Diệu Ý Như Lai - Giải Mã Đạo Phật
Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2019
Thái
tử Tất đạt đa ra đời và lớn lên trong nỗi bất hạnh lớn lao nhất của một đời
người, Thái tử là đứa bé mồ côi mẹ.
Dẫu
rằng xuất thân vương giả tôn quý, được bảo bọc trong tình thương yêu của vua
cha Tịnh Phạn và mẹ kế, cũng là dì ruột, hoàng hậu Kiều Đàm Di. Nhưng trong
vòng tay yêu thương đó đứa bé nhạy cảm Tất đạt đa vẫn không thể tránh khỏi nỗi
nguôi ngoai, nhớ nghĩ đến người mẹ đã mất, việc sinh tử đã ám ảnh tâm thức Thái
tử, nỗi ám ảnh đó tăng trưởng dần theo năm tháng Thái tử Tất đạt đa lớn khôn.
Thái
tử Tất đạt đa là một người thông tuệ, ham học hỏi mọi sự hiểu biết. Do bởi xuất
thân ở dòng dõi tôn quý Sát đế lợi nên Thái tử hội đủ những yếu tố cần thiết
cho việc trau dồi kiến thức, phẩm hạnh. Việc tiếp xúc với giới Tăng lữ - Bà la
môn đã giúp Thái tử sớm biết đến sự giải thoát của một con người bằng cách hợp
thể với Braham (Đại ngã). Khi một tiểu ngã (Atman) trở về đại ngã (Braham) thì
sẽ được giải thoát khỏi sinh tử, vượt thoát sinh tử là đồng nghĩa với việc giải
thoát hoàn toàn mọi khổ đau.
Và
do lưu tâm đến việc giải thoát sinh tử nên Thái tử đã tìm đọc cũng như học hỏi
các vị thầy Bà la môn về Áo Nghĩa Thư, kinh Vệ đà với tất cả lòng say mê, tận
tụy. Song Thái tử mau chóng nhận ra việc giải thoát sinh tử, hợp thể với Braham
chỉ là những lý thuyết chưa sáng rõ nơi giáo lý kinh điển Bà la môn, dường như
không có ai trong số những vị Bà la môn danh tiếng mà Thái tử Tất đạt đa tìm
gặp đạt được trạng thái giải thoát hoặc rõ biết cách thức hợp thể cùng Braham -
không có một chứng nhân xác thực nào thể hiện việc thể nhập niết bàn tịch diệt.
Sự giải thoát hoàn toàn lúc bấy giờ chỉ là nguồn lý thuyết suông, thiếu khuyết
hẳn một bằng chứng thiết thực, cụ thể. Niết bàn là hiện tại, là quá khứ, là vị
lai? Không một ai rõ biết, các vị giáo chủ ở các tôn giáo danh tiếng quanh lưu
vực sông Hằng chỉ đàm luận về niết bàn, trạng thái niết bàn qua ngôn từ, cổ thư
cùng kinh điển; có những sai khác tư tưởng về trạng thái niết bàn, sự giải
thoát, việc hợp thể cùng Braham, tất cả biện giải về sự hợp thể, giải thoát,
niết bàn,… đã đang và sẽ là những cuộc tranh luận gay gắt giữa các hệ thống tôn
giáo, cơ hồ đó là những cuộc tranh luân không có hồi kết.
Câu
hỏi “Làm sao hợp thể với đại ngã - Braham?” đặt ra nơi tâm thức Tất đạt đa, câu
hỏi đó thôi thúc Thái tử về một sự giải thoát hoàn toàn cùng với việc thoát khổ
đến xuyến xao.
Tuy
nhiên, do xuất thân hoàng tộc nên Tất đạt đa không chỉ bị nỗi thao thức tâm
linh cá nhân trói buộc, Thái tử Tất đạt đa phải học hỏi cả việc chính sự nhằm
chuẩn bị cho vai trò thay vua cha Tịnh Phạn quản lý vương quốc Thích Ca. Việc
tham gia chính sự khiến Thái tử sớm nhìn ra “hậu trường” tởm lợm của giới chính
trị được tiếng tôn quý, mực thước. Ở nơi đó Thái tử Tất đạt đa thấy rõ sự dối
trá, thối nát, đạo đức giả của nhân cách dòng dõi Sát đế lợi, hoàng thân, quốc
thích với những tranh danh, đoạt lợi đớn hèn, hiểm độc.
Trong
sự ngụp lặn nơi được mất, hơn thua của các hoàng thân, quốc thích, giới quan
quyền Thái tử nhận ra những khổ não, khốn cùng của họ, những người giàu có, uy
quyền bậc nhất. Thái tử Tất đạt đa cũng nhận biết được vua cha Tịnh Phạn, vị
vua cai trị vương quốc Thích Ca cũng có nhiều lo toan, khổ não và đã rất nhiều
lần vì đại cuộc, sự an nguy quốc gia mà phải có cách hành xử nhún nhường với
các vị hoàng thân nhiều thế lực.
Giới
Bà la môn, thành phần có uy quyền bậc nhất nơi thế giới tâm linh cũng trói mình
trong những khổ não thế tục với tranh danh, đoạt lợi. Trong lòng những người Bà
la môn chân chính, chuẩn mực nhất cũng còn đó những nỗi bất an, việc khao khát
chạm đến sự hợp thể cùng Braham, họ cũng vẫy vùng một cách bế tắc trong việc
tìm ra lối thoát việc sinh tử - hợp thể, trở về với đại ngã Braham. Đắm chìm
trong các nghi thức tế lễ, nguyện cầu, phủ phục trước Đấng Braham với đủ đầy sự
tín thành, lòng mong mỏi được hợp thể cùng Braham,…
Đồng
thời cũng thông qua các cuộc tế lễ, nguyện cầu… các dòng Bà la môn đã sử
dụng đặc quyền “khả năng tiếp xúc” các Thần linh như là một công cụ hữu hiệu
nhằm gia tăng thanh thế, uy quyền trước các tầng lớp xã hội khác cùng việc gom
góp tài vật, danh lợi cho dòng tộc.
Các
thành phần xã hội thấp kém hơn như Phệ xá, Thủ đà la, Chiên đà phải phục dịch
cho thành phần Sát đế lợi, Bà la môn một cách lệ thuộc và cam chịu. Sự phân
tầng giai cấp rõ rệt, sâu sắc đè nặng lên kiếp người ở các giai tầng thấp kém,
hạ tiện. Sự bóc lột giữa người với người gay gắt, việc tế lễ tốn kém, xa hoa
bòn rút sức lao động, sự sống còn của các giai cấp thấp hơn. Việc cúng tế, ma
chay, các buổi lễ Thánh tẩy, cầu nguyện tiêu tốn nhiều vật phẩm, công sức phục
dịch khiến cuộc sống người lao động - Thủ đà là, Chiên đà - thành phần trực
tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội rơi vào khốn cùng, khổ não, bất an.
Sự
bất công nơi xã hội con người khiến trái tim nhạy cảm khổ đau của Thái tử Tất
đạt đa rát buốt. Hẳn là Thái tử đã hơn một lần tự nhủ “Ôi! Khổ não kiếp người!
Khổ não việc tử sinh!...”.
Với
một trái tim nhạy cảm yêu thương như thế lòng Thái tử luôn mong mỏi đến sự giải
thoát cho mọi người, mọi loài. Và cũng nơi trái tim nhạy cảm đó khiến lòng Thái
tử Tất đạt đa có sự nhu hòa, do dự - nửa muốn thoát ly hoàng tộc tìm sự giải
thoát khổ não, việc tử sinh; nửa lo nghĩ về trách nhiệm đối với dòng dõi Sát đế
lợi, trở thành một vị vua cai trị đất nước Thích Ca. Hai dòng tư tưởng không
thể, không dễ dung hòa đã đè nặng lên tư tưởng của Thái tử Tất đạt đa; Cái chết
của người mẹ khiến Thái tử cơ hồ mất đi một điểm tựa tinh thần quan trọng.
Chính vì sự do dự, bất quyết mà Thái tử thêm nặng nề, không lối thoát.
Trai
lớn lấy vợ, gái lớn lấy chồng. Thái tử Tất đạt đa được đặt trong tình cảnh gần
như bất khả kháng. Việc lấy vợ, tham gia triều chính phần nào lấn át nỗi thao
thức tâm linh nơi Thái tử Tất đạt đa. Song những khi “trái ý, nghịch lòng”
trước tình cảnh đối mặt với sự tranh giành quyền lực trong hoàng tộc khiến lòng
Thái tử trĩu nặng, Tất đạt đa lại nhớ nghĩ đến việc xa rời sinh tử, thoát khỏi
khổ não - sự hợp thể Braham.
Khi
được vợ, công nương Da du đà la cho biết rằng nàng đã thọ thai thì sự lo nghĩ
của Thái tử Tất đạt đa càng thêm bức bách “Đã có sinh ắt có tử”, Thái tử lại
nhớ đến việc mẹ chàng vì sinh chàng mà phải chết và bao khổ não nhân sinh đang
trói chặt bao kiếp người và muôn loài nơi sự sống.
…
Chàng
ý thức được sợi dây trói quyến thuộc cha con, chồng vợ, hoàng tộc, quốc gia
đang siết chặt lấy chàng. Chàng nhận thức được rằng nếu chàng không tìm ra được
cách thoát khỏi sinh tử thì chàng sẽ phải tiếp tục trôi lăn trong sinh tử luân
hồi và chàng cũng ý thức được nếu không quyết đoán thoát ly gia đình thì chàng
sẽ không có cơ may tìm được sự giải thoát hoàn toàn khỏi việc sinh tử ở hiện
kiếp.
Ngày
công nương Da du đà la hạ sinh là ngày Thái tử Tất đạt đa bồn chồn, bấn loạn.
Thời may là “mẹ tròn, con vuông”, trong thời khắc sinh tử của vợ Thái tử Tất
đạt đa âm thầm xác quyết chọn lựa việc thoát ly hoàng tộc ngõ hầu tìm ra con
đường giúp người thân - cha chàng, vợ con, chàng và mọi người thoát ra mọi khổ
não thế nhân, vượt thoát khỏi sinh tử. Thái tử Tất đạt đa hạ quyết tâm rằng
“Mình phải tìm ra cách thức thoát khổ cho chính mình rồi trở về hướng dẫn lại
mọi người. Chàng không thể tiếp bước vai trò của cha chàng là làm vua một nước
và rồi lẩn quẩn trong những lo toan, khổ não mà không thể thoát ra”.
Thế
là Thái tử Tất đạt đa từ bỏ hoàng cung dấn thân vào con đường tìm ra sự giác
ngộ giải thoát.
…
Trải
qua bao khó khăn, lao nhọc và cả việc dấn thân vào các pháp môn hành trì tìm về
sự giải thoát hoàn toàn sai lầm cuối cùng bằng vào việc buông bỏ mọi tri kiến
từng dính mắc Thái tử Tất đạt đa dấn thân vào việc thiền quán vạn pháp, trong
vạn pháp có cả chính chàng. Việc quán chiếu vạn pháp đến tận cùng bản chất,
việc thiền quán khách quan thuận nghịch từ tổng thể đến chi tiết, rồi lại từ
chi tiết trở ra tổng thể. Việc làm đúng mực, khách quan đó đã vượt qua góc nhìn
hiện tượng và thâm nhập hoàn toàn vào bản chất, tự tánh vạn pháp. Sự hiểu biết
của Thái tử Tất đạt đa dần đạt đến sự cùng tột, vô úy vượt qua vô minh - sự
hiểu biết sai lạc, không thật đúng của loài người đương thời. Tiểu ngã (Atman)
tan rã hoàn toàn vào đại ngã (Braham), hóa ra Braham không phải là một Đấng
quyền năng sáng thế, không là những vị Thần linh tối thượng; Braham chính là
vạn pháp với đất nước gió lửa.
Việc
tăng trưởng sự hiểu biết đến mức tổng thể, khách quan, đúng mực giúp Thái tử
Tất đạt đa dễ dàng phá ngã, buông bỏ mau chóng sự cả nghĩ về tính dính mắc sai
lầm, cái tôi thường tại trong mỗi xác thân máu thịt. Việc phá ngã thành tựu
Thái tử đạt trạng thái niết bàn tịch diệt, chứng đắc pháp vô sanh ở hiện kiếp
ngay khi còn sống. Chìa khóa giúp Thái tử Tất đạt đa chứng nhập niết bàn vô
sanh chính là sự hiểu biết sáng rõ, đúng mực, khách quan về tự tánh vạn pháp,
về cái tôi Atman, cái tôi Braham. Tất cả chỉ là huyễn hóa, không thật có, chẳng
thật không; Mê đắm vào những điều huyễn hóa - vô minh thì bị trói cột vào sinh
tử luân hồi với vô thường, khổ, không. Sáng rõ lẽ thật về tự tánh vạn pháp, xả
bỏ cái tôi kiến tạo bởi tri kiến sai lầm thì dần thoát ra mọi khổ não cùng quy
luật luân hồi sinh tử, nhân vay - quả trả…
…
An
nhiên nếm trải trạng thái niết bàn thường lạc Thái tử Tất đạt đa quán chiếu lại
vạn pháp và xét đến việc sẽ làm về sau. Sự giải thoát hoàn toàn thật vi diệu,
vượt lên mọi nhận thức, tư duy của người đương thời. Sự hiểu biết khách quan,
tổng thể thật thậm thâm, không ngằn mé, đúng mực với bản chất sự sống, tự tánh
vạn quả thật là rất khó để truyền đạt cho người thân, cho mọi người nhất là khi
họ còn tham đắm được sống, được giàu sang với những tranh giành hơn thua, được
mất, thành bại.
Hẳn
Thái tử Tất đạt đa đã từng nghĩ “Thật khó cho ta”, “Những khổ não thế nhân,
vòng quay luân hồi sinh tử trói buộc bao kiếp người chỉ là những vòng tròn
huyễn hóa, lẩn quẩn. Chỉ do vô minh - sự hiểu biết sai lầm về bản ngã, cái tôi
thường tại mà mọi chúng sinh phải trôi lăn nơi 3 cõi 6 đường”, “Làm sao ta có
thể giúp vua cha Tịnh Phạn, vợ con ta, người thân và mọi người hiểu biết rõ sự
vô minh ngõ hầu giúp họ tự thoát ra mọi khổ não, việc tử sinh khi mà trong lòng
họ không khao khát đến sự giải thoát khỏi sinh tử, họ hãy còn mê đắm với ngũ
dục, với Tham sân si mạn nghi?”, “Lẽ nào ta phải từ bỏ lời nguyện ban đầu khi
ta dấn thân lìa bỏ hoàng tộc đi tìm sự giải thoát hoàn toàn?”…
Biết
rằng thật khó để chỉ bày cho người thân về con đường giác ngộ giải thoát Thái
tử Tất đạt đa lại thả lòng rỗng lặng, tịch yên. Tuy nhiên, từ tâm trong lòng
Thái tử Tất đạt đa, vị Giác giả vĩ đại không hề lui sụt bi nguyện dũng mãnh ban
đầu, Tất đạt đa biết rằng con đường giác ngộ giải thoát hoàn toàn khỏi sinh tử
luân hồi cần được phổ truyền vào nhân loại. Song với mỗi một mình thì ta sẽ
không thể truyền trao chánh pháp lan rộng vào trong lòng nhân loại và vị Giác
giả Thích Ca quyết định thực hiện việc thành tựu “Thiên bá ức hóa thân”.
Nhớ
nghĩ đến các vị thầy từng truyền dạy, những người bạn đồng tu và cả những vị sa
môn, Bà la môn, những vị giáo chủ ở các hệ thống tôn giáo quanh lưu vực sông
Hằng cùng hà sa môn đồ của họ - Những người khát khao sự giải thoát hoàn toàn,
vượt thoát luân hồi cùng khổ não - Thái tử Tất đạt đa phát sinh diệu ý “Ngọn
đuốc chánh pháp sẽ được truyền đến tay những người đang khát khao sự giải thoát
hoàn toàn, việc rời xa sinh tử. Khi sáng rõ chánh pháp, đạt đến sự giải thoát
hoàn toàn chính họ sẽ sinh khởi từ bi tâm mà ra sức trao truyền và giữ lửa cho
ngọn đuốc chánh pháp sáng mãi. Việc giữ lửa và trao truyền rộng khắp ngọn đuốc
chánh pháp sẽ giúp con người và muôn loài thoát khổ, thoát khỏi sinh tử khi
cần”.
Với
tấm lòng bi mẫn không cùng Giác giả Thích Ca dấn thân vào con đường truyền trao
giáo lý về con đường giác ngộ giải thoát vào nhân loại một cách tận tụy, đầy
trách nhiệm với mọi chúng sinh.
…
Trong
quá trình tìm tòi, học hỏi việc hòa vào nhất thể Braham - đây là khái niệm giải
thoát hoàn toàn ban đầu khi Thái tử Tất đạt đa dấn thân tìm đạo Lớn - Thái tử
Tất đạt đa đã trải qua bao lần tắm mình trên dòng sông Hằng linh thiêng; Thái
tử cũng trải qua biết bao cuộc tế lễ Thần linh trang nghiêm, tín cẩn với những
bùa chú, huyễn thuật, cầu nguyện và lễ lạy thuần phục; việc hành trì thiền
định, quán tưởng với nhiều phương pháp hành trì sai khác, dị biệt mà các vị
thầy danh tiếng đã ra sức chỉ bày tận tình.
Sau
một quá trình hành trì quyết liễu, miên mật đến mức thể nhập vào mọi ngõ ngách
của các pháp môn tham học Thái tử Tất đạt đa nhận ra rằng giáo lý và pháp hành
mà chàng đã gắng sức hành trì hoàn toàn không chứa đựng cứu cánh giải thoát hoàn
toàn hoặc việc hợp thể cùng Braham. Việc cầu nguyện, lễ lạy ở những buổi lễ tế
Thần hay việc dùng những chú thuật trong các tang lễ thật không thể giúp ích
cho người sống lẫn thần thức người chết thoát ra khỏi luân hồi hay khổ não. Tất
cả chỉ là một sự ngụy tạo, là việc tự “lừa mình, dối người”, chúng chỉ có giá
trị trấn an, khỏa lấp sự yếu đuối của con người trước các Đấng Thần linh, là sự
cân bằng tâm linh giả tạm.
Thêm
nữa, những việc làm cúng tế đó sẽ mang lại các vị Bà la môn sự xa hoa, giàu có,
no đủ ngược lại chúng lại đem đến sự khốn cùng, khổ não, lo toan ở các giai
tầng xã hội thấp hơn như Thủ đà la, Chiên đà, những người nghèo khó, hạ tiện.
Các
vị Bà la môn tín cẩn cúng tế Thần linh theo trình tự, thứ lớp,… họ chỉ làm mọi
việc theo tính kế thừa, họ hoàn toàn không biết cách thức hợp thể cùng Braham,
họ chỉ là những người mù ở thế giới tâm linh, việc chú nguyện của họ dành cho
người chết nhằm “tiếp sức” thần thức người chết trở về hợp thể cùng Braham là
cảnh tượng một người mù chỉ đường cho một người mù. Thế nên các nghi thức, vật
cúng tế tốn kém, xa hoa ở các tang lễ sẽ không đưa thần thức người chết rời xa
quy luật luân hồi song sự tốn kém cho các nghi thức tang lễ trở thành một gánh
nặng vật chất, tinh thần cho những người sống, thân nhân của người chết.
Không
chỉ vậy. Các vị Thần linh cũng chỉ là những huyễn tưởng, họ cũng chỉ là một
dạng chúng sinh trong lục đạo luân hồi. Thế nên chính các vị Thần linh trong
các buổi cúng tế tang lễ cũng chẳng thể hợp thể cùng Braham thì họ cũng chẳng
thể “tiếp rước” các thần thức người chết nhằm hòa vào đại ngã Braham.
Đó
là một trong những lý do mà Thái tử Tất đạt đa từ bỏ việc tham gia các buổi tế
tự, cầu nguyện với chú thuật, lễ lạy, đó cũng là nguyên nhân mà Tất đạt đa
thoát ly hoàng tộc lên đường tìm đạo Lớn.
Đã
có bao hệ thống tôn giáo hiện hữu nơi nhân loại là có bấy nhiêu chí hướng xuất
trần ngõ hầu tìm ra lối thoát tâm linh cho loài người. Biết bao con người hiện
diện trong các hệ thống tôn giáo là có bấy nhiêu tâm ý chúng sinh muốn xa lìa
khổ não, việc tử sinh, việc hợp thể cùng Braham. Song hệ thống giáo lý nơi các
hệ thống tôn giáo truyền thống đó đều không hề có sự giải thoát hoàn toàn cho
loài người đúng như lòng những kẻ tìm cầu mong đợi. Do tính kế thừa tư tưởng
giáo lý một cách cứng nhắc, chủ quan, cực đoan mà hệ thống tôn giáo truyền
thống rơi vào Thường kiến, Đoạn kiến cùng những công kích, xung đột, chống trái
lẫn nhau.
Nếu
con đường vượt thoát khỏi luân hồi sinh tử là không thật có hẳn là Thái tử Tất
đạt đa sẽ không khiêng cưỡng dấn thân truyền trao pho Tam Tạng kinh quý giá, vi
diệu, thậm thâm vào trong nhân gian với những 49 năm dài đầy dẫy những gian
truân, lao nhọc.
Nếu
chánh pháp chỉ đơn thuần là sự vượt thoát khổ não ở hiện tại thì sau khi thành
đạo Thái tử Tất đạt đa sẽ trở về hoàng cung thay vua cha, Tịnh Phạn vương làm
vị minh quân mẫu mực của một đất nước.
Song
nếu Thái tử Tất đạt đa chọn lựa việc làm vua cai trị vương quốc Thích Ca để
riêng hưởng niềm vui giải thoát hoàn toàn thì chánh pháp vượt khổ, liễu thoát
sinh tử cho muôn loài làm sao được phổ truyền? Chúng sinh 6 đường sẽ khổ não,
mệt nhoài lẩn quẩn nơi 3 cõi biết đến bao giờ mới tìm ra lối thoát khỏi sinh
tử? Các vị giáo chủ danh tiếng của các hệ thống tôn giáo truyền thống cũng chỉ
là những chúng sinh vô minh, họ hoàn toàn không biết cách thức thoát ra lưới
mộng luân hồi thì làm sao họ có thể giúp những chúng sinh khác, những chúng
sinh đang khao khát việc thoát khổ, vượt thoát việc sinh tử rời xa luân hồi?
Sau rốt Thái tử Tất đạt đa chọn lựa việc vì chúng sinh nơi 3 cõi 6 đường mà ra
sức.
Và
hiển nhiên là vị Giác giả lỗi lạc không hề có ý định tạo dựng nên một hệ thống
tôn giáo mới nhằm tranh giành tín đồ với các hệ thống tôn giáo hiện có. Diệu ý
của Như Lai chỉ là việc truyền trao chánh pháp, giáo lý về con đường giác ngộ
giải thoát hoàn toàn vào trong nhân loại, đó mới chính thật là mục đích, là
điểm đến cứu cánh mà Giác giả Thích Ca dụng tâm.
Với
câu “49 năm ta chưa từng nói một lời nào” và ”Chánh pháp còn bỏ huống hồ là phi
pháp” Giác giả Thích Ca đã thể hiện rằng chánh pháp giải thoát hoàn toàn không
phải là một hệ thống tôn giáo, đạo Phật chỉ là một pháp phương tiện nhằm truyền
giữ chánh pháp, đạo Phật không là một tổ chức tôn giáo cứng nhắc, thô ráp như
quy ước thiển cận, ấu trĩ của nhân loại ngày xưa và ngày nay.
Nhân
loại ngày nay cần phải khách quan nhận diện Phật Thích Ca vốn không có ý tạo
dựng nên một hệ thống tôn giáo để tranh giành tín đồ với các hệ thống tôn giáo
hiện có khác. Giáo đoàn khất sĩ với ba y, một bát sống đời tri túc, phạm hạnh
ra đời không nhằm vào việc xây dựng chùa to, Phật lớn, những giáo đường tráng
lệ, xa hoa. Nơi giáo lý của đạo Phật mà Giác giả Thích Ca tuyên thuyết cũng
không là các buổi cúng tế linh đình cùng việc cầu nguyện, lễ lạy. Giáo đoàn
Tăng Bảo ra đời cũng không nhằm vào việc tổ chức tang lễ, tiễn đưa người chết
với hủ tục 49 ngày, 100 ngày...
Giáo
đoàn khất sĩ, đạo Phật chỉ là một pháp phương tiện mà Giác giả Thích Ca tạo lập
nhằm gìn giữ, bảo lưu, truyền thừa giáo lý chánh pháp, chiếc chìa khóa liễu
thoát sinh tử, khổ não của con người và mọi loài.
Đạo
Phật ngày nay đã không còn chân phương như buổi đầu, thời kì Phật Thích Ca và
những người cùng chí nguyện dấn thân trên đôi chân trần truyền trao giáo lý
giác ngộ giải thoát đến với xã hội loài người.
Bài liên quan
Home
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét