tại giải thoát như nơi Pháp
thân Phật; Thấy người đến cầu pháp xem như thầy lành, bạn quý, bỏ tất cả vật sở
hữu dính mắc, ràng buộc, nỗ lực hành Bồ tát đạo, thành tựu trí tuệ Bát nhã,
chứng ngộ vô thượng Bồ đề; Thấy người phá giới tâm liền nghĩ việc ứng cứu, với
các pháp ba la mật xem như là cha mẹ, với các pháp phương tiện xem như là quyến
thuộc, làm việc lành không có sự hạn lượng, suy lường, đem các việc trang
nghiêm ở các cõi Phật thanh tịnh, ra sức trau dồi cõi nước của mình, thực hành
bố thí vô hạn, đầy đủ tướng tốt, trừ tất cả điều xấu, gạn lọc trong sạch thân
khẩu ý, trải nhiều số kiếp sinh tử mà lòng càng thêm mạnh mẽ, nghe chư Phật
thuyết pháp kiên trì, không nhàm mỏi, dùng gươm trí tuệ phá giặc phiền não, ra
khỏi ấm, giới, nhập, gánh vác chúng sinh để được hoàn toàn giải thoát, dùng sức
đại tinh tấn phá dẹp quân ma, thường cầu vô niệm, thật tướng trí tuệ, thực hành
ít muốn, biết đủ mà chẳng bỏ việc đời, không làm sai chánh pháp mà thuận theo
thế tục, khởi trí tuệ Bát nhã dẫn dắt mọi chúng sinh, đặng niệm tổng trì đã
nghe không quên, khéo biết căn cơ người nghe nhằm ra sức diễn nói pháp yếu đoạn
dứt lòng nghi, tâm tà vạy của chúng sinh cầu pháp, dùng nhạo thuyết biện tài
thuyết pháp vô ngại, thanh tịnh mười nghiệp lành hưởng thọ phước trời người, tu
bốn món vô lượng mở đường Phạm thiên, khuyên thỉnh người nói pháp, tùy hỷ ngợi
khen điều lành, đặng tiếng tốt của Phật, thân, khẩu, ý trọn lành, đặng oai nghi
của Phật, công phu thọ trì các pháp lành sâu dày ngày càng tinh tấn, đem pháp
khí đại thừa giáo hóa thành tựu Bồ tát Tăng, lòng không buông lung, không mất
các hạnh lành. Bồ tát hành các pháp như thế gọi là Bồ tát không tận hữu vi.
- Sao gọi là không trụ vô vi? Vì Bồ tát hành trì tánh không, không
lấy không làm chỗ chứng đắc; Hành trì vô tướng, vô tác, không lấy vô tướng, vô
tác làm chỗ chứng đắc; Hành trì pháp vô sanh, không lấy vô sanh làm chỗ chứng
đắc; Quán vô thường mà không từ bỏ việc làm điều lành; Quán chiếu pháp thế gian
là khổ mà không ngăn ngại việc sinh tử; Quán vô ngã mà chỉ bày người không nhàm
mỏi; Quán tịch diệt mà không trụ diệt tận định; Quán xa lìa mà thân tâm tu các
pháp lành; Quán không chỗ về mà về theo pháp lành; Quán pháp vô sanh mà nơi
sinh diệt gánh vác tất cả việc; Quán vô lậu mà không đoạn các lậu; Quán không
chỗ làm mà dùng việc làm để giáo hóa chúng sinh; Quán Không mà không từ bỏ lòng
đại bi; Quán chánh vị mà không theo tiểu thừa đoạn diệt; Quán các pháp hư vọng,
không bền chắc, không nhân, không chủ, không tướng, không bản nguyện chưa thành
tựu không lìa bỏ phước đức, thiền định, trí tuệ. Bồ tát hành trì các pháp như
thế gọi là Bồ tát không trụ vô vi.
- Lại vì đủ các phước đức mà không trụ vô vi; Vì đủ cả trí tuệ mà
không tận hữu vi; Vì đại từ bi mà không trụ vô vi; Vì viên mãn bản nguyện mà
không tận hữu vi; Vì tích lũy các pháp lành trị bệnh cho mọi chúng sinh mà
không trụ vô vi; Vì tùy bệnh cho thuốc mà không tận hữu vi; Vì biết bệnh chúng
sinh mà không trụ vô vi; Vì dứt trừ bệnh chúng sinh mà không tận hữu vi. Các Bồ
tát chánh sĩ hành trì pháp này thời không tận hữu vi, không trụ vô vi; Đó gọi
là Pháp môn tận, vô tận giải thoát, đây là pháp mà các vị Bồ tát cần gìn giữ,
thọ trì.
Những lời Phật Thích Ca nói với những vị Bồ tát ở nước cõi nước
Chúng Hương chính là lời của Giác giả nói với người học Phật tìm về hương thanh
tịnh giải thoát ở cõi Ta Bà. Người học Phật đúng mực hãy nên khách quan quán
chiếu tánh hạnh Bồ tát mà an nhiên thọ trì, chớ sinh lòng tà vạy, dính mắc sự
phân biệt nơi biên kiến, nhị nguyên đối đãi.
Bài liên quan
- Phẩm Pháp Cúng Dường
- Phẩm Được Thấy Phật A Súc
- Phẩm Phật Hương Tích
- Phẩm Pháp môn không hai
- Phẩm Con Đường Phật Đi
- Phẩm Quán Chiếu Căn Tánh Chúng Sinh
- Phẩm Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát
- Phẩm Văn Thù Sư Lợi Đi Thăm Bệnh
- Phẩm Trò Chuyện Cùng Các Vị Bồ Tát (P.2)
- Phẩm Trò Chuyện Cùng Các Vị Bồ Tát (P.1)
- Phẩm Nói Với Chúng Học Trò Thanh Văn (P.2)
- Phẩm Nói Với Chúng Học Trò Thanh Văn (P.1)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét