Giải Mã Đạo Phật - Phương Đông Hủy Diệt Đạo Phật
Thứ Hai, 8 tháng 4, 2019
Hôm nay Ngạo Thuyết tiếp tục trình
bày việc Giải Mã Đạo Phật với nội dung Phương Đông Hủy Diệt Đạo Phật. Ở nội
dung Phương Đông Hủy Diệt Đạo Phật, Ngạo Thuyết sẽ trình bày trước 3 phần chính
gồm Làm Thân Phật Chảy Máu – Phá Hòa Hợp Tăng, Luận tội các vị Tổ khai Tông ở các Tông giáo có gốc tích từ
đạo Phật, Tri kiến mê lầm ở các hệ phái đạo Phật xưa nay.
Tuy
nhiên, trước khi tiếp tục trình bày việc Giải Mã Đạo Phật Ngạo Thuyết sẽ nói rõ
nhân duyên của việc Ngạo Thuyết giải mã đạo Phật.
Tiêu
điểm Giải Mã Đạo Phật Ngạo Thuyết đã định hình hoàn chỉnh cách nay đã hơn 3 năm
và ở nội dung bản giải mã đạo Phật gốc Ngạo Thuyết đã từng dùng thủ pháp giơ
cao đánh khẽ. Tuy nhiên, dù đánh khẽ nhưng không vì thế mà người trúng đòn
không thấm. Thực tế là ở bản gốc Giải mã đạo Phật Ngạo Thuyết vẫn đao hạ lưu
nhân, để ngỏ cho giới Tăng Bảo rộng đường hoằng dương chánh pháp.
Song
với những hiện tượng Thiền Tông Tân Diệu, chùa Ba Vàng, Thanh Hải Vô Thượng
Sư,… đã phơi bày ra sự yếu kém toàn diện của giới Tăng Bảo trong việc hộ trì
Tam Bảo. Sự yếu kém của giới Tăng Bảo cả về tri kiến Phật học, sở hành và sự
dũng mãnh hộ trì chánh pháp mà Phật Thích Ca bi mẫn trao truyền. Tăng Bảo ở cả
hai hệ phái Nam Truyền – Bắc Truyền cùng những cành nhánh Thiền – Tịnh – Mật,
mỗi mỗi đều nặng oằn với những chấp thủ sở tri vụn vặt, nhỏ mọn.
Chùa
chiềng, tự viện thì không ngừng được người học Phật bắt tay cùng ngoại đạo ra
sức điểm tô một cách xa hoa, lộng lẫy, hoành tráng. Song giá trị chánh pháp có
nơi đạo Phật lại trở nên nhạt nhòa, tối tăm; Tà pháp ngoại đạo xâm thực, chiếm
lĩnh cả giảng đường Phật học và được nhồi nhét vào tri thức, tàng thức của
những người học Phật đang chênh vênh, lạc lối giữa hai nẻo đạo đời, giữa hai
lằn ranh sinh và tử.
Mắt
thấy đạo Phật bị bức tử ngay giữa chốn hoa lệ - Chùa to, Phật lớn; Ngoại đạo sẽ
lấy danh nghĩa hoằng dương đạo Phật mà biến đạo Phật thành nơi chốn truyền bá
các loại hình mê tín dị đoan nhằm thu đoạt danh lợi, giới Tăng Bảo giả trá sẽ
cải hóa đạo Phật thành tà đạo bàng môn,... Ngạo Thuyết rõ biết rằng những điều
đó sẽ khiến giá trị chánh pháp nơi đạo Phật bị mai một, nhạt nhòa trong lòng
người học Phật. Con đường giác ngộ giải thoát hoàn toàn giúp chúng sinh chi
loại thoát ra khỏi lưới mộng luân hồi có nguy cơ bị hủy hoại bởi những người
học Phật vô minh cùng ngoại đạo. Chính vì những duyên do đó Ngạo Thuyết sẽ mang
đạo Phật ra khỏi những ngôi chùa vương giả và đặt đạo Phật vào nơi trái tim của
mỗi con người theo đúng nghĩa Phật tại tâm.
…
Theo
một nguồn tin đáng tin cậy, Ngạo Thuyết được biết rồi đây… Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam đã ra quy định hàng năm mỗi ngôi chùa chiềng, tự viện thuộc Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam sẽ phải đóng góp (hay nói cách khác là cống nạp) một khoản
tiền không hề nhỏ để đạt được yếu cầu gọi là cấp phép đủ điều kiện hoạt động.
Nếu chế định này chính thức được thông qua và thực thi thì giới Tăng Bảo ở các
chùa chiềng, các tự viện chân chính e rằng cũng phải trở nên trí xảo trong việc
tích lũy, gom góp tiền của ở đàn na, tín thí nhằm thỏa điều kiện, yêu cầu cống
nạp của triều đình. Hiển nhiên là chế định này sẽ gây bức xúc, công phẫn ở giới
Tăng Bảo khắp nơi, song việc ăn cây nào, rào cây ấy cũng như việc đã từ lâu bất
tranh, bất bạo động đến trở nên thấp cổ, bé họng thì giới Tăng Bảo sẽ phải nhẫn
nhục.
Ngoài
ra, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đang dần hiện thực hóa chế định truất quyền
thừa kế vai trò trụ trì ở các chùa chiềng, tự viện. Việc sư trụ trì tiền nhiệm
chọn lựa môn đồ Tăng Bảo đắc ý tiếp quản vị trí trụ trì sẽ không còn thuận
tiện, dễ dàng như thuở trước; Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam sẽ nhúng tay vào việc
bổ nhiệm vai trò trụ trì ở các chùa chiềng, tự viện trực thuộc GHPGVN. Hẳn đây
là công pháp tương tợ như việc thu non sông về một mối hay… À mà thôi.
Trong kinh Tăng Chi Bộ, Phật Thích Ca từng
cảnh tỉnh muôn sinh về 10 điều chớ vội tin:
1. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết.
2. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.
3. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến
hay tuyên truyền.
4. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong sách
vở hay kinh điển.
5. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó lý luận siêu hình.
6. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường
của mình.
7. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của
mình.
8. Chớ vội tin điều gì, khi điều đó được căn cứ trên những dữ
kiện hời hợt.
9. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy
ủng hộ.
10. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo
hay đạo sư của mình tuyên thuyết.
Và 10 điều chớ vội tin này bao hàm cả việc
chớ vội tin vì điều đó là kinh Phật, chớ vội tin vì được tuyên truyền rằng đó
là lời Phật nói và ngay cả việc chớ vội tin vì điều đó do chính Phật khẩu
truyền,…
Khởi tâm Nghi để sáng tỏ mọi vấn đề, tâm
nghi vốn không có tội. Vội vàng nhận định đúng sai mà không xét lại, tư duy lại
mới đích thực là tạo điều lầm lỗi, gây họa hại cho mình, cho người.
Giải Mã Đạo Phật -
Phương Đông Hủy Diệt Đạo Phật
Đập nát gương xưa tìm lấy bóng
Xếp lại tàn y lại để dành hơi.
Đó là điều mà người phương Đông đã làm với
đạo Phật. Giá trị chánh pháp vì thế mà bị hủy hoại ngay chính nơi đạo Phật được
khai sinh và cả ở những nơi mà đạo Phật đã từng giúp người học Phật chứng ngộ
pháp vô sanh, thấu triệt tự tánh vạn pháp.
Làm thân Phật chảy máu - Phá hòa hợp Tăng
Tương truyền trong giáo lý đạo Phật có 5
lỗi bị khép vào tội Ngũ nghịch, người học Phật phạm tội Ngũ nghịch sẽ bị đọa
đày ở địa ngục vô gián vĩnh viễn không biết đến việc siêu sinh. Tội Ngũ nghịch
gồm:
1. Giết mẹ.
2. Giết cha.
3. Giết A la
hán.
4. Làm thân
Phật chảy máu.
5. Phá hòa
hợp Tăng.
Thời Phật Thích Ca còn tại thế, Tăng đoàn
đã từng xảy ra ít nhất hai lần bị chia rẽ nghiêm trọng. Sự chia rẽ Tăng đoàn kỳ
thực chính là việc làm thân Phật chảy máu, là việc phá hòa hợp Tăng.
Lần phá hòa hợp Tăng thứ nhất là do Đề bà
đạt đa khởi xướng. Đề bà đạt đa là một người em chú bác của Phật Thích Ca, song
người anh em thân tộc này thường có sự ganh đua, đố kỵ với những thành tựu mà
Phật Thích Ca đạt được. Sau khi thành đạo Phật Thích Ca trở về cố hương - Vương
quốc Thích Ca, trong những buổi pháp thoại của Phật, Đề bà đạt đa cảm nhận được
sự mầu nhiệm, vi diệu của đạo lý giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Nỗi khao khát
giải tỏa tâm linh được nhen nhóm trong tâm thức Đề bà đạt đa do vậy Đề bà đạt
đa đã cùng một số vị hoàng thân, quốc thích đến quy y Phật. Vì Đề bà đạt đa là
một người thông minh, mẫn tiệp nên Đề bà đạt đa mau chóng nắm bắt diệu lý của
đạo giác ngộ giải thoát, Đề bà đạt đa sớm trở thành môn đồ ưu tú của Phật Thích
Ca.
Tuy nhiên, việc học Phật của Đề bà đạt đa
chưa được hoàn mãn, pháp Phật chưa thông nhưng nội tâm của Đề bà đạt đa sớm dấy
khởi tâm ngã mạn. Bởi do mầm móng đố kỵ Phật Thích Ca không được điều phục rốt
ráo nên Đề bà đạt đa bộc lộ tư tưởng muốn tranh giành vị trí dẫn dắt Tăng đoàn.
Vì rõ biết Đề bà đạt đa chưa thật triệt ngộ, chưa chứng đắc hoàn mãn pháp vô
sanh nên Phật Thích Ca đã khiển trách.
Đề bà đạt đa bị Phật khiển trách giữa đại
chúng, trong lòng sinh hận, bản ngã liền đó tăng trưởng lẫy lừng. Đề bà đạt đa
trù tính kế hoạch quyết ý gây chia rẽ Tăng đoàn, mục đích của việc gây chia rẽ
Tăng đoàn sẽ góp phần hiện thực hóa việc trở thành một vị Giáo chủ Tông giáo ở
Đề bà đạt đa. Với ngôn thuyết không kém phần sắc bén và được sự hậu thuẫn của
vua A Xà Thế, Đề bà đạt đa đã lôi kéo được một lượng không ít người học Phật
theo về. Tăng đoàn của đạo Phật do vậy mà có sự chia rẽ, viên ngọc sáng rỡ
chánh pháp vì thế có ít nhiều hoen ố, điều này chứng thực rằng người học Phật
muốn phá ngã trở về vô ngã, hoàn nguyên tự tánh đồng với vạn pháp là điều không
hề dễ dàng. Nếu không sáng rõ hoàn toàn chánh pháp thì người học Phật sẽ dễ
dàng bị Tham sân si mạn nghi nhấn chìm trở lại trong khổ não luân hồi - Vô minh
hoàn vô minh .
Đề bà đạt đa vướng mắc nơi đại ngã nên
chẳng thông pháp Phật. Về sau, ngài Xá lợi phất cùng ngài Mục Kiền Liên đã vì
sự toàn bích của chánh pháp mà ra sức hợp nhất lại Tăng đoàn. Được học hỏi
chánh pháp đúng mực từ ngài Xá lợi phất những người học Phật từng theo giáo
đoàn của Đề bà đạt đa đã tỉnh giác, nhận ra giá trị sáng rõ của chánh pháp, họ
lần trở về Tăng đoàn khất sĩ theo đúng bổn nguyện tự tánh Như Lai.
Đề bà đạt đa bởi do tâm hạ liệt, đố kỵ,
ganh tỵ - Tâm bệnh sinh ra thân bệnh, điều này đã khiến đời sống vật chất lẫn
tâm linh của Đề bà đạt đa trở nên rất cơ khổ, khốn cùng. Lúc bấy giờ, Đề bà đạt
đa mới tỉnh ngộ, trực nhận lý vô thường khổ không vô ngã. Do được hàm dưỡng
giáo lý giác ngộ giải thoát vi diệu Đề bà đạt đa đã “Hồi quang phản chiếu” mà
chứng ngộ vô sanh pháp nhẫn. Nhớ nghĩ đại ơn bất khả tư nghị của Phật Thích Ca,
khất sĩ Đề bà đạt đa đã chí thành sám hối, tạ tội trước Phật Thích Ca.
Lần chia rẽ Tăng đoàn thứ hai ở đạo Phật
phát khởi từ một xung đột nhỏ giữa hai Tăng bảo - một vị Luận sư và một Luật
sư. Bởi do chấp ngã ở các vị Tăng bảo rất lớn nên phạm vi chia rẽ ngày càng
lớn, việc lôi kéo người ủng hộ sự đúng sai ở hai vị Tăng bảo đã gây sự chia rẽ
Tăng đoàn trầm trọng. Dù Phật đã mở lời hóa giải song người học Phật trong lưới
vô minh với bản ngã lẫy lừng đã bỏ ngoài tai lời khuyên răn của vị Giác giả
Thích Ca. Những Tăng bảo vô minh đã yêu cầu Phật hãy đứng ngoài cuộc tranh
chấp, Giác giả Thích Ca biết rằng khi người học Phật còn chấp ngã và tràn đầy
Tham sân si mạn nghi thì cách hành xử chẳng khác gì người đời, thậm chí việc
làm lắm khi còn tác tệ hơn. Biết rằng nhất thời sẽ chẳng thể hóa giải được cuộc
tranh chấp Phật Thích Ca một mình, một bát rời khỏi Tăng đoàn với một thoáng ưu
tư.
Điểm chung của hai lần chia rẽ Tăng đoàn
thời Phật Thích Ca còn tại thế đều do bởi người học Phật còn trong lưới vô
minh, rơi vào đại ngã với đầy đủ Tham sân si mạn nghi. Đó cũng là nguyên nhân
chính yếu của việc làm thân Phật chảy máu - Sự phá hòa hợp Tăng từ xưa đến nay.
Cũng như lần gây chia rẽ Tăng đoàn thứ
nhất, uy tín của Tăng đoàn Phật học bị suy giảm nghiêm trọng, viên ngọc sáng
chánh pháp thêm một lần nữa hằn lên một vết hoen ố, phai màu. Phật Thích Ca rời
đi, người học Phật tại gia - những vị đại bồ tát lúc bấy giờ thấy cảnh “nồi da
xáo thịt” trong nội bộ Tăng đoàn, những cư sĩ tại gia - những vị đại bồ tát
nhận biết sự sai quấy là ở các vị Tăng bảo chứ không do đạo lý giác ngộ có điều
khiếm khuyết vì thế họ đã hạn chế việc cúng dường vật phẩm cho Tăng đoàn, chỉ
cúng dường cho những Tăng bảo sống đời phạm hạnh đúng mực, biết giữ gìn Thân
Khẩu Ý.
Thời gian và việc eo hẹp, thiếu thốn vật
thực khiến các vị Tăng bảo gây ra điều thị phi, làm chia rẽ Tăng đoàn thức tỉnh
dần nhận ra lỗi lầm đã tạo tác. Biết rằng đã sai nên những vị Tăng bảo gây ra
việc phá hòa hợp Tăng đã chí thành sám hối trước đại chúng và mong mỏi được
Phật Thích Ca, vị thầy giác ngộ đáng kính bỏ lỗi. Nhờ vào sự phản tỉnh hồi đầu
của các vị Tăng bảo có cách hành xử sai lạc, không đúng mực mà Tăng đoàn khất
sĩ có lại sự hòa hợp.
Về sau, Phật khép việc phá hòa hợp Tăng -
gây chia rẽ Tăng đoàn là một trong năm đại trọng tội của người học Phật. Do vậy
người học Phật đúng mực, người học Phật không còn trong lưới vô minh sẽ tuyệt
đối không phạm vào một trong năm đại trọng tội.
Vì sao việc phá hòa hợp Tăng - gây chia rẽ
Tăng đoàn bị quy vào năm đại trọng tội?
Vì việc gây chia rẽ Tăng đoàn sẽ làm lu mờ
giá trị đúng mực của chánh pháp, là việc khiến pháp Phật rơi vào biên kiến nhị
nguyên đúng sai, hay dở, hơn thua,… Điều này sẽ chia chẽ giáo lý đạo giác ngộ
giải thoát, chánh pháp vì thế sẽ không còn được toàn bích, vẹn nguyên. Và khi
rơi vào biên kiến, nhị nguyên thì con đường giác ngộ giải thoát hoàn toàn sẽ bị
nghẽn lối; Việc phá ngã trở về vô ngã sẽ bị giới hạn dẫn đến việc triệt ngộ,
chứng ngộ pháp vô sanh ở hành giả gặp chướng ngại lớn.
Do vậy mà Phật Thích Ca đã khép việc gây
chia rẽ Tăng đoàn là một trong năm đại trọng tội mà người học Phật nhất thiết
không vi phạm.
Luận
tội các vị Tổ khai Tông ở các Tông giáo có gốc tích từ đạo Phật
Gượng nói Phật Thích Ca đã từng khép việc
gây chia rẽ Tăng đoàn là một trong năm đại trọng tội của người học Phật, là tội
bị đọa địa ngục vô gián.
Vậy mà…
Ai là người tiếp tục phá hòa hợp Tăng sau
khi Phật Thích Ca nhập diệt?
Không ai khác ngoài người học Phật, nhất
là những người học Phật thượng thủ nắm giữ vai trò Tổ, đặc biệt là những vị Tổ
khai sơn ra các Tông giáo có gốc tích, nguyên ủy từ đạo Phật.
Dựa vào kinh sách, điển tích có từ nguồn
gốc Phật giáo thì việc chia Tông, rẽ giáo ở đạo Phật bắt nguồn từ những lần kết
tập kinh điển về sau. Do không có hành giả triệt ngộ pháp vô sanh dẫn dắt Tăng
đoàn nên lâu về sau đạo Phật bị chia chẽ ra thành nhiều Tông phái khác nhau.
Việc chia chẽ Tông phái xuất phát từ những bất đồng về giáo lý Tam Tạng kinh do
vậy nên mỗi Tông phái sẽ bảo lưu, chấp thủ giáo lý về đạo Phật khác nhau. Viên
ngọc quý chánh pháp bị đập vỡ ra thành nhiều mảnh, mỗi Tông giáo giữ một vài
mảnh và đều ra sức xác quyết rằng mảnh vỡ của viên ngọc quý chánh pháp mà họ
chấp thủ là một viên ngọc chánh pháp toàn bích, nguyên vẹn.
Việc chia Tông, rẽ giáo đã dẫn đến việc
chia rẽ Tăng đoàn ra thành nhiều Tông phái khác nhau. Kết hợp với sự vô minh,
việc tăng trưởng bản ngã đã bày ra việc giành giật tín đồ cùng việc sa vào lợi
dưỡng, lợi danh. Chánh pháp cứu cánh của đạo giác ngộ giải thoát đã không mang
lại sự chứng ngộ, đắc pháp vô sanh ở những người học Phật tham đắm.
Do bảo thủ pháp môn ở người học Phật nơi
mỗi Tông phái đã dẫn đến sự tăng trưởng bản ngã và gây ra sự khiếm khuyết tính
viên dung về giá trị đúng mực của chánh pháp.
Các vị Tổ khai sơn ra các Tông phái là
người đã gây ra việc chia rẽ Tăng đoàn, làm thân Phật chảy máu. Người học Phật
mà phạm vào một trong năm tội Ngũ nghịch hiển nhiên không thể là hành giả chứng
ngộ hoàn toàn pháp vô sanh.
Ngày nay, đạo Phật được chia chẽ ra thành
nhiều Tông giáo khác nhau, điển hình là Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo đại
thừa - Tịnh độ tông, Thiền tông, Mật tông,… Và ở mỗi Tông phái riêng rẽ lại là
vô vàn những cành nhánh nhỏ vụn, mỗi cành nhánh nhỏ vụn lại tạo ra những nét
đặc thù riêng nhằm thu hút, lôi kéo tín đồ học Phật, mục đích sau cùng là gồm
thâu lợi dưỡng, lợi danh. Đó là dấu vết của đạo Phật rơi vào thời mạt pháp.
Hiển nhiên là khi gây ra việc làm thân
Phật chảy máu, phá hòa hợp Tăng, tạo ra sự phân tán giáo lý đạo giác ngộ những
người học Phật còn trong lưới vô minh không nhận thức, ý thức được việc tự thân
phạm vào đại tội Ngũ nghịch. Hơn nữa, một số người học Phật chân chính phạm đại
tội Ngũ nghịch không vì lợi dưỡng, lợi danh mà do sự hiểu biết bị giới hạn,
việc không sáng rõ chánh pháp. Một số người học Phật khác phạm tội Ngũ nghịch
vì thuận theo thời cuộc, đại cuộc chia rẽ đạo Phật đã định và do không triệt ngộ
nên họ đành trôi theo con nước xuôi dòng. Chính do không có Giác giả xuất thế
nên đạo Phật bị chia rẽ dài lâu mà đến nay vẫn không thể hợp nhất lại. Thân
Phật vẫn hoài chảy máu, Tăng đoàn đạo Phật vẫn còn đó sự chia rẽ. Dù rằng theo
thời cuộc các Tông phái đạo Phật đã có sự pha trộn vào nhau nhưng sự hòa hợp
như nước với sữa ở đạo Phật hiện nay là điều không từng thật có.
Tri
kiến mê lầm ở các hệ phái đạo Phật xưa nay
Do có sự chia chẽ Tông giáo từ xa xưa nên
các Tông phái đạo Phật ngày nay có sự dị biệt về giáo lý Tam Tạng kinh. Vì sự
bảo thủ, cố chấp của những người học Phật nắm vai trò đại diện lực lượng truyền
pháp - Tăng bảo ở các Tông giáo đạo Phật nên pho Tam Tạng kinh hiện đặt trong
tình trạng tà chính bất phân, chân ngụy rối bời.
Người học Phật đứng đầu mỗi hệ phái với
tầm nhìn hẹp kém, vô minh nên điên đảo thị phi chẳng thể khách quan nhìn nhận
tính chân ngụy của từng bộ kinh trong pho Tam Tạng giáo điển. Mặt khác, đa phần
người làm nhiệm vụ giữ kho Tam Tạng kinh chỉ dừng ở mức giới hạn là học giả,
nhà nghiên cứu Phật học, số khác là hành giả chưa triệt ngộ nên khó tránh khỏi
tư tâm khi nhận diện giáo lý Tam Tạng kinh.
Đại diện mỗi hệ phái (nói riêng) cùng đại
chúng các hệ phái đạo Phật (nói chung) đều dựa vào biên kiến, nhị nguyên mà ra
sức bảo về luận điểm chánh tông tâm pháp Phật môn bằng vào sở cậy, sở đắc cùng
bản ngã dưới mắt không người.
Nam tông - hệ phái nguyên thủy Phật giáo
không thừa nhận kinh điển đại thừa là do nơi Phật Thích Ca thuyết. Người học
Phật Nam tông cho rằng kinh điển đại thừa là ngụy kinh do Bà la môn giáo hoặc
là do người Trung Hoa ngụy tạo lồng ghép vào pho Tam Tạng giáo điển. Mục đích
của việc lồng ghép ngụy kinh vào chân kinh của ngoại đạo là phá hoại giá trị
chánh pháp đúng mực, sáng rõ có ở đạo Phật. Do vậy người học Phật Nam tông chỉ
thừa nhận các bộ kinh Nikaya - Trung bộ kinh, Tương ưng bộ kinh, Tăng chi bộ
kinh, Tiểu bộ kinh… là kinh điển do Phật Thích Ca thuyết. Người học Phật Nam
tông hành trì pháp theo đường lối tu học được xem là nguyên thủy, việc tác pháp
mặc định là như thời Phật Thích Ca tại thế. Pháp thiền người học Phật Nam Tông
thọ trì là thiền Minh sát - Thiền vipassana.
Người học Phật Nam tông không thừa nhận
luận thuyết của hệ phái đại thừa về việc Phật Thích Ca đã thành Phật từ rất
nhiều đời. Về sau, do thấy chúng sinh cõi Ta Bà khổ não nên nhập thế, giả nhập
thai mẹ, giả lập gia đình, giả đi tầm đạo, giả tu khổ hạnh rồi thị hiện thành
đạo dưới cội bồ đề sau đó mới dấn thân hoằng pháp, giáo hóa chúng sinh cang
cường khó độ cõi Ta Bà. Người học Phật Nam Tông xác quyết Thái tử Tất đạt đa
chỉ là một chúng sinh như muôn chúng sinh trong cõi Ta Bà. Vì thấy cuộc đời vô
thường, nhiều khổ não nên mới lên đường tìm đạo, trải bao gian truân, khổ nhọc
thì Thái tử Tất đạt đa mới thành đạo và trở thành vị Phật, là vị Giác giả đầu
tiên và duy nhất trong lịch sử nhân loại từ xưa đến nay. Về điểm này thì người
học Phật Nam tông đã đúng nhưng việc bác bỏ hoàn toàn giáo lý kinh điển đại
thừa không do nơi Phật Thích Ca thuyết là một lỗi lầm thật có ở người học Phật
theo đường lối nguyên thủy. Có lẽ rơi vào biên kiến phủ định kinh điển đại thừa
không chứa đựng giáo lý chánh pháp mà hành giả thuộc hệ phái Nam tông từ xưa
đến nay chỉ đạt được sự minh sát - tỉnh thức mà không có Giác giả hoàn toàn.
Bắc tông - hệ phái đại thừa với rất nhiều
chi nhánh riêng rẽ, sai biệt với Tịnh độ tông, Thiền tông, Mật tông. Vì nhiều
nên loạn, có thể nói người học Phật theo hệ phái đại thừa phần nhiều chẳng rõ
Tông chỉ ở từng pháp môn thọ trì. Trước sau người học Phật theo hệ phái đại
thừa chỉ dùng tư kiến cá nhân và niềm tin vô lối để chọn pháp môn học Phật. Bởi
do sự chia Tông, rẽ giáo ở hệ phái Bắc tông là khá sâu sắc nên có phát sinh sự
tranh giành tín đồ học Phật giữa các hệ phái. Vì nhận thức trói buộc thời mạt
pháp mà người học Phật Bắc tông có thiên hướng tu phước, ít tu huệ do vậy nên
việc hành trì pháp Phật của người học Phật đại thừa có ít nhiều sự tắc trách,
thiếu sự miên mật dụng công.
Ngày nay, phần nhiều người học Phật theo
hệ phái đại thừa học Phật trên lý nên việc khai mở tuệ giác - Trí bát nhã gặp
nhiều chướng ngại. Thật vậy, ngày nay rất hiếm thấy người học Phật thuộc hệ
phái đại thừa có hành giả chứng ngộ.
Nương theo lịch sử Thiền tông xa xưa dựa
vào pháp ngữ của các vị Thiền sư ta dễ dàng nhận ra người học Phật xưa chứng
ngộ pháp vô sanh không hề ít.
Vì sao người học Phật theo hệ phái Bắc
tông xưa có nhiều người chứng ngộ?
Vì người học Phật thuộc hệ phái đại thừa
mà nhất là người học Phật theo Thiền tông xưa có thực tu nên có thực chứng. Còn
người học Phật đại thừa ngày nay tu học trên lý chỉ tựu thành tri kiến lập tri
nên đâu dễ chứng đắc vô sư trí, ngộ pháp vô sanh.
Mật tông ra đời là kết quả của việc học
Phật rơi vào biên kiến, chấp giữ huyễn thuật, bùa chú. Người học Phật xưa dựa
vào chánh pháp đạo Phật thọ trì pháp hành nhưng do không có chân sư chỉ dẫn nên
chẳng ngộ được pháp vô sanh, vì mống cầu đạt đạo nên người học Phật xưa lần tìm
về dấu tích Phật Thích Ca tầm đạo ngõ hầu tìm thấy sự giác ngộ giải thoát. Kết
quả của việc lội ngược dòng ở một thành phần người học Phật xa xưa mà Mật tông
ra đời. Và bùa chú, huyễn thuật của người hành trì Mật tông chính thật là một
pháp môn của ngoại đạo, đây là pháp hành thuộc về tà kiến.
Đạo Phật vốn không lạm dụng bùa chú, huyễn
thuật. Bùa chú mà người học Phật ngày nay thọ trì chỉ là nguyên văn của kinh
điển gốc, là thổ âm, là ngôn ngữ bản địa chưa được dịch thuật, chuyển ngữ.
Người tu Mật tông do hành trì bùa chú,
huyễn thuật nên dễ có cơ may tiếp cận với chúng sinh cõi vô hình, năng lực tâm
linh tăng trưởng, đây là trở ngại lớn đối với hành giả hành trì pháp Phật. Vì
hành giả đạt chút ít thành tựu tâm linh nên sa vào đại ngã, dính mắc đại ngã
hành giả khó thể triệt ngộ hoàn toàn. Vì lẽ đó mà từ xưa đến nay người học Phật
theo đường lối Mật tông ít người chứng ngộ, việc truyền nối pháp âm thầm và hầu
như không mang lại cứu cánh niết bàn cho tín đồ thuần thành.
Tịnh độ tông rơi vào biên kiến, chỉ có
pháp môn niệm Phật phù hợp mọi căn cơ chúng sinh là còn trụ thế ở đời mạt pháp
nên việc ra sức xiểng dương pháp môn niệm Phật đẩy đạo Phật rơi vào thời kỳ mạt
pháp thật sự. Trong kinh A di đà có đoạn kinh viết với đại ý “Thời mạt pháp
kinh Phật sẽ không còn, sách nếu có sẽ không còn chữ viết, đạo Phật chỉ còn lại
lục tự Di đà - Nam mô A di đà Phật, nhẫn đến mãi về sau chỉ còn lại bốn chữ - A
di đà Phật để người học Phật thọ trì”. Do người học Phật theo Tịnh độ tông cả
tin vào kinh điển, thêm việc biếng lười tư duy học Phật nên đa phần chỉ lấy
việc niệm Phật làm cứu cánh giải thoát mà xa lìa việc tham cứu Tam Tạng kinh,
việc làm mông muội vô minh này khiến trí tuệ người học Phật chẳng thể khai mở,
giáo lý đạo giác ngộ ở pho Tam Tạng kinh vì thế đã rơi vào sự mai một, ít người
học Phật theo Tịnh độ tông thọ trì.
Do thấy nguy cơ đạo Phật rơi vào thời mạt
pháp thật sự - giáo lý chánh pháp bị thất truyền, việc người học Phật cả tin
nhận lầm ngụy kinh nên cả hai hệ phái Nam tông - Bắc tông đều mở lời cảnh báo
kinh A di đà là ngụy kinh len lõi trong pho Tam Tạng giáo điển. Việc mở lời
cảnh tỉnh ở các hệ phái học Phật ngoài pháp môn niệm Phật về gốc tích kinh A di
đà đã gây sự bất bình, tạo ra phản kháng mạnh mẽ từ những người học Phật theo
Tịnh độ tông. Các vị Tăng bảo thuộc Tịnh độ tông ra sức biện giải kinh A di đà
là chân kinh, Tín Nguyện Hạnh theo pháp môn niệm Phật nhất định sẽ vãng sanh
Tây phương cực lạc. Người học Phật theo Tịnh độ tông với số lượng áp đảo cùng
với việc thọ trì pháp môn niệm Phật đã lâu nên tín tâm cùng sự cố chấp, bảo thủ
sâu dày, họ đã ra sức bảo vệ việc tồn tại cõi Tây phương cực lạc. Song tin rằng
chưa có bất kỳ ai - chính họ hay một vị Tăng bảo hoặc một người học Phật thuần
thành theo pháp môn Tịnh độ tông từng đến cõi A di đà và trở về. Chính vì sự
tín tâm đó mà cõi giới A di đà được dựng lên. Cõi A di đà vì thế mà thật có
song cõi Tây phương cực lạc cũng chỉ là huyễn cảnh, do tâm tưởng người học Phật
giả lập mà tựu thành.
Tuy nhiên, cõi Tây phương cực lạc được
dựng lên nơi tâm tưởng của chúng sinh học Phật chẳng thể thanh tịnh, thuần
khiết, vi diệu như là huyễn cảnh được giả lập ra trong kinh Phật, giá trị về
Tây phương cực lạc nhất định sẽ thành Phật càng thêm nhạt nhòa với bản ngã, sự
si mê, tham đắm, sân hận, kiêu mạn và hoài nghi ở người học Phật ngày nay.
Vậy kinh A di đà là ngụy kinh hay chân
kinh? Trong pho Tam Tạng kinh có bao nhiêu bộ kinh là ngụy kinh, có bao nhiêu
bộ kinh là chân kinh?
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét