Giải Mã Đạo Phật - Chân Kinh, Ngụy Kinh Những Điều Cần Biết
Thứ Tư, 10 tháng 4, 2019
Chân kinh - Ngụy kinh, những điều cần biết!
Để trình bày vấn
đề chân kinh - ngụy kinh Ngạo Thuyết sẽ kể cho mọi người nghe về những buổi
trao đổi Phật học giữa Ngạo Thuyết và một vài người bạn, thông tin trao đổi là những
cuộc chia sẻ của nhiều người song Ngạo Thuyết sẽ trình bày cuộc đối thoại giữa Ngạo
Thuyết và 3 người bạn - Tin Tin, N.C, VQ ở một diễn đàn Phật học.
Sơ khởi Tin Tin
vấn hỏi về việc Phật Thích Ca có từng niệm Phật không?
Tin Tin đặt vấn
đề:
- Xin chào các vị
quý hữu thiện tri thức!
- Đã lâu Tin Tin
mới có dịp ghé lại diễn đàn. Tin Tin nhận thấy diễn đàn này cùng quý thiện tri
thức ở mọi nơi chia sẻ pháp môn niệm Phật rất nhiệt huyết. Tin Tin chợt thấy
mình trở nên hồ đồ về pháp môn tu học đang thọ trì. Hiện nay, Thiền - Tịnh -
Mật, mỗi mỗi đều ra sức thể hiện sự thù thắng vượt trội. Thời mạt pháp theo
giáo lý kinh điển thì pháp môn niệm Phật là pháp môn còn lại sau cùng của đạo
Phật. Tin Tin không rõ theo pháp môn niệm Phật sẽ thành tựu phước báu hay công đức?
- Thêm nữa, Tin
Tin cũng muốn biết Thái tử Tất đạt đa trước khi thành Phật có từng niệm Phật
tam muội hay không?
Ngạo Thuyết đáp:
- Về việc học
Phật sẽ thành tựu phước báu hay công đức?
Không chỉ riêng
pháp môn niệm Phật mà là với mọi pháp môn tu học (nói chung) thì việc tựu thành
công đức hay phước báu là tùy tâm của người thọ trì. Bạn nên rõ câu “Vạn pháp
duy tâm, Tam giới duy thức” do vậy nên tâm người tu học gieo nhân gì thì sẽ
nhận quả tương ưng. Nếu là người học Phật đúng mực thì họ sẽ không dính mắc vào
quả phước báo hay công đức mà là việc thoát khổ hiện đời và việc liễu thoát
sinh tử luân hồi.
- Còn về Phật
Thích Ca có từng niệm Phật không thì Ngạo Thuyết có thể xác quyết với bạn rằng
Thái tử Tất đạt đa đã từng niệm Phật mà thành Phật.
Tin Tin nói:
- Thái tử Tất
đạt đa nhờ niệm Phật mà thành Phật. Thật vi diệu! Vậy Thái tử Tất đạt đa niệm
“Nam mô A di đà Phật” đến nhất tâm mà thành Phật? Pháp môn niệm Phật thật thù
thắng đến thế sao? Nhưng dựa vào đâu mà quý hữu lại khẳng định Phật Thích Ca
từng niệm Phật mà thành Phật?
Ngạo Thuyết đáp:
- Tin Tin này! Ngạo
Thuyết khẳng định Thái tử Tất đạt đa từng niệm Phật mà thành Phật chứ không có
nói Thái tử Tất đạt đa niệm Nam mô A di đà Phật mà thành Phật. Sao Tin Tin lại
“cưỡng từ, đoạt lý”, trói cột Ngạo Thuyết vào những điều Ngạo Thuyết chưa từng
nói?
Tin Tin vấn hỏi:
- Nếu Thái tử
Tất đạt đa không niệm Phật A di đà thì theo lời bạn Thái tử sẽ niệm Phật nào?
Có phải là niệm hồng danh 7 vị cổ Phật không?
Ngạo Thuyết đáp:
- Khi Phật chưa
thành đạo thì trong nhân loại làm gì có cái gọi là đạo Phật. Đã không có cái
gọi là đạo Phật thì làm gì có 7 vị Cổ Phật cũng như các vị Phật A di đà, Phật
Tỳ lô xá na, Đại Nhật Như Lai, Nhiên Đăng Phật, hay Đương lai hạ sanh Di Lặc
Phật,... Sao Tin Tin lại lấy nặng làm nhẹ, lấy giả làm chân mà mê lầm trong
rừng tà kiến của ngoại đạo, tín tâm ngụy kinh?
Nếu tín tâm Tam
Tạng giáo điển thì người học Phật đã rõ tương lai ở cõi Ta Bà sẽ có Phật Di Lặc
với thiên bá ức hóa thân nhập thế. Nếu rõ biết Phật Di Lặc với vô vàn hóa thân
sẽ ra đời ngõ hầu thắp sáng ngọn đuốc chánh pháp ở phạm vi nhân loại thì sao
người học Phật ngày nay lại sa vào tà kiến, vọng cầu Tây Phương cực lạc, những
mong đầu quân dưới trướng Phật A Di Đà? Lẽ nào nguyện lực của Phật Thích Ca hay
những vị Phật tương lai (nếu có) ở cõi Ta Bà đều hẹp kém hơn so với Phật A di
đà ở cõi giới Tây Phương huyễn hóa, xa xăm?
Tin Tin tham cứu
kinh Phật đã bao lâu mà mắt huệ chẳng mở, chỉ trơ đôi mắt thịt có công dụng đọc
tụng kinh sách như là việc nhai gạo nhằm sống qua ngày?
Tin Tin hãy nhớ
cho rằng kinh Phật được ví như là ngón tay chỉ mặt trăng chứ kinh Phật nào phải
là mặt trăng. Kinh Phật như là gạo trắng do vậy nếu bạn là người thiểu năng, vô
trí thì Ngạo Thuyết chẳng cần nói nhiều với bạn làm gì. Nhược bằng Tin Tin là
người có chút trí tuệ, có chút hiểu biết thì khắc rõ gạo kia muốn ăn được -
kinh Phật muốn chuyển hóa, thâm nhập, lĩnh hội được thì phải qua công đoạn nấu
chín, giai đoạn này cần đến chút nhận thức, tư duy của người học Phật. Nay Tin
Tin chỉ biết cuồng tâm tín thọ thì công hạnh đó có khác gì tín đồ ngoại đạo
Công giáo, Hồi giáo, Bà la môn giáo,...
Nếu bạn còn kham
nhẫn lắng nghe thì hãy móc con mắt trần tục bỏ đi và dẹp đi cái tri kiến mê lầm
đã dẫn bạn trôi lăn trong sinh tử vô định bấy lâu hà sa số kiếp.
Hãy lắng lòng
nghe! Ngạo Thuyết sẽ vì Tin Tin cùng chư vị đồng đạo mà trình bày.
Trước khi Phật
Thích Ca thành đạo thì 62 kiến chấp ngoại đạo trói chặt chúng sinh vào trong
luân hồi 3 cõi 6 đường. Thái tử Tất đạt đa vì muốn thoát khỏi khổ não, việc
luân hồi mà nương cậy vào giáo lý của ngoại đạo. Đã nương tựa tất sẽ phải tín
tâm do vậy Thái tử Tất đạt đa sẽ trì chú, tọa thiền theo pháp tu ngoại đạo.
Điều này là sự thật hiển nhiên, không thể khác được, là như thị vậy.
Việc trì chú
ngoại đạo, tọa thiền ngoại đạo miên mật chẳng mang lại sự Thường an lạc tịnh
cho Thái tử Tất đạt đa vì khi xuất định khổ não tâm thức vẫn còn đó, Thái tử
Tất đạt đa không có chiếc chìa khóa để mở lối cho sự giác ngộ giải thoát hoàn
toàn. Thái tử Tất đạt đa ngoài việc thọ trì tọa thiền, trì chú của ngoại đạo
thì tâm thức luôn giữ chặt niệm niệm Phật đệ nhất chân nghĩa đế.
Niệm Phật đệ
nhất chân nghĩa đế là gì? Muốn rõ điều đó bạn hãy xét lại chỗ hiểu biết của bạn
"Phật là gì?".
Phật chẳng phải là
người giác ngộ giải thoát hoàn toàn thì là gì? Ngoài nghĩa đó ra thì những
nghĩa khác diễn giải về Phật đều là tà kiến, là lời hư vọng cả.
Thế nên niệm
Phật đệ nhất chân nghĩa đế chính là niệm giác ngộ giải thoát hoàn toàn mà Thái
tử Tất đạt đa bảo nhậm trong suốt quá trình tầm đạo của mình. Đó là Thái tử Tất
đạt đa niệm Phật tam muội mà thành Phật, ngoài nghĩa đó không thể khác vậy.
Nếu không niệm
Phật tam muội được như thế mà niệm hồng danh Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật
vị lai - A di đà Phật, Dược Sư Phật, Di Lặc Phật... thì đều là tà niệm, chẳng
phải chánh niệm của Như Lai tạng.
Tà niệm là đường
tà, lối hẹp, ngã rẽ chứ không là đường lớn chánh pháp. Tin Tin hãy khéo hay
phân biệt mà rõ việc niệm Phật chẳng chánh là trợ duyên của Đạo Phật, đó chỉ là
pháp cột muôn niệm trở về nhất tâm. Sau khi đạt sự nhất tâm người học Phật lại
phải phá chỗ nhất tâm ấy trở về vô niệm. Song ngay nơi vô niệm này phải ưng vô
sở trụ nhi sinh kỳ tâm. Pháp môn niệm Phật A di đà rõ thật là đường vòng, chẳng
phải là đường thẳng, đường chánh của Phật đạo. Tin Tin, nếu là người trí hãy tự
suy xét chớ lầm tin Ngạo Thuyết.
…
Người học Phật
chớ xem thường trí tuệ bản thân mà dựa dẫm bạn đạo vô minh, kinh sách bất liễu
nghĩa. Hãy tự đốt đuốc mà đi, lời của Ngạo Thuyết quả thật rất hư vọng. Vậy nên
bạn cũng chớ dính mắc mà lập nên tri kiến lập tri.
Tin Tin lại hỏi:
- Về các cõi
Phật, Tin Tin được nghe “Người nói có, người nói không”, điều này khiến Tin Tin
không biết nên hiểu thế nào cho phải.
- Thêm nữa, người
học Phật ngày nay theo pháp môn niệm Phật A di đà rất nhiều, pháp môn niệm Phật
được chư Tổ, sư thầy xiểng dương thì đâu thể không bằng, không chứng mà phủ
nhận. Chư Phật mười phương đều được nói đến trong kinh sách sao quý hữu bảo là
ngụy kinh, tà kiến? Bởi do Tin Tin không rõ nên muốn hỏi cho rõ hoàn toàn không
có ý tranh luận.
Ngạo Thuyết đáp:
Thưa cùng Tin
Tin! Nếu Tin Tin muốn theo về số đông thì nên chọn Hồi giáo hay Công giáo hoặc
Ấn giáo chứ không nhất thiết phải theo pháp môn niệm Phật A di đà.
Chư Tổ nào xiểng
dương pháp môn niệm Phật A di đà, Tin Tin chớ có nói càn. Kinh Phật nào nói nên
về pháp môn niệm Phật A di đà là pháp môn thù thắng thời mạt pháp Tin Tin biện
ra cho đại chúng rõ biết. Cây có cội, nước có nguồn. Nếu thật là kinh Phật thì
phải có bản gốc ở đất Phật, Tin Tin chớ lấy ngụy kinh, ngụy thư có gốc tích
Trung Hoa, Tây Tạng… len lõi trong chánh kinh mà làm chánh kinh, điều này sẽ
khiến việc học Phật của Tin Tin ngưng trệ, là việc làm “Tổn mình, hại người”.
Tin Tin nên rõ
biết dân tộc tính của người Trung Hoa, Tây Tạng, Việt Nam, và cả Ấn Độ, … (nói
riêng) hay của mọi quốc gia (nói chung) là lòng tự tôn dân tộc. Dân tộc Trung
Hoa, Tây Tạng, Việt Nam,… đều có đủ khả năng làm hàng giả, hàng nhái chất lượng
nào cũng có. Kinh Phật cũng không ngoại lệ, một câu thoại "Như thị ngã văn
hay lục chủng chứng tín ai ngụy tạo mà chẳng được".
Chư Phật mười
phương? Phật đến một phương cũng chẳng lập há có đến Phật mười phương.
“Phật tức tâm,
tâm tức Phật”. Phật lại thuyết "Tâm quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất
khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc". Vậy Ngạo Thuyết hỏi bạn "Phật có
quá khứ, có hiện tại, có vị lai không?".
Tam giới hư
huyễn há có Phật để thành, há có Phật mười phương để bạn vọng cầu tham đắm. Vì
có chúng sinh vô minh nên Giác giả mới gượng nói có Phật - Người giác ngộ vạn
pháp, chứng đạt pháp vô sanh, người đã vượt thoát khỏi luân hồi sinh tử. Vì có
chúng sinh vô minh nên mới nói có Phật, nếu chúng sinh đã sáng rõ chánh pháp
thì đâu cần giữ lấy ngôn từ Phật giả lập để tự cột trói tri kiến nhân loại.
Tin Tin này! Lời
nào thật, lời nào giả, kinh nào chánh, kinh nào ngụy tạo xem ra bạn phải tự mở
mắt huệ mà nhận biết. Câu hỏi Phật có từng niệm Phật của Tin Tin, Ngạo Thuyết
đã nói nhiều lời nên chăng khép lại chủ đề này?
Cuộc thảo
luận về chủ đề “Phật Thích Ca có từng niệm Phật không?” tưởng chừng khép lại
thì có một vị học Phật khác là N.C tiếp tục trao đổi.
N.C vấn hỏi:
- Tu học muốn
thành tựu thì chúng ta phải có trí huệ Bát nhã, nếu chỉ niệm câu danh hiệu A di
đà Phật mà không thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhịn, tinh tấn, thiền định,
trí tuệ thì vẫn không được thành tựu. Chúng ta có gieo hạt giống trí tuệ Ba la
mật thì trước khi xả bỏ báo thân này mới được về cõi Cực Lạc và ngược lại. Nên
việc chuyên tâm niệm Phật phải đi đôi với hành lời Phật dạy thì mọi việc mới
viên mãn
…
- Thời gian gần
đây N.C tự nhiên thấy có nhiều ý kiến bác bỏ chuyện niệm Phật A di đà của người
tu pháp môn Tịnh độ. Trường hợp này Ngạo Thuyết có kiến giải gì không?
Ngạo Thuyết giải
nghi:
Điều này nếu có
trách thì N.C hãy trách người truyền pháp và cả người học Phật ở pháp môn Tịnh
độ. Ngạo Thuyết không quơ đũa cả nắm mà chỉ nói đến những vị không dùng trí tuệ
khách quan, đúng mực, sáng rõ để mà quán chiếu thực tướng pháp môn tu học của
chính mình.
Theo như cách
nói của N.C "Tu học muốn thành tựu thì chúng ta phải có trí huệ Bát nhã,
nếu chỉ niệm câu danh hiệu A di đà mà không thực hành bố thí, trì giới, nhẫn
nhịn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ thì vẫn không được thành tựu. Chúng ta có
gieo hạt giống trí tuệ Ba la mật thì trước khi xả bỏ báo thân này mới được về
cõi Cực Lạc và ngược lại. Nên việc chuyên tâm niệm Phật phải đi đôi với hành
lời Phật dạy thì mọi việc mới viên mãn".
Các thầy bên
Tịnh độ liệu có được mấy người thuyết pháp cho người học Phật ở pháp môn niệm
Phật rốt ráo được như lời N.C nói. Điều này Ngạo Thuyết có cưỡng từ đoạt lý nói
hay không thì N.C cứ tùy duyên tham vấn những người học Phật ở pháp môn niệm
Phật bất kỳ ắt sẽ rõ.
Theo chỗ Ngạo
Thuyết được biết thì không chỉ những người già, tri thức kém tu học theo pháp
môn niệm Phật có sự không rõ ràng về những điều mà N.C lập luận ở bên trên mà
ngay đến cả những người học Phật trẻ tuổi, trí thức cao cũng mụ mẫm về pháp môn
tu niệm Phật A di đà.
Họ cứ trói vào
đời mạt pháp chỉ còn pháp môn niệm Phật A di đà thù thắng phù hợp mọi căn tánh
chúng sinh là thường trụ. Đời mạt pháp kinh sách sẽ không còn, nếu còn giấy thì
cũng sẽ không có chữ viết; Đạo Phật chỉ còn lại pháp môn niệm Phật A di đà giúp
người học Phật vãng sinh cực lạc.
…
Hỏi: Ai nói vậy?
Đáp: Sư thầy,
Tổ, Phật nói vậy. Kinh sách viết vậy.
Hỏi: Kinh nào
viết vậy?
Đáp: Kinh Vô
lượng thọ, kinh Quán vô lượng thọ, kinh Bát nhã, kinh A di đà,…
Ngạo Thuyết phản
vấn:
Sư thầy có chứng
ngộ sẽ không nói vậy. Nếu là chân Tổ sẽ không nói vậy vì người đạt đạo sẽ rất
khéo dùng Tam pháp ấn - Không, Vô tướng, Vô tác. Họ thuyết xong hoặc viết ra
giấy trắng mực đen thì liền đó dùng pháp "bôi bảng" ngay.
Phật Thích Ca
từng nói "Người nào dùng sắc, dùng âm thanh cầu Ta. Người ấy hành đạo Tà,
ắt chẳng thấy Như Lai"; "49 năm Ta không từng nói một lời
nào"... Vậy sao lại nói rằng Phật thuyết như thế? Phật không dùng pháp để
trói người chỉ do nơi người vô minh mà sự thành ra hư vọng.
Dựa vào Tam pháp
ấn sẽ sáng rõ đâu là chánh kinh, đâu là ngụy thư, đâu là ngụy thư trong chánh
kinh. Ví như bộ kinh Hoa Nghiêm là ngụy kinh bởi do bộ kinh này vốn không do
Phật Thích Ca thuyết và đây là trò vẽ vời của vị Tổ giả danh bồ tát mang tên
Long Thọ, yếu tố Không - Vô tướng - Vô tác không có ở bộ kinh này. Vậy nên có
thể nói bộ kinh này là ngụy kinh. Kinh Vu Lan, kinh Địa Tạng, kinh A di đà,
kinh Thiên địa bát dương… là những bộ kinh có dấu vết Trung Quốc rõ nét.
Cũng lại như
vậy. Kinh A di đà không hẳn là chánh kinh mà Phật Thích Ca tuyên thuyết. Người
học Phật về sau đã lấy một ý trong điển tích cổ, thời Phật Thích Ca còn tại
thế, điển tích liên quan đến việc vua A Xà Thế soán ngôi và bức tử vua cha là
Tần Bà Sa La để lập nên cõi Phật A di đà làm đối trọng với cõi Tiên của đạo Lão
đang thịnh hành ở Trung Hoa lúc bấy giờ. Đương nhiên là việc lập ra ngụy kinh A
di đà không phải do một người chứng ngộ hoàn toàn bày ra. Người chứng ngộ hoàn
toàn rõ biết không có cõi để Phật hay người giác ngộ về thọ dụng. Do vậy nếu
dùng làm pháp dụ thì nói xong sẽ bôi bảng.
Chánh pháp đúng
mực, thù thắng của Phật Thích Ca tuyên thuyết dựa trên nền tảng - Pháp hay
chẳng trói buộc người.
Ngạo Thuyết cũng
dựa trên nguyên tắc đó mà chia sẻ chỗ hiểu biết chứ không phải nhằm mục đích
trói người.
…
Hỏi: Vãng sanh
cực lạc là sao? Tâm là gì?
Đáp: Vãng sanh
cực lạc là sinh về cõi Tây Phương, cõi Phật A di đà để tiếp tục tu tập thành
Phật. Tâm ở trên đầu. Nay là thời mạt pháp hãy niệm Phật A di đà nguyện cầu
vãng sanh cực lạc kẻo không còn kịp.
…
Ngạo Thuyết
luận:
- Người tu pháp
môn Tịnh độ cứ nhất định thuyết nay là thời mạt pháp để trói người vào pháp môn
niệm hồng danh Phật A di đà xa rời việc tham cứu kinh sách khác là tự đoạn trí
tuệ bản thân. Nhốt thân vào pháp môn niệm Phật làm giáo lý chánh pháp có nơi
Tam Tạng kinh bị hạn chế trong tâm thức người học Phật khiến đạo Phật rơi vào
thời mạt pháp là thật, do giáo lý chánh pháp bị bó hẹp chỉ còn một pháp môn
niệm Phật nên thành mạt pháp.
Người truyền
pháp, người xem kinh mà không rõ ý kinh lấy ngụy làm chân làm mai một kho tàng
chánh pháp nhãn tạng Như Lai, phạm lỗi này phải chăng là hủy báng chánh pháp,
làm thân Phật chảy máu ở yếu tố chia Tông, rẽ Giáo tranh đoạt tín đồ?
Chỉ riêng niệm
Phật thì khó thể giúp thế hệ người học Phật già nua, lớn tuổi vãng sanh cực
lạc. Vậy mà người tu pháp môn niệm Phật cứ xác quyết như thế thì khác nào việc
dối gạt người. Những lỗi lầm này do đâu mà có?
Không chỉ vậy
thế hệ trẻ học Phật theo pháp môn niệm Phật cũng u mê chẳng thông tỏ chánh pháp
chỉ vọng cầu về Tây Phương, một lực lượng hoằng pháp cho đạo Phật ngày sau thảy
đều như thế thì mai này đạo Phật sẽ về đâu?
Lỗi này nếu
không phải do người truyền pháp ở pháp môn Tịnh độ không tận lực, tận trí thông
đạt chánh pháp thì đổ lỗi cho người học Phật pháp môn niệm Phật có được chăng?
Nếu bắt lỗi người học Phật sơ cơ như vậy e rằng có điều gượng ép.
Nhưng nếu chỉ đổ
lỗi cho người truyền pháp là chưa đúng mực. Ngày nay, người học Phật tìm đến
pháp môn niệm Phật mau chóng từ bỏ trí tuệ bản thân cũng như việc tư duy học
Phật, vội tin vào những điều siêu hình, huyễn hóa lấy cảnh giả làm chân, dựa
vào kinh sách bất liễu nghĩa đã tự thị hiểu biết hơn người, ra sức bảo vệ những
điều hư ảo mà tự thân không hề rõ biết.
N.C nói niệm
Phật để mai hậu xả bỏ báo thân này về cõi Cực Lạc là lời nói chứa đựng sự lỗi
lầm.
Bỏ đây về kia,
chết ở Ta Bà tái sinh ở Tây Phương cực lạc thì là còn trong sinh tử biết đến
bao giờ mới vãng sanh?
Người học Phật
mà còn mong có nơi chốn, có cõi Phật cao quý để về thì còn trong nhân ngã, bản
ngã vẹn nguyên thì khổ não, tham đắm hiện tiền. Người học Phật còn dính mắc vạn
pháp hư huyễn thì đâu thể giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
Từ Báo thân, cõi
Cực Lạc mà N.C dùng là nằm trong tư kiến cá nhân, nó thuộc về pháp thế gian nên
sẽ vẫn hoài sinh tử.
Nhân đây Ngạo
Thuyết gượng nói ngắn gọn về 3 thân của Phật:
- Pháp thân Phật
là vạn pháp, là sơn hà đại địa, hư không, là sum la vạn tượng gồm cả mọi loài
chúng sinh.
- Báo thân Phật,
trước chính là Phật Thích Ca, nay báo thân Phật là N.C, là Ngạo Thuyết, là mọi
loài chúng sinh nơi Tam giới. Gọi là báo thân là vì mọi chúng sinh thọ nhận
nghiệp báo mà ra đời, do mọi chúng sinh dù là ngoại đạo hay nội đạo đều có Phật
tánh nên giả lập gọi là báo thân Phật.
Báo thân Phật
cũng là báo thân chúng sinh. Nếu ngộ được chánh pháp báo thân phá ngã trở về
Pháp thân gượng nói là giải thoát hoàn toàn chứ không phải là xả báo thân ở Ta
Bà để về Cõi Cực Lạc hưởng nhàn trên bảo tòa hoa sen cửu phẩm.
Cõi Tiên, cõi
Phật mười phương đều là sản phẩm vọng tưởng của Phật giáo Trung Hoa, Tây Tạng,
Việt Nam… và do người chưa triệt ngộ vẽ vời.
- Hóa thân Phật
cũng là chúng sinh 3 cõi. Gọi là hóa thân vì do từ vọng tưởng mà hóa hiện ra.
Một dạng hóa thân Phật khác được người học Phật biết đến là những vị Phật, bồ
tát mà Phật Thích Ca từng thuyết ra. Họ không hề có thật, họ được những vị Giác
giả hóa hiện ra thông qua kinh sách nhằm chứa đựng thông điệp Từ Bi, Hỷ Xả cùng
Giác ngộ.
…
Trên đây là
những điều Ngạo Thuyết rõ biết, cái biết đúng thật với thực tướng vạn pháp mà Ngạo
Thuyết nhận chân. Chánh kiến của Phật Thích Ca là sáng rõ, minh bạch. Nhưng mỗi
người cũng có chánh kiến riêng thế nên Ngạo Thuyết không có ý trói buộc mọi
người tin nhận, N.C hãy cứ xem những điều Ngạo Thuyết trình bày như là tài liệu
tham khảo, nếu nhận ra những điều Ngạo Thuyết trình bày là ngụy tạo thì N.C sẽ
biết sự chân thật ở đâu, tín tâm của N.C và mọi người nếu có sự đúng mực, thông
suốt thì không dễ mất.
...
Chính vì có sự tỏ
ngộ ít nhiều hoặc bằng vào sự khách quan nhìn nhận cho nên vài vị Tăng bảo hoặc
người học Phật ở các hệ phái đạo Phật khác nhau đã mở lời cảnh tỉnh việc Tam
Tạng kinh có hàng thật, hàng giả, hàng nhái.
Sở dĩ họ phải
lên tiếng là vì người học Phật Việt Nam hiện rơi vào việc tu phước, chẳng tu
huệ, xa rời chánh pháp Như Lai. Và pháp môn Tịnh độ là nền tảng cho sự lạc lối
chánh pháp nên người hiểu đạo đã lên tiếng cảnh tỉnh người học Phật về sự lầm lạc,
sa đà nơi đường tà, lối rẽ.
…
Ngạo Thuyết đã
từng lận đận trong khổ não may nhờ tìm đến đạo Phật mà trí tuệ mở mang, hữu
duyên thâm nhập được kho tàng vi diệu Như Lai tạng.
Với việc đạo
Phật rơi vào thời mạt pháp, điều này không ảnh hưởng gì đến Ngạo Thuyết. Ngạo
Thuyết cũng không có tư tâm hay hiềm khích với người học Phật theo pháp môn
niệm Phật hay đạo Phật, chỉ vì thấy thân Phật chảy máu nên lấy làm đau xót. Do
vậy Ngạo Thuyết mới vụng bày cái biết của mình.
Có thể vì N.C
cũng như nhiều vị khác tựa nơi pháp môn niệm Phật nên cứ cứng nhắc rằng Ngạo
Thuyết là người bài bác, đả phá pháp môn niệm Phật.
Vậy mọi người
nghĩ sao khi Ngạo Thuyết từng nói giữ giới không thành Phật, tọa thiền không
thành Phật, trì chú không thành Phật… chỉ có niệm Phật mới thành Phật?
Nếu N.C là người
học Phật theo pháp môn thiền tông, mật tông thì sao? Tổng hợp lại tất cả thì sẽ
ra Ngạo Thuyết đả phá cả Thiền - Tịnh - Mật. Sau rốt là Ngạo Thuyết đang phá
hoại đạo Phật.
Cứ nhìn chùa to,
Phật lớn, các sư thầy giàu sụ, đạo pháp suy đồi thì N.C sẽ khắc biết vì sao có
trào lưu chỉ ra những sai quấy có nơi những người học Phật theo pháp môn niệm
Phật cũng như của đạo Phật?
Người ta thường
nói "Một con sâu làm rầu nồi canh". Vậy N.C tự xét xem con sâu nơi
đạo Phật hiện tại là nhiều hay ít.
Trước sự sa ngã
của số đông người truyền pháp chính danh thì N.C thấy đã có Bậc Long Tượng nào
nơi đạo Phật đủ sức ra mặt gánh vác việc Như Lai hay không?
Đạo Phật vì lạc
lối chánh đạo nên gượng nói là mạt pháp.
Vấn đề thảo
luận về kinh A di đà là ngụy kinh hay chân kinh vẫn chưa dừng lại đó.
V.Q, một người
học Phật đã kể lại một câu chuyện liên quan đến một cuộc tranh luận lâu xa từng
xảy ra ở diễn đàn Phật học này, vấn đề tranh luận cũng xoay quanh sự chân ngụy
của bộ kinh A di đà, cuộc tranh luận gay gắt đến mức các bên quyết định nhờ nhờ
vả đến bên thứ ba - Viện nghiên cứu Phật học (VNC PH) trả lời dứt điểm vấn đề
về sự chân ngụy của bộ kinh A di đà. Kết quả của việc tham vấn cũng không thỏa
mãn, không giải quyết rốt ráo được vấn đề, cách trả lời của người đại diện VNC
PH đã để lại ấn tượng không đẹp ở người tham vấn về vai trò của VNC PH.
Sớm biết hồi kết
của câu chuyện kể của V.Q, Ngạo Thuyết đã luận:
Ngay khi V.Q bắt
đầu kể lại câu chuyện cũ thì Ngạo Thuyết đã biết câu trả lời của VNC PH sẽ chẳng
có chút ý vị gì.
Với Ngạo Thuyết,
việc tranh luận về sự chân ngụy của kinh điển Phật giáo là rất nên và rất cần.
Vì sao?
Vì sự tranh biện
đó sẽ minh chứng được người học Phật có tư duy tu, có dùng trí tuệ để học Phật
chứ không phải việc học hỏi giáo lý chánh pháp một cách suôn đuột, rỗng tuếch
như đường lối tu học của ngoại đạo - ở yếu tố cuồng tín, cả tin.
Song việc tranh
biện giữa các bên liên quan lại mang đi tham vấn VNC PH thì rõ là việc làm đi
vào bế tắc, nghẽn lối; Câu trả lời của VNC PH dẫu thế nào cũng đều là sự hư
vọng, hoang đường.
Vì sao?
Giả sử nếu VNC
PH nói rằng kinh A di đà đúng do Phật Thích Ca thuyết thì sao? Lấy gì làm bằng?
Chẳng phải cũng chỉ dựa vào niềm tin để khẳng định sao? VNC PH quá non trẻ so
với thời Phật tại thế hơn 2000 năm ròng. Câu hỏi này có khác gì hỏi người Việt
Nam biết mặt mẹ Âu Cơ, cha Lạc Long Quân không?
Và có được câu
trả lời xác minh không đúng mực của VNC PH thì đã sao? Phải chăng là người tin
vẫn cứ tin mà người không vẫn cứ không?
Thêm nữa, Viện
nghiên cứu Phật học - VNC PH cũng chỉ là những người khó tính tham gia giữ kho
tàng Tam Tạng kinh, đa phần cũng chỉ là người học Phật hưởng nhàn, việc ngồi
mát ăn bát vàng đã quen, chuyện khổ não chúng sanh, chuyện mê ngộ của người học
Phật, đó là việc của người nào phải là điều trăn trở của những người đang làm
công tác hưởng lương ở VNC PH.
Và quả thật vậy
người đại diện cho VNC PH đã rào đón việc trả lời thẳng về vấn đề mà người đến
tham vấn, đồng thời nhất mực không trả lời bằng văn bản nhằm né tránh trách
nhiệm, ngăn ngừa những điều phiền toái về sau. Sau rốt, người đại diện VNC PH đã
“răn đe” người học Phật nên “Dĩ hòa vi quý”, ai theo pháp môn nào thì giữ lề
pháp môn đó, đừng dấy khởi tranh luận mà rối việc.
Quay lại vấn đề
ngụy kinh, chân kinh. Câu trả lời sẽ nằm ở đâu? Câu trả lời nằm ở trong tâm mỗi
người, khi nghi tình phát khởi, khi người học Phật đến với đạo Phật bằng sự tư
duy học Phật khách quan và đúng mực. Khi đã phát khởi nghi tình thì câu trả lời
chân kinh - ngụy kinh sẽ là sự mặc khế.
…
Mọi người nhìn
xem đạo Phật đang huy hoàng, rực rỡ hay đang đắm chìm ở thời mạt pháp theo đúng
nghĩa y kinh?
Ngạo Thuyết thấy
sự huy hoàng, rực rỡ bóng bẩy, xa hoa của thuở tôn giáo trước ngày Phật Thích
Ca thành đạo. Và theo quy luật thành trụ dị diệt thì đạo Phật sẽ lịm tắt giá
trị chánh pháp thật có. Con mắt thế gian - Chánh pháp nhãn tạng Như Lai rồi sẽ
diệt mất như thế ư? Sẽ phải đến thế thôi nếu người người đến với đạo Phật bằng
lối tư duy, học Phật như hiện tại.
Ngạo Thuyết nặng
nhớ nghĩ tâm bi mẫn của các vị Giác Giả nên thiết nghĩ đến việc chuyển đổi quy
luật thành trụ dị diệt hiện tồn ở đạo Phật bằng quy luật sinh trưởng dị dưỡng
do vậy lập chí một phen “Đi trong phi đạo hành Phật đạo”. Nếu việc tựu thành
thì đạo Phật đâu đến nỗi rơi vào thời mạt pháp, đạo Phật sẽ tiến vào thời chánh
pháp ở phạm vi nhân loại.
…
Xét lại mà xem.
Khi Thiền tông Trung Hoa phát triển huy hoàng thì cũng là lúc Thiền tông rơi
vào pháp nạn. Người học Phật không chứng ngộ, rơi vào đại ngã hám danh, tham
lợi thể hiện qua việc dối lừa đại chúng mạo nhận chứng ngộ. Người học Phật tu
hành trên lý cả thảy rơi vào hý luận, lạm bàn hư vọng mà chẳng mang chút lợi
ích nào cho đời.
Giới chính trị
phong kiến lúc bấy giờ dần nhận ra sự giả dối, trá ngụy ở thành phần Tăng bảo
lẫn người học Phật vô minh (nói chung). Việc duy trì những chuỗi hệ thống tôn
giáo thường gây ra sự tiêu tốn một lượng lớn của cải, vật chất xã hội và cả
việc gia tăng gay gắt sự phân tầng giàu nghèo, sang hèn... Thế nên, khi giới
chính trị phong kiến Trung Hoa nhận định hệ thống tôn giáo là gánh nặng của xã
hội liền tùy thời “đập cho nát tan” cái nhóm lợi ích "theo đóm ăn
tàn". Cú trở mặt bất ngờ của giới chính trị phong kiến Trung Quốc trong
khi đạo Phật không có Giác giả, hành giả chứng ngộ trụ thế đã khiến Phật giáo
Trung Hoa suy vong nghiêm trọng, tình trạng tựa như Phật giáo bị tận diệt ở Ấn
Độ, nguyên nhân chỉ có một - Không có Giác giả hộ pháp.
Tuy nhiên, thế
giới tâm linh là thật có nên giới chính trị phong kiến Trung Quốc không thể tận
diệt hoàn toàn đạo Phật. Thế là theo dòng lịch sử đất nước Trung Hoa, đạo Phật
lại có dịp phát triển. Giáo lý kinh Phật đã bị giới chính trị hủy hoại hoặc
tịch thu nên trước mắt người truyền pháp ở đạo Phật chọn pháp môn dễ nhất để
hoằng pháp do vậy pháp môn niệm Phật được lên ngôi và được trao chuốt lại một
cách tỉ mỉ, cẩn thận.
Người truyền đạo
nhớ lại thảm họa diệt môn từng xảy ra cho Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa… thế là
giáo lý của đạo Phật được bổ sung phần ngụy thư - “Đời mạt pháp kinh Phật sẽ
không còn, giấy nếu còn thì cũng không có chữ. Đạo Phật chỉ còn Nam mô A di đà.
Về sau, người truyền đạo qua nhiều lần “Tam sao thất bản” nâng kinh A di đà lên
tầm cao mới - Thời mạt pháp, đạo Phật chỉ còn 4 chữ A di đà Phật”.
Sau này, khi
pháp môn niệm Phật được phổ truyền rộng khắp ở đất nước Trung Hoa mà không thỏa
mãn được tâm thức của người học Phật cầu sự giác ngộ giải thoát. Những người
học Phật Trung Hoa mong mỏi sự giải thoát hoàn toàn cũng như việc cầu trí tuệ
bát nhã đã lần sang Ấn Độ, Tây Tạng,… và kho lưu trữ quốc gia tìm lại kinh sách
trong lớp bụi mù. Lúc bấy giờ, xã hội Trung Hoa lâm vào cảnh hỗn độn lòng người
nên giới chính trị lại lợi dụng công cụ tôn giáo cũng như hệ thống tín ngưỡng
thần quyền để dễ bề cai trị đất nước. Thế là đạo Phật được an toàn.
Thực tế là đạo
Phật tồn tại ở Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Quốc, Việt Nam… đều đã trải qua biết bao
cuộc hưng thịnh, suy vong “ba chìm, bảy nổi” với lắm nỗi nhọc nhằn, khốn cùng,
lênh đênh.
…
Cuối thời phong
kiến, giới chính trị - thành phần cầm quyền đất nước Trung Hoa trở nên hủ bại,
suy đồi đến bẩn thỉu mạt hạng… Do vậy chính giới lãnh đạo Trung Quốc thời tàn
phong kiến đã đặt đất nước Trung Hoa vào tình cảnh trở thành chiếc bánh ngọt và
tạo điều kiện thuận lợi cho các nước Tư bản chủ nghĩa lẫn đế quốc phát xít xâu
xé, chia phần.
Số đông người
Trung Quốc lúc bấy giờ cũng giam hãm tinh thần, tư duy vào lối sống thực dụng
vì thế người Trung Hoa thành ra một chủng người hạ liệt, khí tiết dân tộc Trung
Hoa hàng ngàn đời bị tiêu ma; Đây là vết dơ lịch sử dân tộc thường thấy ở loài
người khi con người đắm chìm trong lối sống thực dụng, nhỏ nhen và ích kỷ.
Về sau, các nước
đế quốc bóc lột thuộc địa quá mức nên nỗi người Trung Hoa liều chết phản kháng,
thế là đất nước Trung Hoa trải qua một thời kỳ đẫm máu dân tộc cùng máu của
giặc ngoại xâm.
Có một vài tổ
chức phản kháng núp bóng ở chuỗi hệ thống tôn giáo, ẩn náu ở các tông phái đạo
Phật kham nhẫn trường kỳ kháng chiến nhất định thành công. Chủ nghĩa xã hội ra
đời ở Trung Quốc là có sự đóng góp công sức rất lớn về tài vật lẫn tinh thần vô
úy của hệ thống tôn giáo, nhất là đạo Phật. Điều đáng tiếc đã xảy ra, giới lãnh
đạo Trung Quốc phạm phải sai lầm nghiêm trọng thể hiện qua việc áp dụng cơ chế
kinh tế bao cấp nhằm duy trì sự tồn tại xã hội, xây dựng đất nước. Với cơ chế
bao cấp, hàng hóa phục vụ nhu cầu sống của con người được xã hội sản xuất nhỏ
giọt, thế nên sản phẩm vật chất tiêu dùng nội địa đâu đủ sức cung ứng cho mọi
thành phần, tầng lớp xã hội Trung Hoa, lúc bấy giờ hệ thống tôn giáo trở nên là
một cái gánh nặng kinh tế khổng lồ, đè nặng lên sự tồn vong của đất nước Trung
Quốc.
Bên cạnh đó,
giới chính trị Trung Quốc cũng ngán ngại các tổ chức đối lập núp bóng nơi các
hệ thống tôn giáo. Mao Trạch Đông (đại diện lãnh đạo tối cao một thời ở đất
nước Trung Hoa) giẫm theo dấu chân của Stalin (đại diện lãnh đạo tối cao một
thời của Liên bang Xô Viết) lấy cớ Đảng cộng sản là người vô thần, lấy chủ
nghĩa duy vật biện chứng làm nền tảng cùng với âm kế chối bỏ trách nhiệm,
chuyện ân nghĩa vay trả với hệ thống tôn giáo thời cùng chung vai, sát cánh đấu
tranh chống đế quốc chủ nghĩa. Mao Trạch Đông ra sức tận diệt công thần, là
chuỗi hệ thống tôn giáo từng nuôi dưỡng mầm sống của cách mạng cứu quốc. Đây là
nước cờ thâm trầm, bí hiểm khó dò thường thấy ở giới lãnh đạo Trung Quốc. Lần
này, thật không may Phật giáo Trung Hoa đã bất ngờ rơi vào pháp nạn, nhất thời
trở thành quân cờ thừa trên bàn cờ chính trị của giới lãnh đạo Trung Quốc.
Đạo Phật Việt
Nam hiện nay cũng có chỗ tương đồng. Pháp môn niệm Phật đang thắng thế nhưng
không mang lại trí bát nhã cho người học Phật, cứu cánh niết bàn vì thế không
hé mở. Thế là Thiền tông các loại được hoằng dương nhưng đáng tiếc là Chân Long
Sư không hiện, phần nhiều chỉ là sa môn nghĩa học, hành giả không triệt ngộ
dịch kinh, giảng pháp. Lại là sự không thỏa mãn cho người học Phật, Mật tông vì
thế len lõi thoát thai, thiền vipassana được dịp thâm nhập vào Việt Nam.
Đứng ở vị trí
tổng thể nhìn vào bức tranh Phật giáo người khách quan sẽ nhận thấy các pháp
môn, những hệ phái đạo Phật hiện đang có sự pha trộn lẫn nhau nhưng thật không
có sự dung thông, hòa tan đúng mực. Liệu pháp dĩ hòa vi quý đẩy Phật giáo vào
đường hẹp - anh sống, tôi sống thành ra chẳng ai chín cả. Mỗi mỗi pháp môn gặp
nhau đều cười xuề xòa để che giấu tư tâm - Anh hùng bản sắc.
Người học Phật
mà bản ngã xung thiên thì đến bao giờ mới triệt ngộ. Đạo Phật vì thế mà lâm vào
hiểm cảnh - rồng thời vắng rắn thời quá nhiều. Do vậy đạo Phật đã lột xác với
chùa to, Phật lớn; Đạo Phật quả thật đang trở thành gánh nặng xã hội và là mầm
mống của sự lụi tàn vì giá trị chánh pháp gần như bị mục rỗng ở những chùa
chiềng, tự viện vương giả xa hoa. Nếu giới Tăng sĩ không tỉnh ngộ hồi đầu thì e
rằng đạo Phật ngày nay sẽ chóng rơi vào pháp nạn, mạt vận. Cần lắm một Chân sư.
…
Minh sát, minh
triết, tỉnh thức, tiểu thừa, đại thừa, nguyên thủy, A di đà cứu cánh... tất chỉ
là ngoài da của đạo Phật. Chẳng phải là chỗ tinh túy, diệu dụng của đạo Phật.
Lẽ chân ngụy
chẳng thông hãy còn xa cửa đạo. Nghi tình nên phát động, điều này chẳng trái
với chánh pháp. Xưa kia, nếu Thái tử Tất đạt đa không phát nghi tình sẽ không
có Bậc Toàn giác Thích Ca ra đời.
Việc học Phật
thành Phật của con người giống như việc đón xe buýt. Có khi vừa đến đã có ngay
xe đón; Có khi phải chờ đợi; Có khi đứng chờ đợi xe mà do phút lơ đểnh xe buýt
dừng nhưng lại chẳng bước lên, đến khi xe chạy rồi mới bàng hoàng nuối tiếc, có
khi cũng lại mông lung chẳng biết xe biết đang dừng chờ đã lâu, thế rồi đành
đợi chuyến xe sau. Xe buýt không phụ người chỉ do người không tự bảo nhậm.
Thế là phải ngồi
đợi có khi vài giờ, vài ngày, vài năm, vài ngàn năm, vài vạn kiếp. Rồi cũng sẽ
về đến bến thôi có chăng chỉ là luống uổng thêm hà sa kiếp luân hồi với khổ não
hư vọng.
Có nên khi đợi
xe buýt mà niệm Phật không?
Nên lắm vì nó
nhắc ta nhớ rằng ta cần thành Phật. Ngay nơi đây ta thành Phật chứ không phải ở
một cõi nào đó xa xăm. Ta chờ xe buýt là để thành Phật.
Nhân loại đang
sa vào thời hoại kiếp. Việc này Như Lai không quản được, Như Lai chỉ có thể làm
chậm lại vòng quay luân hồi cộng nghiệp vài sát na, nhưng Như Lai hoàn toàn
không thể dừng lại bánh xe luân hồi cộng nghiệp. Như Lai chỉ bảo người tự độ,
Như Lai không thể can thiệp vào nhân quả của mỗi người huống hồ là cộng nghiệp
của nhân loại.
Phật pháp nhằm
vào việc cứu khổ và giải thoát sinh tử. Đạo Phật từ xưa đến nay chỉ là nơi lưu
giữ, trao truyền giáo lý Tam Tạng kinh. Ngày nay, nơi đạo Phật không có khổ,
người học Phật bồi công lập đức chút ít, lắm kẻ tự phụ, kiêu mạn hơn người cũng
không thấy khổ. Vậy nên đặt Tam Tạng kinh ở chùa chiềng, tự viện xa hoa nhang
khói mịt mù là đã đặt nhằm chỗ giáo lý chánh pháp.
Ngoài xã hội có
bao người đau khổ, khốn cùng trong cuộc mưu sinh với những bon chen, giành giật
nghiệt ngã có lẽ họ sẽ cần đến giáo lý chánh pháp để cân bằng nội tâm và xác
định lại mục đích sống của chính mình. Song hẳn là họ cần đến chánh pháp liễu
nghĩa chứ không phải thứ bánh vẽ hão huyền. Vậy nên người có đạo tâm muốn báo
đền ơn Phật thì hãy trả kinh Phật về nơi cần đến chánh pháp. Muốn làm được điều
đó thì người học Phật phải tư duy đúng mực về vạn pháp. Là Phổ, là trao truyền
chánh pháp vào nhân loại - xã hội loài người, là Di Lặc thiên bá ức hóa thân.
Ai là Di Lặc
thiên bá ức hóa thân?
Di Lặc thiên bá
ức hóa thân nên hiển nhiên không thể là một người. Do vậy, Di Lặc chính là mọi
người, là những người có sự hiểu biết đúng mực, sáng rõ về chánh pháp ẩn tàng
trong pho Tam Tạng giáo điển.
…
Tóm lại, chân
kinh - ngụy kinh chỉ có thể nhận diện bằng sự hiểu biết khách quan, sáng rõ và
tựa trên góc nhìn tổng thể, toàn diện. Việc phân rõ lẽ chân ngụy không nhằm vào
việc tranh luận hơn thua, đúng sai hay dở mà là nhằm vào việc sáng rõ chánh
pháp nhãn tạng Như Lai, cứu cánh niết bàn vô sở đắc.
Nếu muốn thành
tựu vô sanh pháp nhẫn thì người học Phật tránh rơi vào biên kiến cực đoan hay
buông lung thái quá đồng thời cũng giữ mình không lọt vào lưới nhị nguyên.
Thiền minh sát
của nguyên thủy Phật giáo, Tỉnh thức của Phật giáo đại thừa, niệm Phật A di đà
nhất tâm bất loạn hay… tất cả chỉ là những pháp môn đơn lẻ, những pháp môn học
Phật dính mắc sự tự đắc vượt trội đều rơi vào biên kiến khó mong chứng ngộ A la
hán, càng khó tựu thành Giác giả.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét