Giác Giả Thích Ca Ra Đời Là Điều Tất Yếu - Giải Mã Đạo Phật
Thứ Ba, 16 tháng 4, 2019
Phàm việc gì thành tựu cũng có nhân duyên của nó. Cụ thể như việc Chúa Jesu hay Hồi Giáo ra đời đều do bối cảnh xã hội đương thời thúc đẩy buộc xã hội loài người phải sinh xuất ra những con người như thế, cụ thể là Jesu Christ và nhà tiên tri Mohamed.
Tương tự như vậy, Phật Thích Ca ra đời ở Ấn Độ cũng do yêu cầu bức thiết của xã hội nhằm xóa bỏ những bất công nhân sinh – tệ nạn phân chia giai cấp ở các nước quanh lưu vực sông Hằng lúc bấy giờ rất cực đoan, hà khắc đến nghiệt ngã. Đồng thời giáo lý mà Phật Thích Ca tuyên thuyết mở ra lối thoát tâm linh cho muôn sinh đang chìm đắm trong khổ não cùng luân hồi sinh tử vay trả vô minh.
Khác biệt rõ nét nhất ở phương cách truyền pháp của Phật Thích Ca và Chúa Jesu, nhà tiên tri Mohamed truyền thừa đó là yếu tố trí tuệ thù thắng, vượt trội.
Cụ thể là nội dung Tam Tạng giáo điển do Phật Thích Ca trao truyền hàm chứa trí tuệ bát nhã sáng rõ, khách quan và có tính tự chủ.
Trong khi đó kinh Thánh ở cả hai hệ thống tôn giáo lớn nhất hiện nay là Công Giáo, Hồi Giáo dù rằng sinh sau, đẻ muộn so với kinh Phật những hơn 500 năm đến 1000 năm song trí tuệ về thế giới tâm linh cũng như nhân sinh quan ở những bộ giáo lý lại có sự tụt hậu tri thức cùng với tính lệ thuộc, yếu đuối chấp nhận số phận, chỉ giữ lại sự tín tâm đến cuồng tín, si mê.
Tại sao tri thức tâm linh ở hệ thống kinh Thánh Công Giáo, Hồi Giáo có sự tụt hậu so với kinh điển Phật giáo, Kỳ na giáo, Ấn Độ Giáo?
Mời các bạn tham khảo bài viết Tôn Giáo Đã Ra Đời Thế Nào Và Sự Suy Đồi Ở Các Hệ Thống Tôn Giáo Đông Tây
Giác giả Thích Ca ra đời là điều tất yếu
Sự ra đời Giác
giả là quy luật tất yếu của sự vận động, phát triển ở xã hội loài người. Thật
vậy, khi sự bế tắc tâm thức hiện hữu trong nhân loại đạt đến mức cực điểm thì
sẽ có một bậc Toàn Giác ra đời.
Phật Thích Ca đã
ra đời trong bối cảnh xã hội loài người lâm vào cục diện như thế. Quy luật vận
động tâm thức ở xã hội loài người quanh lưu vực sông Hằng cách đây hơn 2500 năm
đã thúc đẩy và tượng hình ra một vị Giác giả chứng ngộ hoàn toàn vạn pháp.
Giác giả là ai?
Giác giả là người như thế nào?
Giác giả vốn là
một con người bình thường, là một người chịu sự chi phối bởi quy luật sinh lão
bệnh tử cùng những khổ não nhân sinh. Do duyên nghiệp nhiều đời kết hợp với
duyên của hiện kiếp nên người ấy tìm cách tháo gỡ sự bế tắc tâm thức, một lòng
hướng đến sự giải thoát hoàn toàn, thoát ra mọi khổ não, mọi sự ràng buộc dính
mắc và nhất là vấn đề sinh tử.
Quá trình tựu
thành một Giác giả:
Xuất phát điểm
Giác giả vốn là một con người bình thường, tiến đến là việc trở thành một học
nhân, về sau cảm nhận sự học hỏi có sự giới hạn nên từ vị trí học nhân người ấy
quay về chiêm nghiệm, lĩnh hội, tư duy và quán chiếu lại mọi điều đã từng biết.
Người học nhân trở nên là một hành nhân, hành nhân đạt được ít nhiều sự tỏ ngộ
chuyển vị thành hành giả. Khi hành giả thâm nhập, chứng ngộ tự tánh vạn pháp,
thông suốt mọi lẽ nhân duyên sinh diệt thì Giác giả ra đời.
Giác giả là
người đã thông suốt vạn pháp, chứng ngộ pháp vô sanh nên không còn chịu sự ràng
buộc của quy luật sinh tử. Do rõ biết tự tánh vạn pháp nên Giác giả tùy thuận
sống hết kiếp sống cuối cùng của một chúng sinh đã trải qua hằng hà sa số kiếp
trôi lăn trong vòng lẩn quẩn luân hồi tương tục.
…
Loài người thời
cổ đại có đời sống hướng nội nên thường trăn trở, suy tư về gốc tích của tự
thân - Ta đến từ đâu? Tại sao Ta được sinh ra? Ta sinh ra nhằm vào mục đích gì?
Tại sao có sự chết đi? Và khi chết Ta sẽ về đâu? - Đó là những câu hỏi rất đúng
mực, sâu sắc, sáng suốt của người xưa. Song những câu hỏi minh triết như thế cơ
hồ đã trở nên ngây ngô, thô thiển, ấu trĩ đối với tri thức nhân loại ngày nay,
nhất là với số đông những người đang đắm mình trong lối sống thực dụng, buông
thả.
Chính do người
xưa ở cả phương Đông - phương Tây có thiên hướng sống hướng nội nên hình thành
nên những hệ thống triết học cổ đại chứa đầy những thông điệp minh triết, thông
thái và sáng suốt. Tuy nhiên, về sau khi không tìm được câu trả lời cho những
câu hỏi nội tâm người phương Tây đã từ bỏ đời sống nội tâm sâu sắc mà dịch
chuyển dần sang lối sống hướng ngoại. Chính sự chuyển dịch lối sống của người
phương Tây đã khiến nền triết học cổ đại phương Tây bị chặn đứng và có sự tụt
hậu so với nền minh triết phương Đông.
Hệ thống triết
học cổ đại Đông Tây là hệ tư tưởng minh triết dựa trên cơ sở lý luận biện chứng
logic sâu sắc nên có tính khách quan, sáng rõ, đúng mực.
Nương theo sự
minh triết có ở các trường phái triết học cổ đại dòng tâm thức tín ngưỡng tâm
linh ra đời. Dòng tâm thức tín ngưỡng tâm linh ra đời do hệ tư tưởng minh triết
ở các trường phái triết học Đông Tây không thỏa mãn được nhu cầu hiểu biết của
loài người, có rất nhiều vấn đề bức thiết có trong nhận thức, tư duy con người
đặt ra mà sự minh triết, thông thái của loài người không thể lý giải. Tính thực
thể có nơi hệ thống triết học cổ đại - hiện đại đã chặn đứng sự hiểu biết của
loài người về những vấn đề tâm linh, những điều huyền bí, mầu nhiệm, thế giới
sau khi con người chết…
Dần dần, những
hệ thống tư tưởng tâm linh được phân định rạch ròi bằng chuỗi những hệ thống
tôn giáo khác nhau. Hệ thống tôn giáo ra đời khi ý thức, nhận thức, tư duy của
loài người phát triển. Khác với hệ thống triết học cổ đại Đông Tây, hệ thống
tôn giáo chịu chi phối của sự tín ngưỡng do vậy nên có tính chủ quan, phiến
diện. Kết quả là chuỗi hệ thống tôn giáo cổ đại ngày càng rơi vào sự suy diễn,
ước đoán, viễn vông, đánh mất dần sự đúng mực, sáng rõ.
Do đời sống
hướng nội nên người cổ đại nhận thức được sự nhỏ bé, mong manh của tự thân, mãi
trói mình trong nhận thức đó và nhìn thấy sự kỳ vĩ của thế giới hiện tượng, sự
bao la, trùm khắp của thế giới tự nhiên loài người suy lường “Hẳn là có một ai
đó đã tạo nên sum la vạn tượng và con người, loài vật cũng do bởi một bàn tay
nào đó nhào nặn mà thành”.
Do suy lường như
thế nên loài người đã chia sẻ thông tin cho nhau dần dần một giả thuyết được
định hình trong nhận thức, tư duy nơi số đông loài người. Sau cùng, việc thừa
nhận có một Đấng quyền năng đầy quyền phép đã tạo ra loài người và muôn vật
được xác lập. Dần dần, do nhận thức được sự yếu đuối, nhỏ bé của con người trước
thiên nhiên kỳ vĩ, bất thường con người trở nên lệ thuộc Đấng quyền năng vô
hình tự lúc nào chẳng rõ. Hệ thống tôn giáo hình thành ban đầu chỉ có một dần
dần phân cành, rẽ nhánh lan rộng khắp xã hội loài người. Tùy thuộc vào sự hiểu
biết của những vị lãnh đạo hệ thống tôn giáo mà giáo lý ở các hệ thống tôn giáo
có sự sai biệt. Tuy nhiên, điểm chính yếu cho sự tồn tại tôn giáo thời cổ đại
là có Đấng quyền năng đấy quyền phép, về sau để thỏa mãn sự bay bổng sáng tạo ở
tâm trí loài người có thêm rất nhiều vị Thần linh ra đời nhằm đảm nhận những
công việc sáng tạo khác nhau, những vị Thần được tạm xem là người giúp việc của
Đấng quyền năng Tối cao.
Hệ thống tôn
giáo sơ khởi chỉ có một Đấng quyền năng - Nhất Thần giáo tiến hóa lên thành hệ
thống tôn giáo Đa thần. Từ đó, thế giới loài người xảy ra sự xung đột tín
ngưỡng và cái giá phải trả là mạng sống của con người, những tín đồ tôn giáo
thuần thành, tận tụy.
Không chỉ vậy.
Nơi dòng tâm thức tín ngưỡng tâm linh về sau cũng ra đời những vị hành giả tâm
linh, họ học hỏi giáo lý có ở các hệ thống tôn giáo, họ cũng từng hành trì việc
nguyện cầu, lễ bái, cúng tế nhưng sâu thẳm nơi tâm thức họ trực nhận dường như
có một điều gì đó không thật đúng, dường như các Đấng quyền năng do loài người
dựng lên.
Vì sao họ phát
sinh những suy tư như vậy?
Vì họ nhận ra
các Đấng quyền năng mà họ tín thành thờ cúng, nguyện cầu chưa từng hiện hữu nơi
thế giới loài người. Qua việc tìm hiểu cùng sự khách quan đánh giá họ, những
người có niềm thao thức tâm linh thật sự biết rằng dường như không có một ai
từng tiếp xúc được với những Đấng quyền năng. Những việc cúng tế, những điều
cầu nguyện của tự thân đã không được các Đấng quyền năng vô hình thỏa mãn dù
rằng họ đã rất tín thành. Một câu hỏi âm thầm được đặt ra trong tâm thức “Phải
chăng các Đấng quyền năng không tồn tại, các Đấng quyền năng không có thật hoặc
chí ít các Đấng quyền năng không thể chi phối đời sống con người?”.
Do nhận thức, tư
duy như vậy những vị học nhân dừng lặng quán chiếu lại sự hiểu biết của chính
mình và tri thức loài người. Về sau, câu hỏi nơi tâm thức ít nhiều được khai
mở, có thể là không có Đấng quyền năng nào cả hoặc là có thể có các Đấng quyền
năng vô hình nhưng họ không đủ sức chi phối đến cuộc sống con người. Nguồn tư
tưởng mới lại được chia sẻ cho những người cùng chí hướng, đó là gốc tích của
những tôn giáo có khuynh hướng vô thần đã dần thành hình nơi xã hội loài người
từ xa xưa. Tuy nhiên, kiếp người ngắn ngủi, thêm vào đó là sự giới hạn tri thức
những vị hành giả ban đầu không thể thông suốt được thế giới tâm linh nơi xã
hội loài người họ đã chết đi và kịp kế thừa cho người ở lại về những hiểu biết
tâm linh của mình, đồng thời họ đã chứa giữ những thông tin tâm linh mới mẻ đó
vào tiềm thức của chính họ khi họ chết. Thông tin tâm linh mới được di truyền về
sau nhờ vào việc truyền thừa cho người ở lại và cả “Người trở lại” - thần thức
người chết tìm được một thân xác vật chất ở nẻo người.
…
Khi Thái tử Tất
đạt đa ra đời thì quanh lưu vực sông Hằng có biết bao hệ thống tôn giáo phát
triển, chi phối đời sống tâm linh con người.
Thái tử Tất đạt
đa xuất thân ở tầng lớp Sát đế lợi quyền quý nên hội đủ điều kiện tiếp xúc các
buổi cúng tế Thần linh, những buổi Thánh tẩy,… với rất nhiều nghi thức rối rắm,
phức tạp, tốn kém của giới Bà la môn - Thành phần Tăng lữ xưa. Và theo truyền
thống Thái tử Tất đạt đa phải học hỏi giáo lý kinh điển Vệ Đà và Áo Nghĩa Thư
của Bà la môn giáo. Chịu sự ảnh hưởng chung của hệ tư tưởng truyền thống đương
thời Thái tử Tất đạt đa biết rằng con người nơi hiện kiếp chỉ là một giai đoạn sống
ngắn ngủi, con người rồi sẽ chết đi.
Tiếp cận giáo lý
kinh điển Bà la môn Thái tử Tất đạt đa được biết khi chết đi con người - Tiểu
ngã (Atman) sẽ trở về hợp thể với Đại ngã (Braham), đây mới chính là đời sống
dài lâu, bền vững, không cùng.
Việc tham cứu
kinh Vệ Đà, Áo Nghĩa Thư đã khiến Thái tử Tất đạt đa, người có trái tim nhạy
cảm thường nhận thức, tư duy về những điều được truyền dạy và những câu hỏi có
thiên hướng tâm linh dần nảy sinh “Làm cách nào để trở về hợp thể với Braham
sau khi chết? Tại sao điều thiết thực cứu cánh này không được giáo lý kinh điển
Bà la môn chỉ rõ? Phải chăng giới Tăng lữ Bà la môn đã che giấu tri thức tâm
linh về cách thức hợp thể Braham nơi kinh điển hay họ thật không rõ biết về lối
giải thoát khỏi luân hồi? Nếu chết mà không được hợp thể với Braham thì linh
hồn người chết sẽ về đâu? Và hiện kiếp này của Ta với thân xác con người ngắn
ngủi, tạm bợ thì việc tranh giành quyền lực, làm vua một đất nước với rất nhiều
những lo toan, suy tính cùng phiền não,… Ta nỗ lực tranh giành cái giá trị giả
tạm như thế để làm gì?”...
Thái tử Tất đạt
đa đã chiêm nghiệm việc hơn thua, giành giật sự giả tạm ở kiếp người ngắn ngủi
một cách sâu sắc. Phải chăng những sự tranh giành được mất thường chỉ mang lại
cho con người nhiều khổ não, phiền muộn? Mẹ ta đã chết ngay sau khi sinh ra ta,
mẹ ta có về hợp thể với Braham không? Cái chết thật đáng sợ, nó gây ra cho con
người sự đau thương, mất mát, khổ não. Làm cách nào để vượt qua cái chết trở về
hợp thể vĩnh viễn với Braham?
Sự mơ mộng, bay
bổng về giấc mơ hợp thể vào Đại ngã (Braham) đã ghi đậm trong ký ức thời niên
thiếu của Thái tử Tất đạt đa. Song với xuất thân Sát đế lợi Thái tử Tất đạt đa
được đào luyện để trở thành một vị vua của vương triều Thích Ca. Với sự thông
tuệ Thái tử Tất đạt đa sớm nhận ra bản chất của giới lãnh đạo đất nước, đó cũng
chỉ là sự tranh giành quyền lực nghiệt ngã, đớn hèn và khi mở rộng lòng ra trực
nhận cuộc sống Thái tử dần nhận ra sự khổ não hiện diện khắp mọi nơi, mọi thành
phần, tầng lớp xã hội con người. Ở tầm nhận thức, tư duy khách quan Thái tử
nhận ra con người đang ràng buộc, tranh đấu trong mọi điều khổ não - sinh khổ,
bệnh khổ, già khổ, chết khổ…
Thái tử Tất đạt
đa ý thức được rằng rồi Ta cũng sẽ trôi lăn trong muôn điều khổ não, mệt nhoài.
Thái tử Tất đạt đa đã tự xét lại chính mình và nhận ra “Ta không muốn đắm chìm
trong khổ não, ta phải vượt ra ngoài mọi khổ não”. Thế là Thái tử lưu tâm trao
dồi tri thức có ở mọi giáo lý của tất cả tôn giáo quanh lưu vực sông Hằng, Thái
tử tìm gặp, học hỏi tri thức tâm linh ở các nhà minh triết, những giáo chủ tôn
giáo danh tiếng; Việc làm nhằm thông suốt việc thoát khổ, giác ngộ và hợp thể
Braham. Kết quả của cuộc tìm kiếm nhằm tháo gỡ bế tắc tâm thức ở Thái tử Tất
đạt đa là có sự giải thoát hoàn toàn dựa trên lời khẳng định bằng niềm tin của
những nhà hiền giả minh triết. Chỉ thế thôi. Còn cách thức để đạt được việc
giải thoát hoàn toàn thì chỉ là những câu từ gượng ép - Sự trở về hợp thể cùng
Braham. Tuy vậy, Thái tử Tất đạt đa đã nhận thức được rằng “Muốn thoát ra mọi
khổ não thì nhất thiết phải dừng việc sinh tử, phải hợp thể vĩnh viễn cùng
Braham”.
Hợp thể cùng
Braham? Bằng cách nào? Thái tử Tất đạt đa lần tìm câu trả lời trong sự vô vọng
cùng bế tắc.
Theo dòng thời
gian Thái tử Tất đạt đa lập gia đình với công nương Da du đà la và Thái tử Tất
đạt đa buộc phải tham gia nhiều hơn về công việc quản lý vương triều Thích Ca.
Trái tim nhạy cảm khiến Thái tử Tất đạt đa càng thêm phiền muộn, Thái tử chán
chường cho sự giả tạm kiếp người và trước những tranh giành danh lợi, thái độ
sống thường thấy của loài người vương giả, nơi ấy đã phơi bày dấu tích về mọi
điều dối trá, điêu ngoa ở đại diện loài người thuộc thành phần lãnh đạo đất
nước, tầng lớp được mặc nhiên thừa nhận là chủng người tôn quý bậc nhất nhân
loại.
Rồi thì công
nương Da du đà la thọ thai, niềm vui được làm cha của Thái tử cũng nặng oằn nỗi
ám ảnh, cái chết của người mẹ - hoàng hậu Ma da.
Những bế tắc tâm
thức khiến Thái tử Tất đạt đa ngột ngạt, khốn cùng. Thái tử Tất đạt đa biết
rằng mình phải lên đường để giải tỏa sự bế tắc tâm thức của chính mình.
Ngay khi biết
công nương Da du đà la hạ sinh La hầu la “mẹ tròn, con vuông” thì Thái tử Tất
đạt đa đã an lòng và âm thầm chuẩn bị một chuyến đào thoát khỏi cái ngục tù -
Kiếp người. Thái tử Tất đạt đa ý thức được việc phải tìm ra cứu cánh giải thoát
hoàn toàn.
Khi đã xác quyết
Thái tử Tất đạt đa bỏ lại chiếc ngai vàng cùng dòng dõi Sát đế lợi, Thái tử
dũng mãnh dấn thân đi tìm sự giải thoát hoàn toàn. Lại tìm đến những vị giáo
chủ danh tiếng ngoài vương quốc Thích Ca để tham học, Thái tử Tất đạt đa dấn
thân trải nghiệm làm một hành nhân, rồi hành giả với những tầng thiền định sâu.
Sau cùng, Thái tử Tất đạt đa nhận ra các vị thầy, các vị Giáo chủ danh tiếng ở
các dòng Bà la môn khác nhau cũng chỉ đến thế, họ còn đó những nghi lễ, những
buổi nguyện cầu Đấng quyền năng với niềm mong mỏi sự hợp thể song các Đấng
quyền năng Tối cao - Braham vẫn bặt dấu.
Thái tử Tất đạt
đa không thỏa mãn về những điều đã đạt được ở các tầng thiền định do vậy Tất
đạt đa tìm đến sự hành trì của lối tu khổ hạnh thuộc Kỳ Na giáo, một tôn giáo
không trói con người lệ thuộc vào Thần linh. Trải qua lối tu khổ hạnh quyết
liệt đến mức suýt phải đánh đổi bằng mạng sống Thái tử Tất đạt đa nhận ra mình
đã rơi vào sự cực đoan quá mức, Thái tử Tất đạt đa dần thức tỉnh và trở về
trung đạo. Việc thiền định sâu dần phát huy tác dụng những câu hỏi không có lời
đáp từng bước được hé mở. Sau cùng, Thái tử Tất đạt đa nhận ra cần phải quán
chiếu lại những điều đã biết, đã chứng ngộ. Kết quả của sự tư duy đúng mực ở
Thái tử Tất đạt đa đã mở ra một phương pháp thiền quán khách quan, đúng mực,
sáng rõ. Đây chính là chiếc chìa khóa mở ra sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
Ngay nơi rỗng
lặng của nội tâm Thái tử quán chiếu vạn pháp một cách cùng tận từ chiếc lá,
dòng nước, làn gió, đám mây, con cá, bụi cỏ, con người,… Tất cả chỉ là một và
một cũng là tất cả. Chiếc lá kia không thể tự có, chiếc lá hiện hữu do đủ duyên
cùng các yếu tố Tứ đại - đất nước gió lửa mà thành hình, giọt sương mai buổi
sớm cũng là đất nước gió lửa, Thân xác ta và con cá, con voi, vợ ta, mẹ ta, con
ta,… cũng từ nơi đất nước gió lửa mà tượng hình, nào đâu có điều khác biệt.
Ta có thể tìm
thấy ta trong thân xác của cha ta hoặc nơi đàn bò đang gặm cỏ bên dòng Ni liên
thiền, Ta có thể tìm thấy Ta trên đám mây trắng nhẹ bay… Mọi vật chất hữu hình
đều là đất nước gió lửa, sum la vạn tượng cũng chỉ là đất nước gió lửa.
Vì Ta là Ta, Ta
trói Ta trong kiếp người ngắn ngủi nên Ta có sinh, có diệt, có khổ não, vui
buồn. Vậy tại sao Ta lại mãi trói Ta trong nhận thức Ta nhất thiết phải là Ta
mà không mở lòng ra với nhận thức Ta là cả sơn hà đại địa? Điều gì đã dẫn Ta
đến sự nhận thức sai khác đó? Phải chăng chính nhận thức Ta chỉ là cái Ta bé
nhỏ đã cản trở việc Ta trở về hợp thể vào Đại ngã (Braham).
Sum la vạn tượng,
đất nước gió lửa nương nơi hư không mà thành hình nên vạn pháp không ưu tư,
phiền não. Hư không - Không đại vô tâm còn Ta vì có tâm ý mà chướng ngại với
bao khổ não, muộn phiền nơi sinh tử - tử sinh. Cái Ta - bản ngã trong Ta chính
là do tâm ý của Ta mà tựu thành, những phút giây thiền định tâm ý Ta dừng lặng,
nơi đó Ta không có khái niệm về sự hiện hữu hay không hiện hữu, sinh diệt hay
không sinh diệt; Khi ấy, việc sinh tử - khổ não, giải thoát hay không giải
thoát thật sự chẳng bức hại tâm thức của Ta. Hóa ra tâm ý của Ta, ở mọi loài
đều nương nơi bản tâm rỗng lặng mà tạo thành, khi Ta thiền định Ta đã hòa Tiểu
ngã (Atman) của Ta vào Đại ngã (Braham). Khi chết đi Ta trả thân xác về Tứ đại
- Đất nước gió lửa và nếu Ta chấp nhận buông bỏ hòa bản tâm vào Không đại thì
Ta sẽ được giải thoát hoàn toàn. Khi ấy, Ta đã là vạn pháp, là bất sinh bất
diệt, không tăng không giảm, không dơ không sạch, không có cũng không không.
Khi giải thoát hoàn toàn Ta trở về nơi bắt đầu, nơi Ta chưa từng sinh ra. Ta đã
đạt sự giải thoát hoàn toàn khi chứng ngộ tự tánh vạn pháp bằng công phu thiền
quán, bằng vào sự giác ngộ hoàn toàn, quả thật không có gì là Ta cả; Ta đã phá
ngã rốt ráo và sẽ không còn trôi lăn nơi bể khổ luân hồi huyễn mộng.
Thế còn những
người hành trì tìm về sự giải thoát hoàn toàn mà không chứng ngộ pháp vô sanh
họ sẽ đi về đâu khi già bệnh chết? Những tâm ý của con người khi không biết đến
lối thoát khỏi việc sinh tử luân hồi họ sẽ tồn tại ở trạng thái nào? Tâm ý của
loại chúng sinh này sẽ tan rã hoàn toàn hay còn mãi?
Thái tử Tất đạt
đa dấn thân vào thiền quán để nhận chân các cõi giới vô hình, những chúng sinh
không thân mà Thái tử từng chạm đến trong quá trình hành đạo, tầm đạo. Đó là
dấu tích của tâm ý sự sống còn nắm giữ cái tôi, họ không thực sự chết, họ chỉ
chuyển từ hình thức hữu hình sang vô hình, rồi tùy tâm ý mà họ dựng lập nên các
nẻo giới vô hình khác nhau và sau đó họ lại tìm cho tự thân một xác thân vật
chất hữu hình tương ưng, việc này tùy thuộc vào tâm ý yêu ghét dính mắc, tham
đắm ràng buộc của chính họ cùng với một yếu tố duyên. Đây cũng chính là mối nối
lưu giữ dòng tâm thức, tâm ý sự sống của loài người và loài vật. Con người,
muôn loài thật không dễ dàng “Chết là hết”. Thật không dễ đạt đến sự giác ngộ
giải thoát hoàn toàn, bản ngã nơi mỗi tâm ý sự sống đã được chấp giữ rất lâu xa
và chúng sinh 3 cõi thật không đủ dũng mãnh cùng sự hiểu biết nhằm sẵn sàng từ
bỏ cái bản ngã đã khiến họ trôi lăn mãi nơi dòng sinh tử tương tục cùng vô vàn
những khổ não do vô minh mà thành tựu.
Quán chiếu lại sự
hình thành, sinh ra và lớn lên của mỗi loài cùng mọi loài Thái tử Tất đạt đa
nhận biết “Con người thật không dễ có được thân người từ đất nước gió lửa và
tâm ý sự sống, đó là một quá trình tích lũy lâu xa từ những chủng loài thấp
sanh, hóa sanh, noãn sanh rồi tiến hóa đến thai sanh. Trí tuệ nơi mỗi loài
không tự nhiên mà có, đó là cả một quá trình tích lũy lâu dài trải qua vô số hà
sa kiếp sống, trải qua thiên hình vạn trạng xác thân; mỗi tâm ý chủng loài luôn
chứa đựng điều dính mắc, sự ràng buộc. Và trong vòng tương tục đó vì vô minh,
dính mắc cùng ràng buộc mà con người và mọi loài có sự luân chuyển lên xuống,
ngược xuôi, qua lại với những mối nhân duyên chằng chịt, vay trả - trả vay.
…
Cứ thế công
trình thiền quán vĩ đại, khách quan và đúng mực đã giúp Thái tử Tất đạt đa từ
một con người bình thường bị ràng buộc trong khổ não, tử sinh thoát thai trở
thành một Giác giả chứng ngộ vạn pháp, liễu thoát hoàn toàn sinh tử.
Sau khi chứng
ngộ giải thoát hoàn toàn Thái tử Tất đạt đa đã vì chúng sinh nơi 3 cõi 6 đường
dấn thân rộng truyền chánh pháp, cứu cánh giải thoát hoàn toàn cho loài người
và muôn loại chúng sinh.
Những câu hỏi về
nguồn gốc sự sống - Ta đến từ đâu? Chết là hết hay còn? Chết Ta sẽ về đâu?… đã
được vị Giác giả Thích Ca trả lời rốt ráo từ hơn 2500 năm trước.
…
Song vì chỗ tự
phụ tri thức hơn người và lối tư duy hướng ngoại mà đại diện cho tri thức nhân
loại ngày nay vẫn chưa tường tận nguồn gốc của con người, sự sống và vì vô minh
mà xã hội loài người đang bức hại lẫn nhau với chiến tranh, tham đắm, hận thù.
Phàm việc gì thành tựu cũng có nhân duyên của
nó. Cụ thể như việc Chúa Jesu hay Hồi Giáo ra đời đều do bối cảnh xã hội đương
thời thúc đẩy buộc xã hội loài người phải sinh xuất ra những con người như thế,
cụ thể là Jesu Christ và nhà tiên tri Mohamed.
Tương tự như
vậy, Phật Thích Ca ra đời ở Ấn Độ cũng do yêu cầu bức thiết của xã hội nhằm xóa
bỏ những bất công nhân sinh – tệ nạn phân chia giai cấp ở các nước quanh lưu
vực sông Hằng lúc bấy giờ rất cực đoan, hà khắc đến nghiệt ngã. Đồng thời giáo
lý mà Phật Thích Ca tuyên thuyết mở ra lối thoát tâm linh cho muôn sinh đang
chìm đắm trong khổ não cùng luân hồi sinh tử vay trả vô minh.
Khác biệt rõ nét
nhất ở phương cách truyền pháp của Phật Thích Ca và Chúa Jesu, nhà tiên tri
Mohamed truyền thừa đó là yếu tố trí tuệ thù thắng, vượt trội.
Cụ thể là nội
dung Tam Tạng giáo điển do Phật Thích Ca trao truyền hàm chứa trí tuệ bát nhã
sáng rõ, khách quan và có tính tự chủ.
Trong khi đó
kinh Thánh ở cả hai hệ thống tôn giáo lớn nhất hiện nay là Công Giáo, Hồi Giáo
dù rằng sinh sau, đẻ muộn so với kinh Phật những hơn 500 năm đến 1000 năm song
trí tuệ về thế giới tâm linh cũng như nhân sinh quan ở những bộ giáo lý lại có
sự tụt hậu trí tuệ cùng với tính lệ thuộc, yếu đuối chấp nhận số phận, chỉ giữ
lại sự tín tâm đến cuồng tín, si mê.
Tại sao tri thức
tâm linh ở hệ thống kinh Thánh Công Giáo, Hồi Giáo có sự tụt hậu so với kinh
điển Phật giáo, Kỳ na giáo, Ấn Độ Giáo?
Mời các bạn tham
khảo bài viết Tôn Giáo Đã Ra Đời Thế Nào Và Sự Suy Đồi Ở Các Hệ Thống Tôn Giáo
Đông Tây
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét