Nhân Sự Kiện Chùa Ba Vàng Nói Chuyện Vong - Tương Tác Phật Học Online
Thứ Sáu, 5 tháng 4, 2019
Liên quan đến Pháp Thỉnh Oan Gia Trái Chủ ở
chùa Ba Vàng, vấn đề có không sự tồn tại của vong đã người khuất, có không hiện
tượng vong nhập vào người đang sống,… đây là những vấn đề tâm linh đã và đang
được sự quan tâm đặc biệt của rất, rất nhiều người ở thời điểm hiện tại.
Có thể nói việc rạch ròi có hay không có cái
được giả lập gọi là vong sẽ là nút thắt tâm linh ở một số lượng không nhỏ người
học Phật. Và khi tháo gỡ được nút thắt tâm linh quan trọng này người học Phật
sẽ có nhiều hơn cơ may trong việc tiếp cận giáo lý chánh pháp giác ngộ giải
thoát khách quan, sáng rõ.
Về hiện tượng vong nhập có rất nhiều luận điểm
khác nhau để lý giải vấn đề, song tựu trung lại thì chia làm hai luồng tư tưởng
chính. Luồng tư tưởng thứ nhất cho rằng có hiện tượng vong nhập, luồng tư tưởng
thứ hai thì luôn chấp chặt kiến thủ rằng không có linh hồn tức là không có
vong.
Đến với trang TTPHO, bạn sẽ có câu trả lời có
hay không có hiện tượng vong nhập một cách rạch ròi, sáng rõ nhất. Để rạch ròi
việc có hay không có vong Ngạo Thuyết chính thức khẳng định rằng có linh hồn
tức là vong thật sự có tồn tại.
Hiện nay, có rất nhiều người học Phật hãy còn
si mê chấp thủ rằng không có linh hồn, họ khẳng định niềm tin kiên cố không có
linh hồn bằng lập luận kinh điển Nykaya tức bộ kinh nguyên thủy ghi nhận lời
Phật nói đã viết rành rõ không có linh hồn. Những người học Phật này đã tự trói
mình vào biên kiến Đoạn kiến mà không hề hay biết.
Do chấp thủ lời Phật luôn đúng, luôn là chân lý
nên những người học Phật này đánh mất cơ may nhận diện sự thật, do chấp thủ sâu
nặng nên những người học Phật này không mở lòng ra nhìn nhận, nhận diện bối
cảnh, nguyên nhân Phật Thích Ca lập ngôn – Không Có Linh Hồn.
Bối cảnh dẫn đến việc Phật Thích Ca nói không
có linh hồn là do ngoại đạo đến tham vấn cùng với chấp thủ rằng linh hồn trường
cửu tồn tại vĩnh viễn, cụ thể là nếu quy thuận ngoại đạo, thuần phục Đấng Phạm
Thiên Brahman thì tín đồ khi chết đi tiểu ngã (Atman) của tín đồ đó sẽ về cộng
trú mãi mãi với đại ngã (Brahman), đây là một trong 62 tà kiến ngoại đạo mà ở
kinh Phạm Võng, Phật đã chỉ rõ chỗ kém khuyết, nông cạn. Chuỗi hệ thống tôn
giáo Nhất Thần Giáo (cụ thể là Công Giáo, Hồi Giáo) đều tin rằng sống, phục
tùng Đấng Quyền Năng Chân Chủ thì chết sẽ về với nước Thiên Đàng sống đời với
Chúa, với Thánh Alah. Luận điểm của ngoại đạo Nhất Thần Giáo mở ra một nhận
thức nơi tín đồ là có một linh hồn trường cửu Brahman đang chờ đón tiểu ngã
(Atman) của tín đồ. Chấp thủ này thuộc về Thường kiến của ngoại đạo.
Tương tự như vậy ở một hệ thống tôn giáo khác
thì lại chấp giữ kiến thủ rằng loài người chết rồi tái sinh thành con người,
loài vật chết tái sinh thành con vật; Giống loài nào cũng vậy chết rồi sẽ tái
sinh theo đúng với chủng loài đó, đây cũng là một dạng tà kiến chấp thủ linh
hồn bất tử. Chấp thủ này cũng thuộc về Thường kiến của ngoại đạo.
…
Chính do nhận biết đấy là tà kiến nên Phật
Thích Ca mới xác quyết rằng Không Có Linh Hồn. Và cụm từ linh hồn này khi xét
cùng với bối cảnh phá kiến thủ Thường kiến ngoại đạo ở Phật Thích Ca thì người
học Phật sẽ phải hiểu được rằng Phật đang nói đến sự có hay không có linh hồn
trường cửu, do đó câu nói Không Có Linh Hồn lẽ ra phải được người học Phật hiểu
đúng là Không Có Linh Hồn Trường Cửu.
Đáng tiếc là có không ít người học Phật nông
nổi, cạn nghĩ nghe, đọc kinh Phật đến câu Không Có Linh Hồn liền tin nhận rằng
Phật xác tín Không Có Linh Hồn rồi từ đó chìm sâu vào tà kiến – Đoạn kiến.
Người học Phật u mê, dính mắc Đoạn kiến - Không Có Linh Hồn với một tri, một
giải đã đem gieo rắc kiến thủ lầm lạc, ngu xuẩn ấy đến với tất cả mọi người.
Và những người học Phật nông cạn, lười nhận
thức, tư duy đã cả tin, vội vàng khuếch tán tri kiến Phật học lầm lạc ấy đến
muôn nơi. Người học Phật mà như thế thì quả thật là đã cô phụ chính mình và phí
hoài tâm bi mẫn khôn cùng của Phật Thích Ca.
Lời Phật Thích Ca lưu xuất từ trung đạo, đâu
từng rơi vào hay kẹt lại nơi biên kiến nhị nguyên Đoạn – Thường. Thế mà những
kẻ học Phật vô tri, vô trí đã không tự biết mình lại rơi vào tà kiến, gieo rắc
Đoạn kiến mê lầm đến tất cả mọi người, và điều này sẽ khiến người học Phật khó
thể chạm đến tri kiến Phật.
Không Có Linh Hồn là Đoạn kiến nguy hại, Không
Có Linh Hồn tương tợ như quan điểm Chết Là Hết. Với Đoạn kiến này thì pho Tam
Tạng giáo điển sẽ chỉ còn là một mớ giấy vụn cũ nát và đáng vứt đi bởi lẽ Không
Có Linh Hồn, Chết Là Hết thì luân hồn không có, nhân quả trả vay chẳng lập,
giáo lý về sự giải thoát hoàn toàn trở thành vô nghĩa và 49 năm bi mẫn dấn thân
ở các nước quanh lưu vực sông Hằng của Phật Thích Ca hoàn toàn vô ích.
Lại có người học Phật nương nơi câu nói Không
Có Linh Hồn liền cho rằng hiện tượng vong nhập là thuộc về ngoại đạo, đạo Phật
chính thống không thừa nhận việc có vong. Việc vong nhập là hiện tượng có thật
và rất nhiều người đã từng tiếp cận, nhìn thấy người bị vong nhập vào thân xác
người sống, đây là sự thật. Chính vì vậy nên người học Phật đúng mực không thể
lập ngôn khiêng cưỡng rằng vong thuộc về ngoại đạo, đạo Phật chính thống không
thừa nhận có sự tồn tại của vong.
Những người chấp thủ tri kiến mê mờ này lại y
tựa lập ngôn tứ đại giai không nên khi con người chết tứ đại trả về đất nước
gió lửa. Đây là lời của người si, người mộng nói lời mê. Chẳng biết lập ngôn tứ
đại giai không chẳng do Phật khẩu truyền mà đây chỉ là lời của người học Phật
đời sau xác lập.
Vả lại dù chấp thủ tứ đại giai không nhưng liệu
có mấy ai nơi hiện đời chấp thủ tứ đại giai không mà có thể sống đúng với tinh
thần tứ đại giai không hay chính họ cũng đang còn đó với những tranh giành, hơn
thua, được mất. Người học Phật miệng nói tứ đại giai không liệu có thể chịu
đựng được mấy gậy của lão thiền sư mà xác quyết, nói như đúng rồi rằng tứ đại
giai không.
Những người học Phật rơi vào tà kiến Không Có
Linh Hồn dễ thường bị trói vào nhận thức, tư duy chủ quan, phiến diện. Họ chỉ
tin vào những điều mắt thấy, tai nghe, thân xúc chạm được, do chấp thủ nên họ
quên rằng Không Khí là dạng vật chất không thể nhìn thấy, không thể nghe thấy,
và việc sờ chạm cũng không đến được.
Nếu bạn có dịp gặp những người rơi vào Đoạn
kiến - Không Có Linh Hồn, những người có tầm nhận thức ở mức chỉ tin những điều
mắt thấy, tai nghe hay sờ chạm được bạn hãy hỏi họ rằng “Thế cái bản tâm của
chính họ, họ có thể nhìn thấy, nếm ngửi hay sờ chạm được không?”, bạn chỉ hỏi
thế thôi và đừng trông chờ câu trả lời từ họ. Hãy cứ để họ chênh chao tự hỏi
lòng cách để mà họ nhận diện tâm mình.
Người học Phật có sự tìm tòi kinh sách hẳn
không lạ gì câu nói “Thà rằng chấp Có như núi Tu Di hơn là chấp Không dù chỉ
bằng hạt cải”. Lời cảnh tỉnh này của tiền nhân cho thấy rằng việc chấp Không là
rất nguy hại. Người rơi vào chấp Không dễ thường bị cuốn trôi vào Tham Sân Si
Mạn Nghi, họ sẽ bất chấp thủ đoạn để đạt được mục đích, coi thường nhân quả,
sống thực dụng đến mức thấp hèn.
Người rơi vào chấp Không dễ thường sống buông
thả, bất chấp luân thường đạo lý và sẽ là mối họa hại cho xã hội loài người.
Chính vì thế những người gieo rắc tà kiến Không Có Linh Hồn, Chết Là Hết chính
thật là những kẻ học Phật vô tri, vô trí, là phản đồ của đạo Phật.
Do vậy bất kể người học Phật nào dù là Tăng Bảo
hay kẻ tục mà xác quyết không có linh hồn cũng đều là xác chết chốn Phật môn,
họ là những kẻ vô não, thiểu năng tri kiến Phật.
Với những vị Tăng Bảo đăng đàn giảng giải Phật
pháp mà mở miệng nói Không Có Linh Hồn, gieo rắc tà pháp Đoạn kiến thì đại
chúng học Phật vì nhớ nghĩ đến tâm bi mẫn của Phật Thích Ca mà lôi cái thây ma
đó ra khỏi pháp đàn, luận cho thây ma vô trí đó biết rằng Không Có Linh Hồn thì
luật nhân quả, việc luân hồi đã hoàn toàn không có, nếu đúng thật như thế thì
pho Tam Tạng giáo điển chẳng lập,… Vậy ông còn rao giảng cái gì mà thừa sự cúng
dường Y bát, vật thực, tiền của nơi đàn na tín thí?
Tăng Bảo học Phật mà không sáng tỏ giáo lý, lầm
nhận tà kiến rơi vào chấp Không thì nên tự biết phận, chớ nên đăng đàn thuyết
pháp độ sinh.
Thiền sư Từ Đạo Hạnh có thơ cảnh tỉnh hậu nhân
rằng:
Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này đều không
Có không bóng nguyệt dòng sông
Ai hay không có , có không thế nào?
…
Vong là gì? Vong, hương linh, thần thức, thân
trung ấm, linh hồn,… tất cả những danh từ đấy đều chỉ là tên gọi của cùng một
đối tượng. Và đối tượng này chính là sự sống sau cái chết. Có không việc tồn
tại của sự sống sau cái chết?
Ngạo Thuyết là người chính thức khẳng định lại
rằng chủ thuyết Chết Là Hết là một quan niệm sai lầm, Chết Là Hết là một nhận
thức nông nổi, một tư duy cạn cợt của tri thức nhân loại ở một thời điểm còn
rất u mê, mờ mịt và chủ quan. Do đó, Ngạo Thuyết xác quyết rằng sự sống sau cái
chết là có tồn tại.
Và để mọi người dễ dàng nhận diện, tự tri sự
sống sau cái chết Ngạo Thuyết sẽ dùng một cụm từ mới mẻ, khoa học, hiện đại hơn
để thay thế những danh từ vong, linh hồn, thần thức, thân trung ấm,…
Cụm từ Tâm Ý Sự Sống sẽ thay thế những danh từ
vong, linh hồn, thần thức, thân trung ấm,… Ngạo Thuyết hy vọng sự canh tân ngôn
từ Phật học này sẽ giúp các bạn dễ dàng tiếp cận hơn về nhân duyên, nghiệp quả,
luân hồi, giải thoát.
Sở dĩ Ngạo Thuyết dùng cụm từ Tâm Ý Sự Sống là
để giúp mọi người nhận diện nguyên nhân của sự sống mãi hoài tiếp diễn luân
chuyển, sự sống không dễ dàng Chết Là Hết. Và nghiệp đã dẫn dắt thần thức tái
sinh nơi 6 nẻo rạch ròi như thế nào thông qua cụm từ Tâm Ý Sự Sống.
Có một sự thật là con người và muôn loài luôn
mong mỏi được sống, sống hoài, sống mãi. Phần đa trong tâm thức con người luôn
mong muốn điều đó, thực tế là không một ai muốn chết rồi là không còn gì cả,
sâu thẳm tận đáy lòng nơi mỗi người đều không mong rằng chết là sự kết thúc
chấm hết, chết là hết hoàn toàn.
Thực tế là chỉ có những người chứng ngộ pháp vô
sanh mới có đủ sự điềm tỉnh nhận diện sự luân hồi nhân vay, quả trả với những
muộn phiền giăng giăng cùng sự lẩn quẩn, và chỉ khi đó người chứng ngộ mới có
sự quyết đoán thoát ly khỏi giấc mộng vô minh mê lầm.
…
Ngay nơi hiện đời có biết bao người vì muộn
phiền, oán thù, nợ nần vây quanh đến cùng quẩn, và trong sự mệt mỏi, chán
chường đó có lắm kẻ chỉ muốn được chết đi cho rảnh nợ đời, cho giải thoát. Song
con người vốn dĩ cũng chẳng dễ dàng gì tìm đến được với cái chết, do đó họ vẫn
phải sống với những khốn cùng, và có không ít người trong số đó phải cố bấu
víu, nương tựa vào các hệ thống tôn giáo cũng như người thân cho đến một lúc
nào đó họ dần lấy lại tinh thần để tiếp tục sống. Khi đã thoát khỏi sự quẩn
bách họ sẽ thấy cuộc sống đáng quý, đáng gìn giữ và họ nghĩ lại rằng nếu ngày
trước tìm đến cái chết thì thật là nông nỗi vô cùng. Điều này cho thấy con
người và muôn loài luôn chứa giữ sự ham sống, sợ chết một cách kiên cố, vững
vàng.
Và trên đường đời bạn dấn thân có bao người
sống một cuộc đời điên loạn, bệnh tật hết phương cứu chữa,… và kia nữa những cụ
già neo đơn cùng cực, những đứa trẻ tật nguyền với chiếc đầu to cùng với một
thân hình teo tóp, bất động. Sẽ có những mảnh đời bất hạnh mà khi bạn bắt gặp
thì khởi từ lòng từ bi bạn mong rằng họ sẽ có thể sớm chết để thoát khỏi những
bất hạnh đó. Song với những người con người đó, từ sâu trong tâm thức họ vẫn
mong rằng được sống.
…
Do đó, có một sự thật gần như là tuyệt đối rằng
sự sống nơi mỗi người, mỗi loài luôn mong được sống, và tâm ý chết sẽ không là
hết luôn ấp ủ trong tâm thức mỗi người. Tất cả những ý niệm ham sống, cũng như
tánh hạnh huân tập được khi còn sống sẽ được lưu giữ, chất chứa nơi tâm khảm
mỗi người; Điều này định hình nên bản ngã – cái tôi ở mỗi người.
Do không chấp nhận việc chết là hết ở nơi tâm
thức mỗi người cho nên dù rằng tâm thức có bị nhồi sọ tư tưởng Chết Là Hết
trong suốt cả cuộc đời thì nguyện vọng được sống vẫn luôn hiện hữu trong mọi
người và mọi loài. Thế nên Tâm Ý Sự Sống sẽ vẫn luôn tồn tại dù rằng tri thức
nhân loại có thừa nhận hay không thừa nhận. Đó là sự thật về sự sống nơi 3 cõi
6 đường, đó là bản chất của sự sống, và là yếu tố mang tính sống còn của sự
sống nơi vũ trụ.
Kết quả là do chấp giữ sự sống còn mãi nên thần
thức người chết sau khi rời thân xác cứ quẩn quanh, tiếc nuối về những việc làm
còn dang dở, những gia sản tích góp được, này vợ, này con, kia chồng, đó ông
bà, con cháu,…
Cái thần thức còn lại đó ngoại đạo đặt tên là
vong, là linh hồn, những người chấp thủ tri kiến Phật gọi là Thân trung ấm,
Thần thức và Ngạo Thuyết cũng cho nó một cái tên gọi là Tâm Ý Sự Sống. Hẳn là
các bạn ít nhiều đã nhận diện được cái gọi là vong, là Tâm Ý Sự Sống. Đó chính
là Sự Sống Sau Cái Chết Ở Mỗi Người, Mỗi Loài.
Thật ra là ngay khi mỗi người, mỗi loài mang
thân xác hữu hình hoặc vô hình chết đi thì liền đó sự sống sau cái chết lưu
xuất. Nói theo một cách khác là khi có phát sinh một cái chết, thì ngay lập tức
sẽ có một sự tái sinh tiếp nối từ sự sống trước đó. Và tùy theo Tâm Ý Sự Sống
chấp thủ mà phân định ra sự sống đó tồn tại ở dạng vong, linh hồn, thân trung
ấm, hay thần thức. Và bao giờ cũng vậy chúng sinh mang xác thân vật chất khi
chết đi, trước khi tìm được một xác thân vật chất mới đều phải trải qua giai
đoạn sự sống ở dạng không có thân xác vật chất.
Và thời gian tồn tại của vong, của Tâm Ý Sự
Sống ở mỗi người, mỗi loài ở trạng thái không thân sẽ là lâu hay mau, nhanh hay
chậm là tùy thuộc vào kiến thủ cũng như sự hiểu biết nơi mỗi người. Và yếu tố
duyên có tính chất quyết định đặc biệt đối với việc luân chuyển của Tâm Ý Sự
Sống. Tánh hạnh huân tập nơi Tâm Ý Sự Sống là điều kiện cần, yếu tố duyên là
điều kiện đủ để xác lập sự tái sinh ở các dòng tâm thức.
Câu hỏi đặt ra là vong hay Tâm Ý Sự Sống sẽ tồn
tại như thế nào khi ở trạng thái không thân? Phải chăng vong sẽ tồn tại ở dạng
4 dạng không thân – cõi Trời, cõi Atula, cõi Địa ngục và cõi ngạ quỷ mà kinh
Phật thường nói đến?
Sự thật việc tồn tại vong – chúng sinh nẻo
không thân không hoàn toàn đúng như y kinh Phật thuyết. Bởi do vạn pháp quy tâm
nên khi Phật thuyết pháp sẽ tùy theo tâm thức, tánh hạnh, sự hiểu biết của
người học Phật đương thời mà chỉ bày.
Khi Phật thuyết 3 cõi 6 đường luân hồi là Phật
đã tóm gọn lại sự chia chẻ các cõi giới vô hình vốn rất đỗi phức tạp, rối rắm ở
giáo lý, luận thuyết ngoại đạo. Việc giản lược các cõi giới vô hình của Phật là
nhằm mục đích giúp người học Phật dễ dàng hơn trong việc nhận diện các cõi giới
ngõ hầu dễ nắm bắt được giáo lý giải thoát hoàn toàn. Và trong nỗ lực giản lược
các cõi giới ấy cùng với sự mộc mạc cũng như trình độ tri thức tâm linh hãy còn
đơn thuần người học Phật thuở Phật Thích Ca tại thế hoàn toàn có thể “nắm bắt”
được Tam giới.
Và hiển nhiên là bước đầu truyền trao giáo lý
giác ngộ giải thoát sẽ không chia chẻ cõi Trời, cõi Atula, cõi Địa ngục, cõi
Ngạ quỷ ra rất nhiều, rất nhiều tầng bậc khác nhau. Các cõi giới vô hình thời
Phật Thích Ca tại thế sẽ không được đi sâu vào việc chia chẻ, phân tầng bởi lẽ
điều đó là dính mắc, là triền phược và điều đó không mang lại sự giác ngộ giải
thoát.
Về sau, sau khi Phật nhập diệt lâu xa thì cùng
với việc không chứng ngộ giáo lý đạo Phật bị đem ra mổ xẻ, hý luận, lạm bàn.
Các cõi giới vô hình được phân tầng một cách duy ý chí, chủ quan và trở nên
phong phú, đa dạng.
Và khi đạo Phật lan truyền đến các vùng miền
lãnh thổ, quốc gia khác thì giới chính trị và người học Phật thời chế độ phong
kiến cực thịnh đã nhúng tay vào lũng đoạn giáo lý Tam Tạng kinh. Đất nước Tây
Tạng, Trung Quốc, Việt Nam,… đã cải sửa, canh tân các cõi giới vô hình theo
nguyên tắc răn đe, cai trị, khuất phục tín đồ Phật tử.
Nhìn vào tổ chức về lý thuyết của 18 tầng địa
ngục do Phật giáo Trung Hoa lưu bố với một sự khách quan, đúng mực người học
Phật sẽ thấy một đế chế vương triều phong kiến chặt chẽ với những vị Chúa ngục
ở các điện Diêm La là những công thần, danh tướng, đế vương có thật nơi đất
nước Trung Hoa, và họ sẽ cùng đám lâu la, lũ đầu trâu, mặt ngựa quản giáo,
trừng phạt chúng sinh nẻo địa ngục. Hiển nhiên là sự chia chẻ các cõi giới vô
hình này hoàn toàn không đúng với giáo điển nguyên thủy nơi đạo Phật ở Ấn Độ.
Tuy nhiên, những tư tưởng về cõi giới vô hình
đó sẽ được các vương triều Trung Quốc cùng với những Tăng Bảo quy thuận triều
đình ra sức nhồi sọ người học Phật lẫn người dân Trung Hoa suốt một khoảng thời
gian rất lâu xa.
Và khi tàng thức con người ghi nhận, chấp nhận
rồi thừa nhận sẽ dẫn đến một kết quả là vong, linh hồn người chết tùy vào lỗi
lầm mắc phải ở hiện đời mà đọa lạc ở các tầng địa ngục khác nhau. Đây là kết
quả có thật bởi cảnh do tâm sinh.
Phật giáo Trung Quốc không chỉ trói nhận thức
người dân Trung Hoa cổ vào những si mê, lầm lạc mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến
các vùng miền lãnh thổ mà triều đình phong kiến Trung Quốc đô hộ, chiếm đóng.
Việt Nam là một trong những nước bị xâm thực, đồng hóa về những lầm lạc tâm
linh do Trung Quốc chi phối.
Các bạn hãy nên nhớ rằng vạn pháp quy tâm, cảnh
do tâm sinh sẽ vẽ lên hiện cảnh dù là ở đời thật hay ở cõi giới vô hình. Chấp
thủ, ngã kiến lầm lạc chính là gốc để dựng ra những cõi giới tâm linh vô hình
bất định. Ba cõi sáu đường chỉ là một pháp phương tiện mà Giác Giả lập ra để mở
lối cho người mê.
Khi Phật giáo du nhập Trung Hoa, do ngộ nhận
niết bàn là có nơi chốn để về người học đạo Trung Hoa đã lập ra cõi Tiên là cõi
đối trọng với niết bàn nhằm thể hiện lòng tự tôn dân tộc. Bởi do vạn pháp duy
tâm nên cõi Tiên được xác lập nơi Tam Giới. Tuy nhiên, cõi Tiên cũng là một cõi
nơi Tam Giới và cũng sẽ hạn cuộc ở quy luật luân hồi có đến, có đi.
Và cũng do bởi vô minh người học Phật đời sau
mới vẽ vời ra bản đồ thập pháp giới, trong đó ngoài 6 pháp giới cõi Trời,
Người, Atula, Súc sinh, Ngạ quỷ, địa ngục còn có thêm 4 pháp giới là pháp giới
Thanh Văn, pháp giới A la hán, pháp giới Bồ tát, pháp giới Phật. Bản đồ thập
pháp giới là minh chứng cho sự vô minh tham đắm được hiện tồn bởi lẽ nếu có cõi
giới nào lập nên thì cũng đều thuộc về Tam giới và hiển nhiên cõi giới đó sẽ
chịu chi phối của quy luật sinh tử luân hồi.
…
Nếu việc phân chia 3 cõi 6 đường thành nhiều
tầng bậc cõi giới khác nhau theo lối triều đình phong kiến Trung Hoa không đúng
với Phật giáo nguyên thủy thì sự tồn tại các hình thái vong hay nói cách khác
là Tâm Ý Sự Sống sẽ như thế nào và chúng sẽ luân chuyển qua lại ra sao?
Theo Thường kiến ngoại đạo ở đất nước Ấn Độ chế
định rằng thần thức sẽ tồn tại ở rất nhiều tầng bậc khác nhau. Sự phân chia
tầng bậc các cõi giới vô hình ở mỗi hệ thống tôn giáo khác nhau sẽ có sự chế
định khác nhau. Song tựu trung lại các tầng giới vô hình sẽ được mô tả mường
tượng như sau:
“Khi chết, ta bước qua cõi trung giới và cõi này
gồm có bảy cảnh khác nhau. Mỗi cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh
mà ta gọi là chất "Dĩ thái." Tùy theo sự rung động (vibration) khác
nhau mà mỗi cảnh giới (Astral plane) một khác. Tùy theo vía con người có sự
rung động thanh cao hay chậm đặc mà mỗi người thích hợp với một cảnh giới, đây
là hiện tượng "Ðồng thanh tương ứng" mà thôi.
Khi vừa chết, thể chất cấu tạo cái vía được sắp
xếp lại, lớp thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng trọc bọc phía ngoài, điều này cũng
giống như một người mặc nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo lót mặc ở trong, áo
choàng dầy khoác ngoài. Vì lớp vỏ bọc bên ngoài cấu tạo bằng những nguyên tử
rung động chậm và nặng nề, nó thích hợp với các cảnh giới tương ứng ở cõi âm và
con người sẽ đến với cảnh giới này.
Sau khi ở đây một thời gian, lớp vỏ bao bọc bên
ngoài dần dần tan rã giống như con người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra, tùy
theo các lớp nguyên tử bên trong mà họ thích ứng với một cảnh giới khác. Cứ như
thế, theo thời gian khi các áp lực vật chất tan rã hết thì con người tuần tự
tiến lên những cảnh giới cao hơn. Ðiều này cũng giống như một quả bóng bay bị
cột vào đó những bao cát mỗi lần cởi bỏ được một bao thì quả bóng lại bay cao
hơn một chút cho đến khi không còn bao cát nào thì nó sẽ tự do bay bổng.
Trong bảy cảnh giới của cõi âm thì cảnh thứ bảy
có rung động nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các vong linh bất hảo, những kẻ
sát nhân, người mổ sẻ súc vật, những cặn bả xã hội, những kẻ tư tưởng xấu xa,
còn đầy thú tánh. Vì ở cõi âm, không có thể xác, hình dáng thường biến đổi theo
tư tưởng nên những kẻ thú tánh mạnh mẽ thường mang các hình dáng rất ghê rợn,
nửa người, nửa thú. Những người thiếu kiến thức rõ rệt về cõi này cho rằng đó
là những quỷ sứ. Ðiều này cũng không sai sự thật là bao nhiêu vì đa số những
vong linh này luôn oán hận, ham muốn, thù hằn và thường tìm cách trở về cõi
trần. Tùy theo dục vọng riêng tư mà chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng, dĩ
nhiên người cõi trần không nhìn thấy chúng được.
Những loài ma đói khát quanh quẩn bên các chốn
trà đình tửu quán, các nơi mổ sẻ thú vật để tìm cách rung động theo những khoái
lạc vật chất tại đây. Khi một người ăn uống ngon lành họ có các rung động,
khoái lạc và loài ma tìm cách hưởng thụ theo tư tưởng này.
Ðôi khi chúng cũng tìm cách ảnh hưởng, xúi dục
con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non nớt. Những loài ma dục tình thì
quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn rung động theo những khoái lạc của người
chốn đó và tìm cách ảnh hưởng họ. Nếu người sống sử dụng rượu, các chất kích
thích thì ngay trong giây phút mà họ không còn tự chủ được nữa, các loài ma tìm
cách nhập vào trong thoáng giây để hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa.
Vì không được thỏa mãn nên theo thời gian các dục vọng cũng giảm dần, các
nguyên tử nặng trọc cũng tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích hợp với
một cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên cõi giới tương ứng. Dĩ nhiên, một người
có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở cõi này mà thức tỉnh ở một
cõi giới tương ứng khác.
Tùy theo lối sống, tư tưởng khi ta còn ở cõi
trần mà khi chết ta đến những cảnh giới tương ứng, đây chính là định luật
"Ðồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.".
…
Đây là lược trích về cách phân chia cõi giới vô
hình ở sách Hành Trình Về Phương Đông do tác giả Nguyên Phong phóng tác.
Ngoài ra, ngoại đạo còn phân chia các cõi giới
vô hình dựa trên nền tảng lý thuyết năng lượng hoặc ánh sáng với những lối lập
luận có phần tương tợ như trên.
Song nhìn chung việc phân chia cõi giới ở ngoại
đạo đa phần đều rất chủ quan và võ đoán. Thực tế là Tâm Ý Sự Sống tồn tại nơi
cõi giới vô hình rất đa thù, đa biến, ngụy dị và không thể chế định tuyệt đối.
Chính vì vậy mọi phương thức chia chẻ, chế định các cõi giới vô hình đều không
đúng với thực tế vốn rất sinh động, ảo hóa ở các chủng loại chúng sinh vô hình.
Chế định chúng sinh vô hình là năng lượng, là
ánh sáng, là nguyên tử đều không chính xác. Cụ thể là tâm ý của mỗi người ngay
khi còn sống chỉ là những rung động tâm thức, hiện tướng đó không là ánh sáng,
không là những hạt nguyên tử và cũng không là một dạng năng lượng đặc thù.
Và khi con người chết đi, Tâm Ý Sự Sống sẽ định
hình bằng thức do cái tôi chấp thủ nơi mỗi người chế định. Tùy tâm mà Tâm Ý Sự
Sống ở người chết xác lập cõi giới vô hình hiện tồn tạm thời. Và tùy vào chấp
thủ mà Tâm Ý Sự Sống đó tồn tại, chuyển hóa ở các cõi giới vô hình khác nhau.
Người si mê tà kiến có địa ngục, có phán quan, có Diêm Vương, có đầu trâu, mặt
ngựa đến bắt linh hồn xuống Âm Tào Địa Phủ chịu sự quản thúc cũng như trừng
phạt dựa trên tội báo nơi dương gian, khi chết liền nhận quả địa ngục hiện
tiền, tùy tội báo mà nhận lấy muôn điều hành hạ.
Người chấp giữ tà kiến chết có Địa Tạng vương
Bồ Tát dẫn độ hoặc Phật A di đà tiếp dẫn sẽ tùy tâm cùng định lực mà biến hiện
ra các cõi Phật huyễn hóa. Người chấp giữ là nguồn ánh sáng hoặc việc hợp thể
với Chúa Trời, Thánh Alah liền được đến nơi cần đến.
…
Bởi do chấp thủ nên Tâm Ý Sự Sống sẽ dựng cảnh,
tạo hình theo tâm ý sinh khởi. Tuy nhiên, thời gian tồn tại ở các cõi giới vô
hình dựng lập của các vong sẽ tùy thuộc vào định lực và khả năng nghĩ tưởng của
Tâm Ý Sự Sống.
…
Ngày
nay, do quan niệm Chết Là Hết được nhồi sọ vào tâm thức con người, việc này đã
ảnh hưởng sâu sắc đến Tâm Ý Sự Sống sau khi rời bỏ xác thân. Một số người chịu
tư tưởng Chết Là Hết chi phối đã hoang mang, hoảng loạn không biết đi đâu, về
đâu khi hồn lìa khỏi xác. Họ thấy họ vẫn còn đó quẩn quanh và người thân không
nhận diện được sự hiện diện của họ, họ cứ đi lại những nơi chốn quen thuộc và
nếu không đủ duyên để tái sinh họ sẽ trở thành những linh hồn vất vưỡng, lang
thang. Với những người tham đắm việc uống ăn, hưởng thụ,… theo thói quen họ sẽ
thấy đói khát, rét lạnh.
Với những người ham chải chuốt, thích làm đẹp
thì lại nhớ nghĩ đến khuôn mặt già nua, quần áo cũ rách thì tướng xấu liền
hiện,…
Với những người vì sầu muộn, cùng quẩn mà tự
sát hoặc những người bị chết oan, chết bất đắc kỳ tử,… oán hận, đau khổ, bất
bình sẽ khiến họ luôn bất an, luôn lo lắng và trở thành những linh hồn bất
định. Những người khi sống làm nhiều việc xấu ác cho đến cuối đời, lương tâm
trỗi dậy, họ hối tiếc, ân hận những việc đã làm và lưu xuất ý chế định sẽ có
linh hồn đòi mạng thì Tâm Ý Sự Sống này sẽ phải chui rúc, trốn chạy vào những
hiện cảnh tăm tối.
Và Tâm Ý Sự Sống ở các cõi giới vô hình là
những rung cảm. Chính vì vậy những việc thương ghét, oán cừu tương đồng sẽ bắt
nhịp được những tần sóng của nhau và tùy duyên mà hiện cảnh lành hay dữ. … Ngày
nay việc lạm dụng các chất kích thích quá độ và lan rộng nơi xã hội con người.
Những người nghiện rượu, nghiện ma túy, nghiện
games,… tâm trí những Tâm Ý Sự Sống này ngay hiện đời đã dần trở nên bất định,
hoang tưởng. Nếu những con nghiện này không sớm nhận thức được đang dấn thân
vào nẻo xấu ngõ hầu quay về hành trì tìm lại định tâm, định lực thì nẻo xấu mê
mờ ở kiếp sau đã là xác định ngay hiện đời.
…
Vong – Tâm Ý Sự Sống luôn đa biến, đa thù và
tùy chấp thủ ở mỗi thời mà chế định ra những cõi giới vô hình khác nhau. Vấn đề
vong tạm thời Ngạo Thuyết sẽ dừng lại ở đây và các bạn hãy lắng nghe, xem xét
và nhìn nhận lại. Đừng vội cho rằng đúng mà tin nhận, cũng đừng vội cho rằng
sai mà từ bỏ sự hiểu biết khách quan nơi chính mình.
Liền kề bài viết này Ngạo Thuyết sẽ trình bày
thêm về vấn đề vong nhập cũng như việc chỉ ra mối nguy hại ở Pháp Thỉnh Oan Gia
Trái Chủ ở chùa Ba Vàng. Và nếu mô hình Pháp Thỉnh Oan Gia Trái Chủ được nhân
rộng thì Ngạo Thuyết có thể khẳng định rằng họa hại vô cùng bởi lẽ xã hội loài
người sẽ chìm sâu vào hiện tướng Âm thịnh, Dương suy.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét