Khai Quan Điểm Nhãn - Giải Mã Đạo Phật
Thứ Hai, 22 tháng 4, 2019
Khai Quan Điểm
Nhãn – Giải Mã Đạo Phật
Bước ngoặc lịch
sử nơi sự hiểu biết khách quan, sáng rõ, tổng thể và đúng mực của nhân loại đã
được khai mở cách đây những hơn 2500 năm
Sau khi chấp
nhận lời thỉnh cầu của vị Phạm thiên Sahampati về việc nhập thế rộng truyền
chánh pháp hiển bày con đường giác ngộ, giải thoát hoàn toàn, Ðức Phật đã khởi
nghĩ:
- Ai là người
đầu tiên được thọ nhận giáo lý về pháp vô sanh thậm thâm, vi diệu? Ai là người
có thể lĩnh hội chánh pháp mau chóng nhất? Đạo sư Alara Kalama (vị thầy đầu
tiên của Phật khi Người dấn thân xuất gia cầu đạo), là người có học vấn uyên
thâm, mẫn tiệp, là bậc tri thức thông tuệ đã trải qua thời gian dài hành trì
tìm về sự giải thoát hoàn toàn, mọi ràng buộc, dính mắc đã được gạn lọc tinh
sạch. Như Lai sẽ truyền thụ giáo pháp giải thoát hoàn toàn cho người này trước.
Liền đó, một vị
Phạm thiên hiện thân, đảnh lễ và thưa rằng:
- Bạch Đức Thế
Tôn, đạo sư Alara Kalama đã từ trần vừa được một tuần.
Ðức Phật dùng
thiên nhãn xác nhận điều này. Rồi Người nghĩ đến vị đạo sư Uddaka Ramaputta.
Lại một vị Phạm
thiên hiện thận và bạch rằng:
- Đạo sư Uddaka
Ramaputta vừa mới qua đời đêm trước.
Ðức Phật lại
dùng thiên nhãn kiểm nhận. Rồi Người nghĩ đến năm người bạn - Kondanna (Kiều
Trần Như), Bhaddiya, Vappa, Mahanama Kulika, Assaji - những người rất tinh tấn
từng cùng tu học và đã trải qua 6 năm dài hành trì pháp tu khổ hạnh. Phật dùng
thiên nhãn quán sát, nhận thấy năm vị này là hiện đang ở tại Lộc Uyển (Vườn
Nai, Migadava), trong làng Isipatana, cách thành phố Benares 10km về phía bắc.
…
Cũng như đoạn
kinh văn mà tôi từng lược dẫn ở bài viết Chọn lựa tích cực của Phật
Thích Ca ngay sau ngày thành đạo… đoạn lược trích y kinh trên đã rơi
vào yếu tố huyền về sự hiện thân của hai vị Phạm thiên và việc Phật dùng thiên
nhãn kiểm chứng cũng như tìm dấu năm người bạn đồng tu dạo trước.
Để đúng mực và
cũng nhằm đơn giản vấn đề thì câu chuyện trên sẽ được tóm lược lại như sau:
Sau khi giác
ngộ, đạt sự giải thoát hoàn toàn và quyết định chọn lựa con đường đầy gian khó,
lao nhọc vì người cùng chúng sinh 3 cõi rộng truyền chánh pháp, Phật đã nghĩ
đến các vị đạo sư, những vị lãnh đạo tinh thần nhiều hiểu biết, đáng kính ở các
nước thuộc lưu vực sông Hằng. Đó là tư duy táo bạo và sáng suốt của Phật Thích
Ca. Bởi lẽ một khi hai vị giáo chủ tôn giáo danh tiếng nhất lúc bấy giờ lĩnh
hội, thấu hiểu, xác tín giáo pháp thậm thâm, vi diệu,… là đúng thật thì công
cuộc rộng truyền chánh pháp đến với đại chúng sẽ dễ dàng và thuận lợi.
Tuy nhiên, sau
khi dò hỏi thì được biết hai vị đạo sư danh tiếng đã qua đời. Thật sự không có
vị Phạm thiên nào hiện ra mách bảo và cũng không có việc Phật dùng thiên nhãn
tìm dấu năm người bạn đồng tu. Phật chỉ việc thong thả bước đi và hỏi thăm mọi
người về những thông tin cần biết.
Nhằm giúp vấn
đề rõ ràng, minh bạch những đoạn trích dẫn kinh điển về sau tôi sẽ tùy thuận
giản lược yếu tố huyền hoặc, thần thông để không rối mắt mọi người. Việc diễn
giải sẽ chú trọng nghĩa, dịch thoát ý, lược bỏ sự trùng lấp thường thấy ở kinh
điển gốc thời sơ kỳ Phật giáo cũng như lối dịch giải y kinh của những người học
Phật chưa có được sự tỏ ngộ cần và đủ.
Nhiếp phục năm
người bạn đồng tu
nơi vườn Lộc
Uyển
Trên đường đi
đến vườn Lộc Uyển, Phật gặp một tu sĩ thuộc dòng tu khổ hạnh là Upaka. Nhìn
thấy dung mạo sáng rỡ, dáng vẻ thanh tịnh, thoát tục của Phật, Upaka cúi chào
và hỏi:
- Này đạo hữu,
ngũ quan của đạo hữu thật thanh tịnh, nước da của đạo hữu thật tươi sáng. Đạo
hữu đã xuất gia với ai? Thầy của đạo hữu là ai? Đạo hữu đang truyền giáo pháp
của ai?
Phật đã đáp
bằng bài kệ:
Như Lai đã vượt
qua tất cả
Đã thông suốt
vạn pháp
Thoát ly mọi
ràng buộc,
Từ bỏ tất cả,
không còn ái nhiễm,
Tự mình thấu
hiểu 3 cõi
Cái biết của
Như Lai không có người dạy
Không ai hiểu
rõ vạn pháp bằng Như Lai.
Trên thế gian
và kể cả chư thiên,
Không ai có thể
hiểu biết bằng Như Lai.
Như Lai là một
vị A la hán trên thế gian này,
Là một vô
thượng sư
Tự mình thành
bậc Toàn Giác
Tâm vắng lặng
và thanh tịnh.
Như Lai đang
trên đường đến xứ Karsi
Ðể chuyển bánh
xe Pháp
Giữa thế giới
người mù,Như Lai sẽ gióng trống pháp Vô sanh.
Tu sĩ Upaka hỏi
lại:
- Này đạo
hữu! Phải chăng đạo hữu đã tự nhận mình là A la hán, là người đã giải thoát
hoàn toàn?
Phật đáp:
- Những người
giải thoát hoàn toàn đều là Như Lai, đều đã tận diệt mọi uế trược, trần cấu,
đoạn dứt tất cả những phiền muộn, những hiểu biết sai lạc, mê lầm. Thế nên, Như
Lai là người đã giải thoát hoàn toàn.
Upaka cúi đầu,
bước đi miệng thì thầm:
- Có thể như
vậy được sao? Có thể như vậy được sao?
(Lưu ý: A la hán
đã được diễn giải bằng nhiều cách khác nhau. Và để đơn giản vấn đề tôi sẽ góp
nhặt, thống nhất diễn nghĩa cụm từ A la hán. A la hán là người đã giải thoát
hoàn toàn, không còn dính mắc vào mọi ràng buộc khổ não, sinh tử, niết bàn,…)
…
Rồi thì Phật
cũng đến Lộc Uyển, nơi mà năm người bạn đồng tu thuở trước đang làm trú xứ để
học và hành đạo. Những người bạn đồng tu nhìn thấy Phật từ xa nhưng trong lòng
họ không muốn tiếp đón Phật. Nguyên do là họ đã từng rất tin tưởng, nể trọng sự
hiểu biết uyên thâm, công phu hành trì nghiêm cẩn, chí hướng xuất trần dũng
mãnh cũng như đời sống phạm hạnh quyết liệt của Đức Phật. Vì lẽ đó họ đã cùng
theo Phật thực hành lối tu khổ hạnh gian khó. Rồi thì niềm tin vững chắc của họ
đối với Phật đã bị mất đi khi họ bắt gặp Phật nhận bát sữa từ một cô gái ở gần
dòng sông Ni liên thiền (Niranjara), họ lại thấy Phật có xu hướng tiếp xúc với
nhiều người. Họ vội nghĩ Phật đã từ bỏ con đường tu đạo giải thoát và rơi vào
đời sống lợi dưỡng xa hoa. Nghĩ vậy nên họ đã cùng nhau bỏ đi , họ đâu biết
rằng do theo đuổi pháp tu khổ hạnh cực đoan khiến cho Phật kiệt sức hoàn toàn,
chính nhờ việc thọ nhận bát sữa của cô bé gái kịp lúc mà Phật đã duy trì được
mạng sống và thức tỉnh. Do đích thân kiểm chứng và nhận ra sự không thật đúng
của lối tu khổ hạnh Phật đã từ bỏ pháp tu khổ hạnh, chuyển sang thực hành pháp
tu trung đạo. Nhờ thay đổi pháp hành đúng lúc mà Phật mới trở nên là một bậc
Giác giả hoàn toàn.
…
Mặc dù đã toan
tính như vậy nhưng khi Phật đến nơi thì cả năm người đều bất giác đứng dậy và
cúi chào. Trước dáng vẻ oai nghi, dung mạo sáng rỡ, thoát tục,… của Phật những
người bạn đồng tu bước đầu đã bị nhiếp phục. Dù vậy họ vẫn nói:
- Này đạo hữu!
Đạo hữu đã từ bỏ những pháp tu nghiêm khắc và khổ hạnh. Đạo hữu đã không tiếp
tục cố gắng tu học mà quay về lối sống hưởng thụ xa hoa, lợi dưỡng. Đạo hữu
không còn xứng đáng là một người tu sĩ. Lẽ ra đạo hữu không nên đến đây, đạo
hữu không xứng đáng đến gặp chúng tôi.
Phật bình thản
đáp:
- Này các bạn!
Tôi không hề xa hoa, không hề trở lại lối sống lợi dưỡng. Tôi đã không ngừng cố
gắng và nỗ lực. Và tôi đã chứng ngộ vạn pháp, chứng ngộ pháp vô sanh bất diệt.
Tôi sẽ chỉ các bạn con đường và cách để các bạn chứng ngộ được sự giải thoát
hoàn toàn. Nếu các bạn thực hành thì các bạn cũng sẽ chứng ngộ sự thật đó bằng
chính tuệ giác của các bạn. Khi đó, các bạn sẽ có được đời sống thường an lạc
tịnh, giải thoát hoàn toàn mọi ràng buộc bởi sinh tử, khổ não.
Năm người bạn
đồng tu hoài nghi chất vấn:
- Này đạo hữu!
Trước đây với bao nhiêu giới luật nghiêm khắc, khổ hạnh mà đạo hữu còn chưa đạt
được cái biết cùng tột nơi vạn pháp. Khi ấy đạo hữu cũng không có sự chứng ngộ
thù thắng nào tương ưng với sự hiểu biết của một bậc Giác giả. Rồi sau đó đạo
hữu không tiếp tục cố gắng, đạo hữu từ bỏ pháp tu phạm hạnh, rơi vào lợi dưỡng.
Với những sự thoái thất, buông xuôi thì làm sao đạo hữu có thể đạt được sự
chứng ngộ giải thoát hoàn toàn, trở thành một Bậc Toàn Giác?
Đứng trước sự
hoài nghi của năm người bạn cũ Phật Thích Ca đã hỏi:
- Này các bạn!
Các bạn đã từng một lần nào trước đây nghe tôi nói với các bạn về những lời như
vừa rồi chăng?
Năm người bạn
đồng tu thừa nhận:
- Thật sự là
chưa bao giờ cả.
Đức Phật bằng
vào một sự chân thành đã khẳng định lại một lần nữa nhằm xác tín với năm người
bạn.
- Tôi đã giác
ngộ hoàn toàn Thật tướng của vạn pháp, liễu thoát sinh tử, rõ biết luân hồi và
cách thoát khỏi luân hồi. Tôi sẽ hướng dẫn các bạn. Và … nếu các bạn thọ nhận,
hành trì thì tự các bạn sẽ chứng ngộ sự thật đó. Các bạn sẽ tự giải thoát hoàn
toàn cho chính mình.
Sau khi nghe
Phật quả quyết khẳng định sự giác ngộ hoàn toàn mà không hề có sự tự ti, mặc
cảm năm người bạn Kondanna, (Kiều Trần Như), Bhaddiya, Vappa, Mahanama Kulika,
Assaji, họ vốn là những bậc thiện tri thức nhiều hiểu biết đã từng bước khôi
phục niềm tin nơi người bạn cũ. Và cũng như qua nét mặt, cử chỉ, phong thái
đỉnh đạc, trang nghiêm của Phật mà họ dần tin rằng Phật đã thật sự chứng ngộ,
là một Giác giả đã tựu thành đạo quả, là người có đủ khả năng chỉ dạy cho mình
đạt đến sự giác ngộ, giải thoát hoàn toàn.
Vì vậy năm
người bạn đồng tu đã thỉnh Phật nghỉ ngơi ở một nơi mát mẻ, an tịnh trong vườn
Lộc Uyển.
Vào buổi tối
hôm đó, họ đã lắng nghe Phật thuyết giảng bài pháp đầu tiên đánh dấu sự ra đời
của bộ giáo lý chánh pháp vô thượng, thù thắng, vi diệu. Bài pháp thoại đầu
tiên của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thuyết giải cho năm người bạn là Kinh
Chuyển Pháp Luân
(Còn tiếp)
Kinh Chuyển Pháp Luân
(Kinh Chuyển
bánh xe pháp)
Mặc dù Phật đã
khôi phục lại niềm tin ở những người bạn cũ nhưng Phật rõ biết mầm mống sự hoài
nghi vẫn còn dính mắc trong suy nghĩ của năm người bạn. Thế nên khi bắt đầu
thuyết giảng về con đường giác ngộ, giải thoát hoàn toàn Phật đã nói về hai
trạng thái cực đoan sai lầm mà những người xuất gia, những người có chí hướng
tìm về sự giải thoát hoàn toàn thường mắc phải. Đây là bài pháp đối trị nhằm
đập tan những hoài nghi mê lầm và định kiến sai lạc tiềm tàng ở tâm trí những
người bạn, Phật thuyết:
- Này các bạn!
Có hai cực đoan mà người xuất gia phải tránh. Cực đoan thứ nhất là xu
hướng tham đắm ngũ dục, lợi dưỡng, lợi danh, đây là cực đoan vui thú thỏa mãn
bản ngã,… vì như thế là uế trược, thấp hèn, tai hại, không đúng với đời sống
phạm hạnh của một người tu sĩ. Cực đoan thứ hai là sự cứng nhắc, khắc khe trong
lối tu khổ hạnh, từ bỏ thọ dụng, mọi nhu cầu thiết yếu của đời sống thường nhật
vì như thế là tạo ra sai lầm gây đau đớn, mệt mỏi xác thân, ngưng trệ sự minh
mẫn, sáng suốt ở mỗi người. Điều đó cũng không đúng mực với đời sống phạm hạnh,
sai lầm đó cũng sẽ chặn đứng con đường giải thoát hoàn toàn ở người xuất gia.
Hai trạng thái cực đoan trên thật tai hại, không đúng và vô ích đối với việc
tìm về sự giải thoát hoàn toàn.
Dừng lại một
lúc để những người bạn chiêm nghiệm, lĩnh hội,… Phật lại nói:
- Tôi đã từ bỏ
cả hai trạng thái cực đoan và dấn thân vào con đường trung đạo nhằm tìm
ra sự giải thoát hoàn toàn. Sự thật về con đường trung đạo là việc tôi đã trải
qua quá trình học hỏi tận tụy ở cuộc sống và kinh sách,… tôi đã tìm đến cầu
pháp ở các vị đạo sư danh tiếng, tôi đã nỗ lực hành trì tìm về sự giải thoát
hoàn toàn. Tôi đã từng tiếp xúc với cuộc sống, nhận biết mọi thứ, học hỏi sự
hiểu biết ở tất cả các pháp thế gian cũng như áp dụng lối tu ở các pháp xuất
thế gian khác nhau. Kết quả vẫn là; sự bế tắc trong tâm thức, thật không có lối
ra nơi vạn pháp ở các pháp tu xuất thế gian hiện nay, tôi đã không tìm thấy
được sự giải thoát hoàn toàn để thỏa mãn điểm đến rời xa khổ đau, sinh tử luân
hồi. Về sau, tôi nhận ra sự sai lầm ở cách thức tìm về sự giải thoát hoàn toàn nơi
pháp tu khổ hạnh, tôi đã từ bỏ trạng thái cực đoan vô ích đó và tiến đến việc
dừng lặng mọi ý thức, nhận thức, tư duy nhằm đạt đến sự an tịnh của thiền định.
Tôi muốn có được sự khách quan, sáng suốt nhất để chiêm nghiệm lại con đường
tìm về sự giải thoát hoàn toàn. Kết quả là chính ngay sự rỗng lặng của tâm thức
thì trí tuệ vô thượng, thậm thâm, vi diệu, không dính mắc bản ngã đã được khai
mở. Với cái biết khách quan, tổng thể, xuyên suốt, toàn diện đó tôi đã thấu rõ
tự thể cũng như bản chất vạn pháp vốn bất sinh, bất diệt, vô ngã, vô hữu, vô
vô,… Sau đó, tôi đã quán chiếu lại tất cả vạn pháp, rõ biết chân nghĩa giác
ngộ, niết bàn, trí tuệ vô thượng, sự giải thoát hoàn toàn,… Thế nên, tôi rõ
biết và khẳng định lại một điều rằng “Hai trạng thái cực đoan sai lầm mà những
người xuất gia thường dính mắc sẽ không mang lại sự giải thoát hoàn toàn có
chăng là sự đau khổ, âu lo, bất an và ràng buộc. Muốn đạt sự giải thoát hoàn
toàn thì sự lắng lòng - thiền định và sự hiểu biết khách quan, việc quán
chiếu đúng mực lại cái biết là chiếc chìa khóa để khai mở sự giác ngộ. Đó là
con đường Trung đạo.
Nghe những lời
Phật diễn giải Kiều Trần Như và bốn người bạn nhận biết “Đây chính là vị đạo sư
sẽ dẫn đường, chỉ lối họ đạt đến sự giải thoát hoàn toàn, là con đường mà cả năm
người đã không ngừng ra sức, nỗ lực hành trì mà thật sự chưa tìm thấy lối ra”.
Họ rất vui mừng đồng thời quỳ xuống lạy tạ và thỉnh cầu được làm những người
học trò của Phật. Phật đã tùy thuận nhận lời.
Sau khi được
Phật tiếp nhận làm học trò, Kiều Trần Như thỉnh cầu Phật chỉ dẫn rõ con đường
Trung đạo mà Phật đã hành trì và cách thức tìm ra sự giải thoát hoàn toàn. Phật
đã nói:
- Này các bạn!
Con đường Trung đạo là những phương pháp mà tôi đã hành trì và nhờ những phương
pháp đó tôi đã đạt cái thấy, cái biết khách quan, sáng rõ. Thông qua sự dừng
lặng tâm tôi đã khai mở trí tuệ, đạt đến sự tỉnh giác và chứng ngộ niết bàn.
Con đường trung đạo bao gồm 8 phương pháp đúng mực có công dụng giúp người tu
sĩ đạt đến sự giải thoát hoàn toàn. Những phương pháp đó tôi gọi là Bát chánh
đạo. Tôi sẽ lần lượt trình bày các phương pháp đó cho các bạn rõ. Các bạn hãy
an tịnh và lắng nghe.
Chú ý: Bài pháp
thoại đầu tiên Phật thuyết cho năm anh em đồng tu Kiều Trần Như nên cách diễn
giải sẽ có sự sai biệt. Nguyên nhân dẫn đến sự sai khác đó chính là do các bài
giảng của Phật là những bài pháp đối trị, tùy bệnh mà cho thuốc. Thế nên những
lời giảng sẽ bám sát đối tượng mà trình bày, lời giảng phụ thuộc nhiều vào căn
cơ, sức hiểu và mục đích tham vấn của người đối diện.
Điểm sai khác
rõ nét nhất ở năm anh em Kiều Trần Như với người đời đó là họ là những người
xuất gia chân chính, họ đã “cắt ái, ly gia”, thoát ly mọi dính mắc thế gian,
theo đuổi mục tiêu giải thoát hoàn toàn, việc rời xa sinh tử cũng như mọi khổ
não kiếp người.
Một vấn đề cần
nói rõ thêm ở những người xuất gia chân chính thời hơn 2500 năm về trước.
Người xuất gia
xưa tin nhận và một lòng tìm về sự giải thoát hoàn toàn, rời xa những ràng
buộc, dính mắc nơi cuộc sống. Họ tin nhận có niết bàn, nơi chỉ tồn tại Thường
Lạc Ngã Tịnh mà không có khổ não, muộn phiền, bất công, áp bức và việc sinh tử
bức ngặt. Người xưa đã hệ thống rạch ròi về sự hiện diện của bát khổ - Sinh
khổ, già khổ, bệnh khổ, Tử khổ, Cầu bất đắc khổ, Ái biệt ly khổ, Oán tăng hội
khổ, Ngũ ấm xí thạnh khổ. Những người có chí hướng xuất trần xa xưa trực nhận 8
sự khổ thường cột trói kiếp người và mơ hồ nhận biết sự luân hồi nên sinh tâm
nhàm chán khổ não, những muốn lìa xa sinh tử do vậy họ dũng mãnh xuất gia nhằm
tìm về sự giải thoát hoàn toàn.
Đây là điểm mấu
chốt gắn kết chặt chẽ với lời Phật thuyết giảng nơi bộ Kinh Chuyển Pháp Luân.
Lời Phật thuyết gắn liền với mục đích giải thoát hoàn toàn tối hậu ở chí hướng
xuất trần nơi năm người bạn.
Quay lại vấn đề
con đường trung đạo.
Do vậy tôi sẽ
diễn nghĩa Bát chánh đạo và Tứ diệu đế dựa trên đối tượng người xuất gia mà cụ
thể là năm anh em Kiều Trần Như.
Phật đã thuyết
về Bát chánh đạo như sau:
- Một là chánh
kiến. Chánh kiến ở người xuất gia, người tìm về sự giải thoát hoàn toàn là cái
thấy khách quan, sáng rõ, đúng mực về con đường giải thoát hoàn toàn. Muốn có
chánh kiến thì con người phải mở lòng ra trực nhận cũng như nhìn xuyên suốt vào
vạn pháp mà không có một sự ngăn ngại hay kiến chấp, phân biệt chủ quan, cục bộ
nào. Vô thường khổ không vô ngã là tự tánh chân thật của vạn pháp mà người hành
giả phải lĩnh hội, trực nhận và nắm bắt rõ. Chánh kiến chính là cái thấy biết
sự vật, hiện tượng đúng theo thật tướng vô thường, thật thể vô ngã,
thật tánh không của chúng, không chấp Thường, chấp Đoạn, không lầm theo
biên kiến, tà kiến nhị nguyên của ngoại đạo và người đời. Khi người tu sĩ có
chánh kiến thì người tu sĩ sẽ dần thông hiểu Tứ Diệu Ðế, rõ biết vô ngã, vô
thường, biết khổ, biết không như huyễn,… nên không tham luyến, dính mắc nhờ vậy
mà không còn bị chìm đắm trong khổ não, sinh tử luân hồi,…
- Hai là chánh
tư duy. Chánh tư duy ở người xuất gia chính là ý thức, nhận thức, tư duy
đúng thật về sự giải thoát hoàn toàn, cách thoát ra mọi khổ não, luân hồi sinh
tử. Người tu sĩ có chánh tư duy là người biết dùng trí tuệ khách quan, cái biết
chân chính để tư duy, nhận biết vạn pháp, niết bàn,… và sống thật với sự giải
thoát hoàn toàn. Khi người hành giả có được chánh tư duy thì vị tu sĩ đó sẽ có
suy nghĩ, hành động, việc làm đúng theo chánh pháp nhằm đem đến sự an vui, hạnh
phúc cho tất cả mọi người và bản thân, rời xa tham đắm lợi dưỡng, lợi danh, ngũ
dục.
- Ba là chánh
ngữ. Chánh ngữ ở người xuất gia là những lời nói hòa nhã, đúng mực, hợp
thời, hữu ích cho mọi người. Người xuất gia học hỏi chánh pháp không rơi vào
lạm bàn, hý luận, không tranh luận theo thiên kiến, cục bộ, chủ quan… Chánh ngữ
ở người xuất gia thể hiện ở sự hỏi đáp cởi mở nhằm vào mục đích giúp người biết
đến chánh pháp cũng như việc làm sáng rõ con đường giải thoát hoàn toàn mà một
người xuất gia chân chính cần thành tựu.
- Bốn là chánh
nghiệp. Chánh nghiệp ở người xuất gia là những hành động, việc làm đúng
mực với đời sống phạm hạnh. Người xuất gia có chánh nghiệp sống tùy thuận theo
chánh pháp, thường trụ nơi giải thoát hoàn toàn, làm việc ích mình, lợi người,
giúp người hết khổ được vui, giữ thân khẩu ý thanh tịnh. Chánh nghiệp ở người
xuất gia đó chính là sự giải thoát hoàn toàn, thoát ly mọi dính mắc, ràng buộc
khổ não, sinh tử.
- Năm là chánh
mạng. Chánh mạng ở người xuất gia là người tu sĩ có đời sống phạm hạnh,
chân chính, không tham đắm ngũ dục, không buông lung bản ngã, tánh ý. Việc giữ
gìn thân mạng là cần thiết cho con đường tu học giải thoát nhưng tránh rơi vào
hai trạng thái cực đoan tham đắm vượt mức và đoạn tuyệt thọ dụng vật thực một
cách khắc khe, cứng nhắc. Người xuất gia có chánh mạng là người biết nương nhờ
thân xác để hành trì khai mở sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn và dùng thân mạng
để phổ truyền chánh pháp,…
- Sáu là chánh
tinh tấn. Chánh tinh tấn ở người xuất gia là người tu sĩ cần siêng năng
trao dồi, học hỏi giáo lý về con đường dẫn đến sự giác ngộ, giải thoát hoàn
toàn. Khi đã thông hiểu lý thuyết thì người tu sĩ cần tiếp tục hành trì tùy
thuận bố thí, trì giới, nhẫn nhịn, tinh tấn, thiền định để đạt đến sự chứng
ngộ. Việc mở lòng ra vì người cũng như tiếp xúc cuộc sống, vạn pháp sẽ giúp
người hành giả dễ dàng khai mở trí tuệ nhằm đạt đến sự giác ngộ, giải thoát
hoàn toàn.
- Bảy là chánh
niệm. Chánh niệm ở người tu sĩ là luôn giữ niệm giác ngộ giải thoát hoàn.
Suy nghĩ, hành động, việc làm đều thuận theo niệm giác ngộ giải thoát hoàn
toàn. Người xuất gia dễ thường được người đời trọng vọng, cả nể, được cúng
dường y bát, vật dùng hậu hĩnh, thừa mứa. Người tu sĩ có chánh niệm phải là
người tỉnh thức, là người biết cách tránh rơi vào lợi dưỡng, lợi danh, tham đắm
hão huyền,… những việc dẫn đến “đánh mất” niệm giải thoát hoàn toàn, thoái thất
bồ đề tâm. Người tu sĩ có chánh niệm sẽ rõ biết kết quả của việc đánh mất chánh
niệm sẽ là việc luân hồi nơi 6 nẻo ở kiếp sau. Vì lẽ đó chánh niệm được người
có chí hướng tìm về sự giải thoát hoàn toàn giữ gìn miên mật, nghiêm cẩn.
- Tám là chánh
định. Chánh định ở người xuất gia là luôn giữ tâm thanh tịnh, sáng suốt,
dừng lặng. Từ nơi an tịnh của thiền định người hành giả quán chiếu lại những
gút mắc của tư duy, nhận thức,… dựa trên cái biết khách quan, tổng thể không
dính mắc cái tôi. Hành giả quán chiếu về vạn pháp, việc sinh tử, quy luật luân
hồi, nhân quả, chuỗi thập nhị nhân duyên, niết bàn,… Hành giả sẽ quán chiếu cho
đến khi thông suốt thật tướng niết bàn cũng như tự tánh vạn pháp và đạt được sự
giải thoát hoàn toàn ngay nơi hiện kiếp. Vậy nên chánh định xuyên suốt của
người xuất gia là đích đến giải thoát hoàn toàn, người xuất gia có chánh định
tinh thuần và hành trì bát chánh đạo mọi lúc, mọi nơi từ trước cho đến khi đạt
được sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Khi đã chứng ngộ hoàn toàn người xuất
gia sẽ thường sống nơi chánh định mà không còn sự thoái thất bồ đề tâm, việc
làm tùy thuận.
Ở trên là Bát
chánh đạo mà Phật đã thuyết cho những người xuất gia nhằm giúp họ có được những
phương pháp thù thắng, từ bỏ những ràng buộc, dính mắc không thật đúng đã từ
lâu trói chặt định kiến, tư duy của những người tu sĩ thời Phật tại thế.
Có một điều cần
phải nói rõ thêm là sơ khởi bài thoại về Bát chánh đạo sẽ vắn tắt, ngắn gọn và
không lột tả hết được toàn bộ lý thuyết về nội dung Bát chánh đạo. Hơn nữa, đây
không phải là lời thoại một chiều mà là một buổi vấn đáp qua lại giữa vị thầy -
Phật Thích Ca và năm người học trò hay nói đúng hơn là cuộc trò chuyện giữa
những bạn nói về cách thức để tìm về sự giải thoát hoàn toàn.
Về sau, qua
nhiều lần trùng tuyên và thêm nhiều câu hỏi phát sinh nơi những người hậu học
thì Bát chánh đạo dần hoàn thiện thành một hệ thống giáo lý hoàn chỉnh. Và cũng
tùy đối tượng tìm đến đạo Phật mà Phật và những người học trò đạt pháp vô sanh
đã diễn giải nội dung bài thoại khác nhau. Sự sai khác biểu hiện rõ nét khi
thuyết riêng cho người xuất gia và tại gia.
Kết thúc bài
pháp thoại Bát chánh đạo Phật đã dừng lặng một thời gian đủ lâu để năm người
bạn thọ nhận, chiêm nghiệm và lĩnh hội. Sau đó, Phật nói về Tứ diệu đế.
(Còn tiếp)
Phật giảng Tứ Diệu Đế
Do rõ biết năm
người bạn vì muốn lìa khổ, tìm về sự giải thoát hoàn toàn, mong cầu niết bàn
nên Phật giảng giải Tứ Diệu Đế. Vậy nên Tứ diệu đế cũng được Phật thuyết nhằm
giúp người xuất gia muốn lìa khổ trực nhận khổ, rõ biết khổ, phương cách thoát
khổ và thành tựu sự thoát khổ.
Tôi sẽ tái hiện
lại diễn biến cuộc hỏi đáp Pháp yếu của hơn 2500 năm về trước giữa Phật và năm
người bạn.
Phật nói:
- Này các bạn!
Các bạn hãy thành thật, khách quan trả lời những câu hỏi của tôi. Khi đó, các
bạn sẽ tiến gần với sự thật. Các bạn hãy thật sự kiên nhẫn để chính các bạn tìm
ra vấn đề không ổn mà các bạn đang mắc phải. Chỉ khi nhận diện được vấn đề thì
các bạn mới có thể tìm ra cách giải quyết vấn đề. Con đường giải thoát hoàn
toàn ở mỗi người phải chính do mỗi người tự nhận diện và chọn lựa cách thức
hành trì…
- Các bạn đã
dũng mãnh “cắt ái, ly gia”, xa lìa mọi ràng buộc thế gian, sống đời khổ hạnh và
mong cầu tu học đạt được sự giải thoát hoàn toàn là vì lẽ gì?
Năm người bạn
lần lượt trả lời với đại ý:
- Bạch Thế Tôn!
Vì muốn rời xa sinh tử luân hồi, vì muốn thoát khỏi mọi khổ não trần thế, vì
muốn tìm về niết bàn - Thường lạc ngã tịnh, vì không muốn còn bị một pháp khổ
nào bức ngặt đời sống và thân tâm,…
Phật nói tiếp:
- Vậy ra các
bạn muốn thoát ly sinh tử mà mong cầu chứng đắc sự giải thoát hoàn toàn. Và sở
dĩ các bạn muốn thoát ly sinh tử là vì muốn lìa xa mọi khổ não. Có đúng như vậy
không?
Năm người bạn
trả lời:
- Bạch Thế Tôn!
Đúng vậy. Do muốn thoát khổ, thoát luân hồi mà chúng tôi mới quyết chí tìm về
sự giải thoát hoàn toàn. Cả năm người chúng tôi đều tin rằng có sự luân hồi
trói chặt kiếp người và muôn loài nên chúng tôi muốn xa lìa, thoát khỏi sự luân
hồi.
Phật lại nói:
- Có phải chính
vì khổ mà các bạn muốn thoát ly luân hồi sinh tử? Nếu không có khổ thì các bạn
đã không lập chí thoát ly sinh tử? Tôi muốn các bạn xác nhận lại vì điều này sẽ
là điểm mấu chốt giúp các bạn tìm được sự giải thoát hoàn toàn. Chỉ khi các bạn
nhận diện được nguyên nhân của vấn đề và xác định đích đến rõ ràng, không lay
chuyển thì các bạn mới có thể giải quyết triệt để vấn đề.
Năm người bạn
đồng thời xác nhận:
- Bạch Thế Tôn!
Đúng vậy! Chúng tôi vì biết đời là khổ nên rất mong thoát khỏi luân hồi, đó là
nguyên nhân của việc chúng tôi ra sức nỗ lực hành trì tu học và đích đến là sự
giải thoát hoàn toàn.
Phật nói:
- Các bạn vì
muốn thoát khổ mà mong muốn thoát ly sinh tử. Các bạn dũng mãnh “cắt ái, ly
gia”, thoát ly mọi ràng buộc, dính mắc ở đời, các bạn sống đời khổ hạnh và ra
sức hành trì tìm về sự giải thoát hoàn toàn. Trải qua quá trình dài hành trì tu
học các bạn đã có sự an lạc, tự tại,… các bạn đã thoát khổ hoàn toàn chưa, các
bạn đã nếm trải trạng thái niết bàn chưa?
Năm người bạn
trình bày:
- Bạch Thế Tôn!
Chúng tôi đã thoát ly khỏi những khổ não, muộn phiền của cuộc đời thế tục.
Chúng tôi cũng có được niềm an lạc, thảnh thơi nhưng chúng tôi vẫn chưa thoát
khỏi nỗi khổ của bệnh, của già - chết. Và chúng tôi còn có cả những âu lo vì
chưa chứng ngộ được sự giải thoát hoàn toàn. Lòng chúng tôi thật sự chưa an vì
chưa biết cách chế ngự sinh tử, chúng tôi không có niềm tin về việc đã thoát
khỏi luân hồi.
Phật nói:
- Vì muốn xa
lìa khổ não thế gian các bạn từ bỏ mọi ràng buộc nơi đời thường, hạn chế cả
việc tiếp nhận vật thực do e dè dính mắc nghiệp nhân quả. Các bạn có được chút
thanh thản nhưng rồi các bạn lại bị khổ não nơi đời sống xuất gia bức ngặt, tâm
mong cầu chứng quả giải thoát đã âm thầm bức hại các bạn. Các bạn xa lìa khổ
não ở đời rồi lại bị khổ não ở đời sống xuất thế bức hại. Chính điểm đến - quả
giải thoát hoàn toàn mà các bạn đang mong cầu lại trở thành chướng ngại, thành
phiền não cột trói sự tự tại, an lạc ở các bạn. Tại sao lại như vậy? Đây
chính là vấn đề mà các bạn phải nhận diện và tìm cách giải quyết dứt điểm vấn
đề gút mắc đó.
Năm người bạn
mơ hồ nhận ra vấn đề nhưng họ không thể nhận diện được rõ vấn đề và cả việc
“Tại sao họ bị khổ não bức hại dù rằng đã dũng mãnh xuất gia nhằm thoát khổ?”.
Họ không tìm thấy trong sự hiểu biết của họ cũng như trong kho giáo lý kinh
điển ở các tôn giáo mà họ đã từng tham cứu được câu trả lời cho vấn đề mà Phật
đã đặt ra. Sau cùng, năm người bạn lên tiếng:
- Bạch Thế Tôn!
Chúng tôi rất mong Thế Tôn chỉ rõ vấn đề mà chúng tôi bị dính mắc và giúp chúng
tôi cách thoát ra khỏi vấn đề đã gây khổ não, âu lo,… nơi chúng tôi. Thế Tôn
hãy hướng dẫn chúng tôi cách thoát khỏi luân hồi, rời xa sinh tử, đạt sự giải
thoát hoàn toàn.
Phật nói:
- Có phải chính
tâm nhàm chán khổ não nơi đời khiến các bạn xuất ly thế gian? Có phải chính tâm
mong cầu đắc quả giải thoát hoàn toàn khiến lòng các bạn bất an? Có phải chính
tâm phân biệt, tâm dính mắc,… đã khiến các bạn muộn phiền, khổ não?... Chính
tất cả những điều đó đã khiến các bạn đánh mất sự an lạc, thảnh thơi và dẫn đến
việc các bạn phải trôi lăn trong sinh tử luân hồi.
Dừng lại một
lúc, Phật tiếp tục trình bày:
- Điều gì đã
tạo ra tâm phân biệt, tâm mong cầu, tâm nhàm chán, tâm đau khổ,…? Điều gì đã
tạo ra sự khổ não và luân hồi?...
- Đó chính là
do bản ngã của các bạn, là cái tôi đầy chấp trước mà các bạn cả nghĩ là thường
tại, là còn mãi. Chính cái tôi đó đã khiến các bạn rơi vào kiến chấp Tham sân
si mạn nghi và từ đó mọi khổ não cả hai nẻo đạo đời vây kín tâm trí các bạn.
Cũng chính cái tôi dính mắc sai lầm đó đã khiến các bạn mãi chìm nổi trong luân
hồi sinh tử, tử rồi sinh với mạng lưới nhân duyên nghiệp quả vay trả, trả vay
chằng chịt, muôn trùng.
- Muốn thoát ra
mọi khổ não, sự luân hồi đạt được sự giải thoát hoàn toàn các bạn phải hành trì
buông bỏ định kiến sai lầm về cái tôi thường tại. Đó là vấn đề mà người xuất
gia muốn chứng ngộ niết bàn tịch diệt, không còn trôi lăn trong sinh tử phải
hành trì chạm đến.
- Một vấn đề
khác không kém phần quan trọng mà các bạn nhất thời chưa thể nhận diện đó là
“Tại sao lại có cái tôi trong mỗi người nơi các bạn?”. Tôi sẽ giúp các bạn mau
chóng nhận diện vấn đề nguyên nhân có sự hiện diện của cái tôi trong mỗi con
người. Đó là do vô minh, do sự hiểu biết không đúng thật về Thật Tướng và Thể
Tánh của cái tôi. Vì sự hiểu biết không thật đúng về cái tôi mà các bạn đã cả
nghĩ về sự tồn tại thường còn của cái tôi nơi các bạn - Tiểu ngã. Nhưng cái tôi
đó vốn không thường còn do vậy nên các bạn không thể thường tại. Thật tướng và
thể tánh cái tôi vốn là như huyễn, không thật có, chẳng thật không. Cái tôi vốn
vô thường, vô ngã nhưng do vọng chấp sai lầm mà các bạn cho rằng cái tôi thường
tại rồi dính mắc và từ đó có khổ não, có luân hồi, có sinh tử,…
- Và … vấn đề
của các bạn bây giờ là sẽ phải tự nhìn nhận, đánh giá lại vấn đề về sự tồn tại
của cái tôi mê lầm, không thật đúng - Cái tôi dẫn đến mọi khổ não, luân hồi nơi
các bạn. Nếu các bạn nhận thấy đó thật sự là vấn đề mà các bạn đang dính mắc
thì các bạn hãy quán chiếu lại vạn pháp, cái tôi bằng Bát chánh đạo. Các bạn
cần rõ biết sự thật để hành trì phá bỏ cái tôi mê lầm trở về vô ngã nhằm đạt
đến sự giải thoát hoàn toàn. Chỉ khi gỡ bỏ vô minh và có sự hiểu biết đúng thật
về tự tánh vạn pháp thì các bạn mới có thể thoát khỏi sự ràng buộc của cái tôi
thường tại. Khi ấy, các bạn sẽ rời xa sự điên đảo tương tục - khổ não, nhân
quả, luân hồi. Do vậy con đường mà Như Lai đã vượt qua khổ não, luân hồi sinh
tử được tôi gọi là con đường giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
…
- Tóm lại, hôm
nay tôi đã nói với các bạn bốn sự thật về con đường giác ngộ, giải thoát hoàn
toàn. Tôi gọi đó là Tứ diệu đế. Tứ diệu đế là bài pháp chứa đựng sự thật về con
đường giải thoát hoàn toàn. Tứ diệu đế trình bày rõ về sự khổ, nguyên nhân gây
ra sự khổ, cách thức diệt khổ và sau cùng là sự giải thoát hoàn toàn. Đây là
bài pháp thậm thâm, vi diệu, khó thể nhận biết, khó thấu hiểu vượt qua mọi lý
luận, tư duy chủ quan hiện tại, là bài pháp chưa từng có trước đây. Nếu các bạn
cũng như một ai đó đọc hiểu, lĩnh hội, hành trì thì tự mỗi người sẽ đạt sự giác
ngộ, giải thoát hoàn toàn. Đây là lời xác tín của Như Lai; Như Lai không nói
lời hư dối.
…
Thế đấy! Qua
một buổi trò chuyện thân mật và cởi mở Phật đã thuyết giảng cho những người bạn
về bốn sự thật nhằm đạt đến sự giải thoát hoàn toàn. Và hiển nhiên là trong một
buổi pháp thoại sẽ không thể nói rõ hết toàn phần Tứ diệu đế mà phải trải qua
nhiều buổi hỏi đáp khách quan, cởi mở thì năm anh em Kiều Trần Như mới có thể
lĩnh hội, thấm nhuần Bát chánh đạo, Tứ diệu đế và sinh khởi niềm tin bất thoái
chuyển về việc chứng ngộ sự giải thoát hoàn toàn.
Sau một khoảng
thời gian được Phật tận tình chỉ dẫn và cả việc hành trì kiểm chứng thì hành
giả Kiều Trần Như đã là người đạt sự tỏ ngộ giải thoát hoàn toàn, những người
bạn còn lại sau đó cũng chứng thành đạo quả. Sơ khởi họ đạt 1 trong 4 quả vị
Thánh, hoàn toàn thoát khổ,… về sau họ liễu ngộ niết bàn, thật sự thoát khỏi
luân hồi.
…
Tứ diệu đế được
Phật cùng môn đệ đem ra giảng giải rất nhiều lần cho những người xuất gia và
được hoàn chỉnh thành một hệ thống giáo lý thậm thâm, tinh tế, vi diệu, đúng
thật.
Tuy nhiên,
những người học Phật về sau do không thấu triệt Tâm Phật và chân nghĩa Tam Tạng
kinh đã diễn giải Tứ diệu đế một cách máy móc, cứng nhắc, không bám sát đối
tượng tham học dẫn đến giáo nghĩa Tứ diệu đế trở nên xa vời, viễn vông. Việc
dịch giải kinh sách Phật học không liễu nghĩa đã khiến người hậu học không dễ
nhận biết và lĩnh hội chánh pháp. Giáo lý Tam Tạng kinh vì thế mà nhạt nhòa,
mai một giá trị giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
Vì chút duyên
nên tôi đã trình bày lại Tứ diệu đế mà Phật Thích Ca từng thuyết giảng. Tôi sẽ
diễn giải theo lối y kinh, bám sát đối tượng là người xuất gia chân chính,
người tin nhận luân hồi và một lòng muốn tìm về sự giác ngộ giải thoát hoàn
toàn.
Chung quy lại
Tứ diệu đế đã trình bày bốn vấn đề: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
- Một là Khổ
đế. Khổ đế là sự thật chỉ bày rành rõ, mạch lạc về sự khổ, là lý thuyết đúng
thật về mọi khổ não, phiền muộn đã trói chặt kiếp người trong luân hồi sinh tử,
quy luật nhân duyên nghiệp quả. Khổ đế gồm có bát khổ - Sinh khổ, già khổ, bệnh
khổ, Tử khổ, Cầu bất đắc khổ, Ái biệt ly khổ, Oán tăng hội khổ, Ngũ ấm xí thạnh
khổ. Nội dung Khổ đế là sự tổng hợp lại giáo lý, kinh điển các tôn giáo quanh
lưu vực sông Hằng và cả ý thức, nhận thức, tư duy của người xuất gia, tại gia
thời Phật tại thế về sự khổ.
- Hai là Tập
đế. Tập đế chứa đựng sự thật về những nguyên nhân gây ra sự khổ ở con người và
chúng sinh nơi 3 cõi. Ở nội dung Tập đế Phật đã phác họa ra chuỗi thập nhị nhân
duyên - Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh,
lão tử - những mắc xích dính mắc, ràng buộc tạo ra sự luân hồi tương tục gần
như không có điểm kết thúc nơi mỗi tâm ý sự sống. Vô minh là sự hiểu biết sai
lầm, không thật đúng về Thật tướng vạn pháp, thể tánh niết bàn, sự khổ và bản
ngã,… Vô minh là cội rễ dẫn đến việc chúng sinh nơi 6 đường không ý thức được
điểm dừng lại, do không có ý thức dừng lại nên tâm ý sự sống không thể thoát ra
chuỗi sinh tử luân hồi, không đạt đến sự giải thoát hoàn toàn. Chính do hiểu
biết sai lầm về cái tôi thường tại - bản ngã mà chúng sinh nơi 3 cõi có sự tham
ái, chấp trước, tham đắm mong cầu tái sinh, hiện hữu và vô sanh - sự giải thoát
hoàn toàn. Chính do dính mắc cái tôi thường tại cùng việc mong cầu mà người
xuất gia bị khổ não và việc sinh tử luân hồi trói cột. Nội dung Tập đế là kết
quả sự chứng ngộ vạn pháp của Phật Thích Ca.
Ba là Diệt đế.
Diệt đế là sự thật về cách thức rời xa và chấm dứt mọi khổ não cũng như vòng
sinh tử luân hồi. Nội dung căn bản của Diệt đế là do rõ biết sự khổ, nguyên
nhân gây ra sự khổ là bởi yếu tố dính mắc cái tôi thường tại và sự hiểu biết
sai lầm. Vì vậy người xuất gia chân chính, một lòng cầu giải thoát hoàn toàn sẽ
hành trì buông bỏ cái tôi thường tại mê lầm, dứt tâm phân biệt, mong cầu cũng
như việc rời xa những ràng buộc tham ái, ham muốn dục vọng, chấp trước,… Muốn
chứng ngộ Diệt đế người hành giả phải “đánh đổ” vô minh để có cái biết đúng
thật về vạn pháp, niết bàn. Trợ duyên cho Diệt đế đó chính là lục độ ba la mật
- Bố thí, trì giới, nhẫn nhịn, tinh tấn và thiền định. Diệt đế cũng là kết quả
chứng ngộ của Giác giả Thích Ca Mâu Ni.
Bốn là Đạo đế.
Đạo đế là sự thật về con đường giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Người hành giả
sau khi liễu ngộ Tứ diệu đế sẽ chứng ngộ Đạo đế. Trải qua quá trình hành trì
sống thật với Diệt đế thì sự hiểu biết của người hành giả sẽ đạt đến sự thông
suốt, sáng rõ,… tâm ý phân biệt, dính mắc,… cái tôi thường tại mê lầm đã đoạn
trừ, sự vô minh không còn, dứt vọng về chân. Từ đó người hành giả không còn tâm
tham luyến sinh tử, niết bàn, sự chứng ngộ pháp vô sanh,… Vị hành giả đạt được
giải thoát hoàn toàn ngay nơi hiện kiếp. Về sau, vị hành giả sống an lạc, tùy
thuận, khi ấy hành giả không còn bị ràng buộc bởi quy luật luân hồi sinh tử,
khổ não và cả việc chứng đắc.
(Còn tiếp)
Khi liễu nghĩa Đạo đế thì người hành giả sẽ có thể tự chủ trong việc lựa chọn lối đi ở đời sau, có 2 lối đi sáng rõ để người hành giả lựa chọn.
- Một là vị
hành giả phát tâm bồ tát, hành bồ tát đạo vì chúng sinh nơi 3 cõi mà bước đi
trong lưới luân hồi, rộng truyền chánh pháp. Dù rằng người hành giả vẫn trong
lưới luân hồi nhưng không còn bị tham đắm, trôi lăn trong sinh tử, không bị khổ
não, phiền muộn bức ngặt.
- Hai là vị
hành giả sau khi chứng ngộ Đạo đế sẽ sống tùy thuận nơi hiện đời, tùy duyên phổ
truyền chánh pháp, sau khi hết kiếp mạng chung thì rời khỏi luân hồi, chính
thức thể nhập niết bàn tịch diệt.
…
Nội dung Tập
đế, Diệt đế, Đạo đế là hệ thống lý thuyết chưa từng có trước đó. Thông qua Khổ
- Tập - Diệt - Đạo, Phật Thích Ca đã chỉ ra những khiếm khuyết, những hạn chế
tồn tại có ở giáo lý kinh điển các tôn giáo quanh lưu vực sông Hằng thời xa xưa
và vô hình chung hiển bày cả sự giới hạn tri thức của nhân loại ngày nay.
Sau khi giảng
thuyết xong bài pháp thoại Phật xác tín lại lần nữa, Phật nói:
- Này các bạn!
Nếu Như Lai đã chưa hoàn toàn thấu triệt Tứ diệu đế, Bát chánh đạo một cách
sáng rõ thì Như Lai sẽ không xác nhận trước các bạn về sự chứng ngộ vô thượng,
chánh đẳng, chánh giác. Đó là cái biết thật đúng và hoàn toàn sáng rõ. Khi đã
chứng ngộ sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn Như Lai đã hoàn toàn giải thoát và
đây là kiếp sống cuối cùng của Như Lai, Như Lai sẽ dừng lại, Như Lai sẽ không
tiếp tục trôi lăn trong luân hồi sinh tử.
Quả thật là Bát
chánh đạo, Tứ diệu đế dù rất xác thực, đáng tin, gần gũi nhưng cũng vô cùng
uyên áo, thâm sâu, thật khó thấu hiểu, khó nhận thức, vượt lên mọi lý luận, tư
duy chủ quan, hẹp hòi,… Vì vậy chỉ cần có chút ít kiến chấp vụng vặt, phiến
diện,… thì con người, người hành giả, nhà nghiên cứu Phật học,… sẽ không thể
chạm đến tận cùng sự thật.
Cũng vì lẽ đó
mà trải qua hơn 2500 năm kể từ khi Phật nhập diệt đã không có một Giác giả nào
đủ tầm liễu nghĩa Tam Tạng kinh và tâm Phật. Thậm chí là cho đến hiện tại với
nguồn tri thức không ngừng được cập nhật, nâng cấp, bổ sung mà sự hiểu biết của
con người đối với Bát chánh đạo, Tứ diệu đế vẫn không thể thâm nhập, nhận thức
và thấu hiểu.
Đứng trước sự
hiểu biết khách quan, tổng thể, sáng rõ, đúng mực ở người bạn lớn của nhân loại
- Phật Thích Ca, đại diện cho tri thức nhân loại đương thời đã bộc lộ sự nhỏ
bé, lạc lõng, hẹp kém với đủ đầy sự tự ti, hoang mang, đố kỵ, hoài nghi, ngờ
vực.
…
Lời Phật thuyết
thường là những bài pháp đối trị nên tùy cơ và khế lý. Trong khi đó việc dịch
giải kinh từ lâu đã rơi vào biên kiến, nhị nguyên và không tùy thời,… Việc
truyền pháp của các vị đạo sư, người học Phật cứng nhắc đến thô ráp. Có thể nói
việc dịch giải kinh đã bị trói vào tình trạng:
“Y kinh diễn
nghĩa Tam thế Phật oan
Ly kinh nhất tự
tức đồng ma thuyết”
Người dịch giải
rơi vào biên kiến vừa bị trói y kinh, vừa bị cột ly kinh nên đã không thể diễn
giảng kinh điển đúng theo sự khế hợp với bối cảnh thực tế quá khứ cũng như sự
tùy thời ở hiện tại. Do vậy kinh điển ngày càng xa rời đời thật, đánh mất tính
khả dụng, tính thực tiễn.
Cũng lại như
vậy. Ở bộ Kinh Chuyển Pháp Luân việc diễn giải nghĩa Bát chánh đạo, Tứ diệu đế
bị dính mắc ngữ văn, Tự Điển Phật học,… sự chủ quan, cục bộ, giới hạn tỏ ngộ
của người dịch giải dẫn đến lời kinh mang tính chung chung, thiếu sự rõ ràng,
minh bạch…
Do vậy, tôi cạn
nghĩ việc dịch giải kinh điển, sách xưa cần phải xét đến đối tượng, bối cảnh xã
hội, mặt bằng tri thức và mục đích dịch nghĩa y kinh điển gốc hay giải nghĩa
cho người đương thời.
…
Lẽ ra việc diễn
giải kinh điển là nhằm vào tính khả dụng nên yếu tố người đương thời sẽ mang
tính chất quyết định, quan trọng nhất. Thế nên việc diễn nghĩa Tam Tạng kinh lẽ
ra phải chú trọng đến sự rành mạch, rõ ràng, gần gũi. Và do sự tùy cơ mà việc
dịch giải, thuyết giảng cho người xuất gia và người tại gia cần có sự sai khác,
chuyên biệt.
Tại sao có sự
diễn giải kinh sách sai khác giữa người xuất gia và người tại gia?
Vì mục đích và
đời sống của hai đối tượng này gần như khác nhau hoàn toàn. Người xuất gia là
người đã tự nguyện, chấp nhận sống đời phạm hạnh với những giới luật nhằm cách
ly, dứt trừ tham sân si mạn nghi, rời xa ngũ dục, làm Tăng bảo hộ trì chánh
pháp, sống theo bi nguyện cao cả của Phật Thích Ca. Người xuất gia vì chúng
sinh nơi 3 cõi gìn giữ cũng như rộng truyền chánh pháp và đích đến của họ là sự
giải thoát hoàn toàn.
Người tại gia
sống đời thế tục với những ràng buộc gia đình, xã hội, phải lao động để mưu
sinh. Người tại gia chưa ý thức hoặc chưa nhàm chán sinh tử luân hồi, ở nơi bể
khổ mà vẫn cảm nhận sự vui thú, đem lòng ưa thích, không muốn lìa xa. Thế nên
đích đến của người tại gia không là sự giải thoát hoàn toàn.
Đứng trước một
đối tượng còn lắm mong cầu, đam mê bản ngã với tham sân si mạn nghi, với việc
thỏa mãn vui thú dục vọng, tiền tài, danh lợi,… chưa từng có ý niệm rời xa
những luyến ái kiếp người, tạm xem người tại gia chưa hề có ý thức lìa xa sinh
tử luân hồi như là những người còn đang mê ngủ với bia rượu, men tình, món
ngon, vật lạ… mà người thuyết giảng vắn tắt, ngắn gọi diễn nghĩa về sự giải
thoát hoàn toàn thì đâu thể xem là việc làm hợp thời, tùy thuận. Đó chỉ là
những lời hư vọng, đảo điên chứ nào phải y kinh.
Vậy nên Bát
chánh đạo diễn giải cho người tại gia sẽ khác đi. Điển hình là nội dung bát
chánh đạo với đối tượng tại gia chỉ nên xoay quanh thập thiện, làm lành, lánh
dữ, cách tiết chế lòng tham, ngăn ngừa sự mê tín, cách sống bao dung, biết vì
mọi người, từ bi, bác ái,… cách sống biết buông xả, cách giảm thiểu muộn phiền,
khổ não cho bản thân, gia đình và xã hội... Yếu tố giải thoát hoàn toàn chỉ có
thể nói thoáng qua mà không cần nhấn mạnh vì việc làm trên như thể là việc dọa
dẫm, đè nén, bức bách người… Việc làm không đúng mực đó sẽ gây phản tác dụng,
tạo sự nhàm chán cũng như lập hàng rào giới hạn đạo đời. Ngoài ra, việc làm
nông nổi trên giống như là trò makerting rẻ tiền mà những người kế thừa giáo lý
của Phật Thích Ca thật không cần đến.
Một vấn đề
không kém phần quan trọng là nếu đã nói đến sự giải thoát hoàn toàn cho người
tại gia thì phải nói đến tận cùng sự khách quan, rõ ràng, mạch lạc, đúng thật.
Việc làm nhằm giúp người tại gia hoàn toàn ý thức, nhận thức được cốt lõi của
vấn đề. Vấn đề chỉ là sự lựa chọn chứ không là sự trói buộc. Thật không thể chỉ
tựa nơi Bát chánh đạo, Tứ diệu đế,… chưa trình bày rốt ráo, liễu nghĩa mà ra
sức bức bách, trói cột tư tưởng con người.
Tuy nhiên, việc
làm này cần tùy thuận, tránh rơi vào lạm bàn, hý luận và cần xác định được mục
đích của người đối thoại một cách rõ ràng, đúng mực.
Chánh pháp vốn
vô giá, ngàn lượng vàng chẳng thể mua nhưng chỉ quý đối với người cần đến, hoàn
toàn mất giá trị trong tay người cuồng vọng - những kẻ tự phụ đầy lòng tham
đắm, sân hận, si mê, hoài nghi,…
Vậy nên, Bát
chánh đạo, Tứ diệu đế cần phải diễn giải đúng mực, tùy thuận theo từng đối
tượng. Thật không thể diễn giải một cách rập khuôn, cứng nhắc và dựa hoàn toàn
vào quyển Tự Điển Phật Học cũng như dựa vào sự chủ quan, không chứng ngộ hoàn
toàn của người giảng sư. Đó chỉ là những tài liệu tham khảo của người học Phật,
người hành giả chân chính. Và những bài viết của tôi cũng không là ngoại lệ.
Tại sao không
thể dựa vào cách diễn giải “sát sườn” của bộ Tự Điển Phật Học?
Vì bộ Tự Điển
Phật Học không do Phật Thích Ca cùng những người học Phật đã tỏ ngộ hoàn toàn
viết ra. Bộ Tự Điển Phật Học ra đời do tâm ý phân biệt, chủ quan của con người
tăng trưởng. Phần lớn công đóng góp cho sự ra đời của bộ Tự Điển Phật Học là
những học giả, những nhà nghiên cứu về đạo Phật. Có thể nói là không có bóng
dáng của một vị hành giả triệt ngộ nào góp phần làm nên bộ Tự Điển Phật Học.
Vậy nên giá trị
của bộ Tự Điển Phật Học tự có giới hạn, bộ Tự Điển sẽ không thể nói đúng về giá
trị, ngữ nghĩa của những từ mà Phật đã vận dụng, đó chỉ có thể là sự gần đúng
và chung nhất. Nhưng điều đó sẽ đồng nghĩa với việc cách xa muôn trùng với sự
thật.
Nếu những vị học
giả, những nhà nghiên cứu Phật học không tự làm hành giả hoặc mở lòng ra thì có
lẽ dù trải qua thêm muôn ức chu kỳ sinh trụ dị diệt của hành tinh xanh quyển Tự
Điển Phật Học cũng chỉ là phần xác vô hồn của đạo Phật, nó gần như vô nghĩa. Và
trái tim, từ bi tâm của Phật Thích Ca theo đó sẽ nhạt nhòa, biến dạng.
Việc dịch giải
Tam Tạng kinh ở các vị học giả, hành giả dựa vào bộ Tự Điển Phật Học một cách
xơ cứng, thô ráp dẫn đến Tam Tạng kinh không lột tả được giá trị cốt lõi về sự
tồn tại một con đường giác ngộ giải thoát hoàn toàn, không ít quyển kinh sách
không liễu nghĩa trở thành những phế vật đáng vất đi. Dù vậy người học Phật vẫn
cứng nhắc tán thán, đọc tụng vì họ gọi đó là kinh Phật.
…
Tôi đã trình
bày Bát chánh đạo, Tứ diệu đế theo khuynh hướng y kinh giành cho người xuất
gia. Dường như đã không có sự hợp cơ, khế lý song những điều tôi trình bày sẽ
được phổ truyền vì vậy những người đọc sẽ có những người học Phật chân chính
một lòng cầu sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn và cả các bậc Tăng nhân, giới
xuất gia.
Thật ra vấn đề
tôi trình bày xuyên suốt trong nội dung bộ sách “Sự hiểu biết làm thay đổi nhận
thức, giá trị con người” không chỉ là Bát chánh đạo, Tứ diệu đế có ở giáo lý
đạo Phật mà tôi đang nói về sự lựa chọn mỗi người ở hai nẻo đạo đời.
Bát chánh đạo ở
người xuất gia sẽ đặt ra những giới hạn mà người tu sĩ phải nghiêm cẩn thực
hiện vì đó là chọn lựa của họ. Họ đã tự nguyện chọn lựa làm người giữ gìn và
trao truyền chánh pháp, làm thầy của Trời - Người.
Vậy nên dựa vào
Bát chánh đạo người đời sẽ dễ dàng nhận diện vị Tăng bảo có hành trì đúng chánh
pháp hay không? Là Chân sư hay Tà Tăng?...
Khi rõ biết sự
chân ngụy nơi Tăng bảo, giáo lý Tam Tạng kinh thì chánh pháp sẽ tự thường còn
và khả dụng.
Với người tại
gia thì Bát chánh đạo sẽ tùy thuận, ít buộc ràng và hợp thời hơn. Dù vậy với
chánh kiến, chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh ngữ,… sẽ giúp người đời có cuộc
sống lợi ích, thuận hòa, bác ái,… tránh rơi vào sự cực đoan của tham sân si mạn
nghi, tà kiến,…
Thử hỏi với Bát
chánh đạo, Tứ diệu đế,… mà Phật Thích Ca đã thuyết cách nay hơn 2500 năm thì
các môn khoa học, giáo dục, đạo đức, ý thức, tư duy sống của con người ngày nay
liệu có thể so bì?
Nếu con người
và tri thức nhân loại có sự khách quan, đúng mực thì phải chăng là con người sẽ
phải thừa nhận “Thật sự là không có một bộ môn khoa học hay một phương pháp tư
duy vượt trội nào của nhân loại hiện nay đạt đến sự tinh tế, đầy đủ, khách quan
và cụ thể như hệ thống tri thức nơi Bát chánh đạo”?
Đời có phải là
bể khổ không?
Nội dung Tứ diệu
đế phải chăng đã lột tả ngắn gọn, xúc tích nhất mọi khổ não nơi đời sống con
người, nguyên nhân và cách con người thoát ra những khổ não, phiền muộn để được
tiếp xúc nhiều hơn với niềm vui, sự an lạc, hạnh phúc. Giáo lý Phật Thích Ca
đâu từng phủ nhận niềm vui thường có nơi xã hội loài người. Không chỉ vậy ngón
tay chỉ mặt trăng của Phật Thích Ca còn giúp con người xây dựng cuộc sống tốt
đẹp, nhiều niềm vui hơn thì có gì sai.
…
Chỉ vì tầm nhìn
hẹp hòi, kiến thức nông cạn, tư duy kém cỏi mà loài người mà nhất là đại diện
tri thức nhân loại đã chặn đứng sự hiểu biết đúng mực, khách quan và tổng thể
của nhân loại. Rạch ròi đời đạo, nhốt giáo lý chánh pháp vào đạo Phật, lập hàng
rào cô lập với sự hiểu biết tổng thể, khách quan và sáng rõ. Một việc làm vụng về
mà chỉ cần có chút ít khách quan thì con người sẽ tự nhận ra việc làm đó tương
tự việc làm mù mắt chính mình,…
Đó là việc làm
khiến tầm nhìn của con người bị giới hạn, kéo theo sự hiểu biết, khả năng tư
duy, nhận thức bị lệch lạc, rời xa sự thật, dẫn đến vô số những sai lầm gây ra
việc hủy hoại cho chính loài người và sự sống.
Loài người với
thói quen tự phụ hơn người để rồi trở nên kém cỏi vô cùng. Cứ xem như không có
yếu tố hư huyền, sự tồn tại của thế giới tâm linh vô hình thì giáo lý nơi Bát
chánh đạo, Tứ diệu đế vẫn còn rất nhiều điều để con người và tri thức ngày nay
ra sức tham cứu, học hỏi, tin nhận và vận dụng.
Chết là hết
chăng? Hay chính trong lòng của giới khoa học và những người theo trường phái
duy vật biện chứng vẫn còn đang hoài nghi, không rõ biết? Lòng họ còn nhiều bất
an và bấn loạn, họ vẫn chưa muốn chết, họ vẫn còn nhiều việc phải làm, cần làm,
họ cần có thêm nhiều thời gian,…
Sau cùng, đứng
trước giờ phút sinh tử họ níu kéo, họ hoang mang “Chết ta sẽ về đâu?”,… Vì vậy
mà họ không dễ dàng “Chết là hết”, họ vẫn còn tồn tại trong lưới luân hồi sinh
tử với vô vàn mắc xích nhân duyên, nghiệp quả chằng chịt trả vay.
Và… nếu một
ngày nào đó trái đất bị hoại diệt mau chóng bởi lòng tham vô đáy, sự si mê
không cùng,… của con người thì đó là cộng nghiệp của toàn nhân loại. Quả gây
nên sự phá hủy, tàn hoại hành tinh xanh không chỉ do nhân là lòng tham, sự si
mê, tâm hoài nghi, lòng tự phụ,… của một số ít người hay chỉ 1 thế hệ mà đó là
tổng hợp tất cả sự yếu kém, non nớt, bạc nhược,… và ích kỷ ở số đông loài người
và trải qua rất nhiều thế hệ. Một khi loài người đồng thuận và chấp nhận cùng
gieo nhân xấu thì việc cùng nhận quả đắng âu cũng là lẽ thường. Chết chùm rồi
lại cùng ra sức góp nhặt, tích lũy, dựng xây là những việc làm còn mãi nơi ý
thức, nhận thức, tư duy ở loài người và chúng sinh nơi 3 cõi. Không sao cả!
Điều này hoàn toàn đúng với sự thật “Điểm kết thúc từ nơi khởi đầu”.
…
Tại sao tầm
nhìn, khả năng nhận thức, tư duy của con người cách nay những hơn 2500 năm lại
có sự vượt trội, hơn hẳn người đương thời?
Phải chăng sự
hiểu biết của con người đã bị lỗi ở nơi tư duy, nhận thức và tri thức chủ quan,
giới hạn? Phải chăng “Chết là hết” đã tạo ra sự tụt hậu tri thức nhân loại?
…
Giá như người
đời, đại diện tri thức nhân loại, giới quản lý xã hội có đủ sự khách quan, tầm
nhìn, nhận thức, tư duy đúng mực về giá trị đạo Phật, về Bát chánh đạo, Tứ diệu
đế,… thì xã hội loài người đâu dễ trải qua mấy phen suýt hoại diệt với đau khổ,
hận thù, chiến tranh, nước mắt, hơn thua, được và mất...
Nếu không có
một giáo lý chánh pháp giúp con người nhận ra chân tướng vạn pháp, sự tồn tại
mê lầm bản ngã trong mỗi con người thì sự hỗn mang, cuồng loạn nơi xã hội loài
người hiện nay sẽ về đâu và làm sao cứu vãn sự tồn tại của hành tinh xanh trước
lòng tham không đáy của loài người chưa đủ đầy hiểu biết?
Làm sao đối trị
lòng tham, sự si mê, sân hận, hoài nghi, kiêu mạn và chủ nghĩa thực dụng đang
tăng trưởng vượt mức trong lòng con người trên phạm vi thế giới?
Biến đổi khí
hậu toàn cầu, băng sẽ tan, dịch bệnh bùng phát, chiến tranh leo thang, xung đột
sắc tộc, tôn giáo, sự áp bức, bất công vượt mức ở mọi hình thái xã hội,… có cội
nguồn từ nơi đâu?
Lòng tham, sự
si mê, thù hận, tự phụ rởm đời,… do sự hiểu biết bị giới hạn, bị ngăn che bởi
vật chất, sự chủ quan, duy ý chí với nguồn tri thức mê lầm.
Có lẽ phổ
truyền chánh pháp chân thật đúng nghĩa ẩn tàng nơi Tam Tạng kinh sẽ là giải
pháp không dễ thay thế, không thể thay thế của loài người đương đại. Sự hiểu
biết của loài người cần chạm đến sự hiểu biết tổng thể, khách quan, xuyên suốt
3 thời - Quá khứ, hiện tại, vị lai và cả 3 cõi, 6 đường để mỗi người sẽ tự có
sự chọn lựa đúng lúc, hợp với lòng mình.
Nếu vẫn tiếp
tục che mờ sự hiểu biết khách quan, tổng thể, sáng rõ bằng sự tự ti, bạc nhược,
yếu đuối, chủ quan, hẹp hòi, phiến diện và cục bộ thì đó đã là chọn lựa nhân
loại. Loài người đã chọn lựa lối đi tiến vào Kỷ Nguyên Đổ Nát Hoàn Toàn Và Tàn
Hoại Hành Tinh Xanh.
Không sao cả.
Chẳng ai bị mất đi. Tất cả chỉ là sự bắt đầu lại. Từ chút một mỗi tâm ý sự sống
chưa phá bỏ cái tôi thường tại sẽ lần dò tìm kiếm, góp nhặt lại hình hài, vóc
dáng, cảm giác, tri giác, sự hiểu biết và cả sự đau khổ lẫn niềm vui,…
Lẽ ra con người
nên có đủ sự hiểu biết cho chọn lựa của chính mình. Nếu những ai tình cờ biết
đến một sự chọn lựa thì có lẽ hãy nên chọn lựa lối đi cho riêng mình. Vòng quay
luân hồi nơi hành tinh xanh sẽ không ngừng và mỗi một tâm ý sự sống luôn tiếp
tục trôi lăn cho đến khi nhận diện và ý thức về sự dừng lại.
Trong mỗi quá
trình góp nhặt hình hài, nhất là việc góp nhặt từ bụi vũ trụ thì đó là một quá
trình dài đăng đẳng, đầy lao nhọc, gian truân và có cả yếu tố khổ não, muộn
phiền. Tuy nhiên, đó chỉ là một cuộc chơi mà mỗi người tự chọn lựa cho chính
mình những vòng tròn huyễn hoặc, kỳ bí,… Và những vòng tròn sinh tử cứ quay mãi
cho đến khi mỗi tâm ý sự sống ý thức đến sự dừng lại và tìm được cách phá vỡ sự
vô minh, sự hiểu biết không đúng thật về vạn pháp, về cái tôi thường tại.
…
Việc diễn giải
Bát chánh đạo, Tứ diệu đế tôi đã phần nào khôi phục lại bản gốc thời hơn 2500
năm về trước. Hiển nhiên là việc diễn giải sẽ không được vẹn toàn như thật
nhưng chí ít việc làm đó sẽ mở lối cho việc dịch giải kinh điển phóng khoáng,
mạch lạc, tùy thời và khế hợp hơn.
Chỉ bằng vào
việc loại bỏ yếu tố hư cấu, huyền hoặc, bí ảo,… nơi Tam Tạng kinh thì mỗi người
sẽ tự nhận diện được giá trị đúng mực, sáng rõ của giáo lý chánh pháp. Một khi
nhận diện được ngón tay chỉ mặt trăng thì mỗi người sẽ rõ biết về con đường đạt
đến sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Khi nắm bắt được sự thật có nơi Tam Tạng
kinh thì mỗi người sẽ tự chọn lựa cho mình một lối đi phù hợp và khách quan.
…
Tôi không hề có
ý định diễn giải lại Tam Tạng kinh. Tôi biết sự vụng về, kém trí của cá nhân sẽ
không tương hợp với vai trò của một học giả. Tôi càng không hão huyền mơ tưởng
vị trí của một hành giả, tôi thật khá lắm điều nên không hợp làm hành giả đúng
nghĩa.
Tôi chỉ tạm xem
mình như là một người khách. Là một người khách, tôi sẽ có đến và đi. Nếu có sự
tương hợp, hữu duyên thì tôi sẽ trả lời những điều mà bạn chưa rõ ở cả hai nẻo
đạo đời, nhất là khi bạn đặt ra những câu hỏi về những vấn đề cần biết. Tôi sẽ
không mãi làm một nghệ sĩ cô độc, kém cỏi vừa hát, vừa đánh đàn. Tôi sẽ dừng
lại khi nhận ra cung đàn lạc điệu hoặc bản tình ca đã chạm đến những giai điệu
cuối.
Đồng thời, tôi
cũng sẽ là một người chủ. Là người chủ, tôi sẽ đến đi như chưa từng đến đi. Đây
cũng là kiếp sống cuối cùng của tôi trong vai diễn là một người khách. Mai này,
đoạn đời còn lại dù tại thế hay xuất gia, dù làm gì hay ở đâu thì tôi cũng sẽ
tự chấm hết những vòng tròn bí ảo đã bao lần cột trói chính tôi trên muôn nẻo
đạo đời nơi 3 cõi 6 đường.
Cả đời tôi hoặc
chí ít là cho đến thời điểm hiện tại tôi thật sự không hề lo sợ sự hiểu biết
của tự thân kém cỏi hơn người. Nếu có người đạt sự hiểu biết về 3 cõi, 6 đường,
quy luật luân hồi và cách thức thoát khổ, giải thoát hoàn toàn vượt trội hơn
tôi thì thật là tốt. Ngọn đuốc chánh pháp của Phật Thích Ca đã có người gìn giữ
và khêu sáng. Nếu điều đó xảy ra thì nhân loại, muôn loài và hành tinh xanh đã
được cứu.
Tôi thật sự rất
trân trọng và thầm cảm ơn những người bạn đã dùng sự hiểu biết khách quan, tổng
thể soi rọi, xét lại tính đúng mực, tính khả dụng của giáo lý Tam Tạng kinh.
Và… vì giá trị chánh pháp, từ bi tâm của Phật Thích Ca, sự hỗn độn, cuồng loạn,
đảo điên, mất phương hướng ở loài người hiện nay mà phổ truyền lan tỏa sự hiểu
biết và sự thật về con đường giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
Điều quan trọng
hơn cả là nếu bạn nhận ra chút ít giá trị nơi Tam Tạng kinh thì bạn hãy sống
với điều đó.
Phải chăng với
Bát chánh đạo, Tứ diệu đế,… thì Bước ngoặc lịch sử nơi sự hiểu biết
khách quan, sáng rõ, tổng thể và đúng mực của nhân loại đã được khai mở cách
đây những hơn 2500 năm?
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét