Phác họa chân dung Giác giả Thích Ca - Giải Mã Đạo Phật
Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2019
Xin chào các
bạn! Hôm nay, chúng ta sẽ lại gặp nhau ở bài thoại Phác Họa Chân Dung Giác Giả
Thích Ca. Trước khi đi vào nội dung chi tiết của bài thoại Ngạo Thuyết sẽ trình
bày cho các bạn nhận thấy được hiện trạng đáng buồn của người học Phật ở cả hai
hệ phái Nam Tông – Bắc Tông.
Hiện trạng đáng
buồn ở người học Phật ngày nay chính là tính giáo điều, cứng nhắc khi tham cứu
kinh điển Phật học. Việc học Phật ở người học Phật cả Nam Tông lẫn Bắc Tông đều
dừng lại ở sách vỡ, học mà không hành, việc tham cứu kinh điển Phật học (nếu
có) cũng chỉ nhằm vào việc dạy lại cho người, chứ không nhằm vào việc chuyển
hóa, lĩnh hội, thâm nhập, sống được với chánh pháp Phật môn.
Thả lòng ra,
khách quan nhìn nhận chúng ta sẽ không khó trong việc thấy được rằng người học
Phật ngày nay phần đa có học nhưng không có hành, việc học chỉ nhằm tăng trưởng
bản ngã, việc học Phật rơi vào sự hý luận, lạm bàn việc đúng sai, chánh tà dù
rằng chính họ không thể nhận biết một cách đúng mực nhất.
Do chấp thủ hệ
phái Nam Tông – Bắc Tông, chấp thủ Thiền – Tịnh – Mật mà người học Phật ở các
hệ phái, các pháp môn, các chi nhánh khác nhau sẽ ra sức bới lông tìm vết, tìm
cách vạch ra những khiếm khuyết, những hạn chế của việc học Phật ở người học
Phật khác hệ phái, khác pháp môn mà dần chìm đắm trong Tham Sân Si Mạn Nghi duy
ngã.
Người học Phật
Nam Tông thì chấp thủ kinh điển Nam Tông là chánh tông những lời Phật Thích Ca
thuyết, kinh điển Bắc Tông là ngụy kinh, Phật Thích Ca không thuyết kinh điển
thuộc hệ phái Phật học phát triển. Mục đích cuối cùng ở việc làm của người học
Phật Nam Tông là nhằm chối bỏ hệ phái Phật học Bắc Tông không phải là đạo Phật
chánh thống.
Sở dĩ người học
Phật Nam Tông luôn ra sức bài xích, kỳ thị người học Phật Bắc Tông, muốn xóa bỏ
hệ phái Phật giáo Bắc Tông vốn dĩ cũng là vì một mối thù truyền kiếp.
Cách đây hơn
2000 năm khi kinh điển phát triển Bắc Tông nhen nhóm thành hình, nội bộ đạo
Phật đã xảy ra sự phân hóa trầm trọng, kết quả là những xung đột tư tưởng giữa hai
nhóm người học Phật khác nhau đã dẫn đến việc chia rẽ đạo Phật ra làm hai hệ
phái Phật học chính.
Trong đó, có một
nhóm người học Phật thủ cựu muốn bảo lưu nguyên bản những lời Phật thuyết tức
là ra sức gìn giữ bản gốc kinh điển nguyên thủy, họ lôi kéo những người học
Phật có cùng quan điểm ra sức bảo tồn kinh điển nguyên thủy thông qua việc bài
xích, tẩy chay, kỳ thị những người học Phật có khuynh hướng canh tân giáo lý
Phật học cho phù hợp với bối cảnh xã hội đương thời. Nhóm người học Phật đó là
đại diện của hệ phái Phật giáo nguyên thủy ngày nay tức là hệ phái Phật giáo
Nam Tông.
Nhóm người học
Phật còn lại chính là thành phần người học Phật có tư tưởng cấp tiến, họ có
khuynh hướng chấp nhận giáo lý Phật học đã có sự canh tân cho khế hợp với đương
thời. Chính do sự canh tân giáo lý Phật học hợp thời đã giúp cho tính phổ
truyền giáo lý kinh Phật ở hệ phái Phật học phát triển vượt trội hơn so với
giáo lý kinh Phật nguyên thủy. Và nhóm người học Phật canh tân này chính là nền
mống của hệ phái Phật giáo phát triển tức hệ phái Phật giáo Bắc Tông ngày nay.
Chính vì chấp
thủ giáo lý canh tân của người học Phật Bắc Tông là tư tưởng ngoại đạo nên
người học Phật hệ phái Nam Tông xưa đã không khách quan tham cứu giáo lý kinh
điển Bắc Tông ở một sự cởi mở cần và đủ.
Việc kỳ thị, bài
xích giáo lý kinh điển Bắc Tông càng gia tăng khi người học Phật thuộc hệ phái
nguyên thủy nhận thấy tín đồ học Phật Bắc Tông tăng nhanh về mặt số lượng. Do
bảo thủ và đố kỵ phần đa người học Phật Nam Tông thượng thủ đã lên tiếng chỉ
trích về gốc tích kinh điển phát triển Bắc Tông một cách gay gắt, cực đoan cùng
quá khích. Chính sự hẹp lòng đó người học Phật mới luận rằng người học Phật Nam
Tông là người học Phật tiểu thừa; Còn tính phổ truyền giáo lý chánh pháp mạnh
mẽ ở hệ phái Bắc Tông được xem như là Phật giáo đại thừa.
Kết quả của việc
phân định đại thừa – tiểu thừa đã tạo ra mối thù truyền kiếp ở hai hệ phái Phật
học Nam Tông – Bắc Tông. Thời gian lâu xa dấu tích thật sự về mối thù truyền
kiếp ở hai hệ phái Phật học Nam Tông – Bắc Tông đến nay người học Phật đã không
thể nhận diện được cụ thể, rõ ràng thì đâu thể giải khai mối thù truyền kiếp
chốn Phật môn giữa hai hệ phái cho được.
Người học Phật
Nam Tông cứ chấp giữ định kiến giáo lý kinh điển Bắc Tông không do lời Phật
thuyết nên không phải là chánh pháp và ra sức bài xích, kỳ thị người học Phật
Bắc Tông từ xưa đến nay và có vẻ gần như là không có hồi kết. Và đây quả thật
là một việc làm không hề khôn ngoan ở người học Phật thuộc hệ phái Nam Tông. Và
đây cũng là kết quả của một việc làm mang đậm tính chủ quan, bảo thủ, cực đoan
và quá khích ở một thành phần không nhỏ người học Phật thuộc hệ phái Nam Tông.
Chỉ cần người
học Phật cả Tăng lẫn tục thuộc hệ phái Nam Tông lắng lòng nhìn lại, họ sẽ không
khó trong việc nhận ra rằng tính phổ truyền của giáo lý kinh điển Bắc Tông là
vượt trội hơn so với kinh điển nguyên thủy, chính nhờ khả năng phổ truyền của
giáo lý kinh điển Bắc Tông mà đạo Phật được rộng truyền khắp nơi trên phạm vi
thế giới.
Phải chăng nếu
người học Phật Bắc Tông không canh tân giáo lý đúng thời cho trên phù hợp với ý
Phật, dưới tương đồng với đương cơ thì đạo Phật khó thể nâng lên một tầm vóc
mới, lan truyền rộng khắp thế giới?
Phải chăng chính
sự canh tân giáo lý kinh điển Bắc Tông đã giúp đạo Phật xây dựng được một nền
móng vững chắc trong lòng nhân loại?
Đây là điều mà
người học Phật Nam Tông nguyên thủy phải đặt xuống cái bản ngã chánh tông tâm
pháp Phật môn khách quan nhìn nhận lại thành tựu mà hệ phái Phật giáo Bắc Tông
đã làm được cho đạo Phật, cho nhân loại.
Do chủ quan, cực
đoan, quá khích người học Phật hệ phái Nam Tông từ xa xưa đã cáo buộc kinh điển
Bắc Tông không có Bát chánh đạo, Tứ diệu đế nên không là đạo Phật chính thống.
Thật ra cáo buộc này ở người học Phật Nam Tông dành cho người học Phật Bắc Tông
là một cáo buộc lỗi, là một cáo buộc sai lầm bởi lẽ người học Phật Bắc Tông
không từng chối bỏ kinh điển Nam Tông. Chính vì lẽ đó cáo buộc người học Phật
Bắc Tông không truyền dạy Tứ diệu đế, không hành trì Bát chánh đạo là một lập
luận khiêng cưỡng, gượng ép ở người học Phật thuộc hệ phái Nam Tông. Và sở dĩ
có bản cáo buộc sai lầm ở người học Phật hệ phái Nam Tông đối với người học
Phật Bắc Tông phát khởi từ sự cực đoan, quá khích khi mà việc phân định Đại
thừa – Tiểu thừa tạo ra mối thù tiền kiếp từ xa xưa.
Thật ra sự phân
định Đại thừa – Tiểu thừa vốn không có tính quy chụp hay chế định cho giáo lý
kinh điển Bắc Tông là Phật giáo đại thừa, giáo lý kinh điển Nam Tông là Phật
giáo tiểu thừa. Việc phân định Đại thừa – Tiểu thừa thật sự vốn gắn kết chặt
chẽ với tâm hạnh hoằng pháp, truyền pháp ở người học Phật cả Tăng lẫn tục ở cả
hai hệ phái học Phật Nam – Bắc Tông. Nền tảng phân định Tiểu thừa – Đại thừa
vốn thuộc về tư tưởng phát dương quang đại đạo Phật ngõ hầu mang sự hiểu biết
giác ngộ giải thoát đến với mọi ngõ ngách xã hội loài người chứ không hạn cuộc
ở những giáo điều cứng nhắc, những chấp thủ cực đoan,…
Phải chăng Phật
Thích Ca đã từng nói với đại ý bất kỳ người học đạo, bất kỳ tôn giáo, bất kỳ
giáo đoàn nào mà có hành trì Bát chánh đạo đều sẽ có người chứng ngộ giác ngộ
giải thoát hoàn toàn?
Phải chăng qua
lời nhắn nhủ đó Phật cảnh tỉnh rằng “Chiếc áo không làm nên vị thầy tu”?
Vậy mà chỉ vì
một mối thù tiền kiếp, một sự không hiểu nhau từ thuở xa xưa người học Phật Nam
Tông đã cực đoan, quá khích chấp thủ những định kiến sai lầm, điều này ít nhiều
đã khiến người học Phật đánh mất tâm thanh tịnh, thuần khiết, trong sáng đến
tận ngày nay.
Phải chăng việc
chấp thủ mối tị hiềm, tri kiến Phật học sai lầm ở người học Phật Nam Tông về
giáo lý kinh điển Bắc Tông đã tồn tại đủ lâu và đã đến lúc hóa giải, tháo gỡ sự
kỳ thị cực đoan, việc bài xích vô lối giữa hai hệ phái Phật học Nam – Bắc Tông?
…
Người học Phật
ngày nay hẳn là không ít lần được nghe chỉ có hành thiền Tứ Niệm Xứ mới đạt một
trong bốn Thánh quả - A la hán, A na hàm, Tư đà hàm, Tu đà hoàn. Niệm Phật nhất
tâm bất loạn, niệm Phật vô biệt niệm khi chết hoa trời cúng dường, có hương
thơm lạ được Phật A di đà tiếp dẫn Tây Phương cực lạc, người chết rồi mà da dẻ
hồng nhuận như hãy còn sống. Ông kia tu đúng, học Phật từ bé nên khi chết mang
hỏa thiêu thu được rất nhiều xá lợi, ắt là đã đắc đạo, chấm dứt luân hồi,…
Những việc như
thế này người học Phật ngày nay truyền miệng nhau nhan nhãn nhưng hỏi vấn lại
thế anh bạn, bà chị hay sư thầy các vị có được vậy không thì câu trả lời dễ
thường là sự im lặng; Một số gượng gạo chống chế “Ai ăn nấy no, ai tu nấy chứng”.
Đấy là biểu hiện rất thường thấy ở người học Phật ở tất cả các hệ phái, các
pháp môn học Phật ngày nay. Và điều này cho thấy rằng những người nói ra những
việc chứng A la hán, A nam hàm, Tư đà hàm, Tu đà hoàn hay việc niệm Phật nhất
tâm bất loạn,… cũng chỉ là những người học Phật ưa thích việc nói suông nhằm
chứng tỏ sự hiểu biết của bản thân, sa đà vào việc hý luận, lạm bàn về những
điều không rõ biết; Một số lại thích thể hiện rằng đã chứng ngộ để người học
Phật sơ cơ tán thán, quy thuận song phần đa chỉ là những kẻ cơ hội hám danh,
tham lợi.
…
Người học Phật tham
cứu kinh sách Phật học hoặc nghe đồn rồi chấp thủ cho rằng đã chứng, đã biết và
dấn thân truyền dạy lại cho người, chấp nhận làm một chiếc thùng rỗng, càng
rỗng dễ thường lại càng kêu to.
Việc hóng hớt
nói như đúng rồi này đôi khi giống như câu chuyện sau:
-
Ê! Tèo! Tao thấy thằng cu nó không giống
mày, nó giống thằng hàng xóm cạnh nhà mày hơn.
-
Tí! Mày không được nói bậy. Thằng cu là
con tao.
-
Sao mày dám khẳng định vậy, Tèo? Tao thấy…
-
Tí! Mày cứ nói xàm. Vợ tao nói thằng cu
là con tao nên tao tin thằng cu là con tao.
…
Thằng Tí nghe thằng Tèo nói vậy trong
lòng cũng ấm ức nên về hỏi lại bà vợ cho chắc ăn.
-
Ê! Mén! Thằng cu phải con của Tí không?
Mén hồn nhiên trả lời:
-
Phải mà. Con mày chứ con ai, thằng hàng
xóm nó bảo với tao thế.
…
Vấn đề là như
thế đấy. Người học Phật ngày nay dễ thường rơi và tình cảnh không có thực tu
nên không có thực chứng. Kết quả là tuệ tri khách quan, sáng rõ nơi tự thân
không khai mở. Việc trao đổi, chia sẻ Phật pháp phần đa dựa trên nền tảng tri
kiến góp nhặt ở kinh sách, lời đồn và rồi chủ quan gạn lọc lại bằng tư kiến cá
nhân và từ đó trôi lăn vào việc lạm bàn, hý luận. Đây là hậu quả của việc tri
kiến lập tri tức vô minh bổn.
Ngày nay, chúng
ta dễ thường thấy người học Phật lấy kinh Kalama để nhắc nhỡ, răn đe lẫn nhau
về 10 điều chớ vội tin. Kinh viết:
Một chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết.
Hai chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.
Ba chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay
tuyên truyền.
Bốn chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển
hay sách vở.
Năm chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc lý luận siêu hình.
Sáu chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của
mình.
Bảy chớ vội tin một điều gì, khi mà điều đó được căn cứ trên những dữ
kiện hời hợt.
Tám chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của
mình.
Chín chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy
ủng hộ.
Mười chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo
hay đạo sư của mình tuyên thuyết.
Và tính giáo điều cứng nhắc được biểu hiện rõ rệt ở người học Phật ngày
nay khi họ đem kinh sách Phật học ra làm luận chứng biện luận cảnh tỉnh người
chứ không hề chuyển hóa, lĩnh hội, thâm nhập, sống được với những lời Phật
thuyết.
Liệu người học Phật có mấy ai dám không tin lời Phật thuyết? Liệu có
được mấy người học Phật dám minh định lẽ chân ngụy, chánh tà hiện tồn ở các bộ
kinh Phật?
Ở 10 điều chớ vội tin phải chăng Phật Thích Ca đã khéo léo nhắc nhỡ,
cảnh tỉnh người học Phật rằng chính ngay những lời Phật thuyết cũng có điều
chân, lẽ ngụy vì thế người học Phật chớ vội cả tin mà lầm nhận chánh pháp.
Phật đã rất bi mẫn, rất khách quan khi giảng thuyết kinh Kalama để nhắc
nhỡ người học Phật chớ vội tin vì điều đó là lời Phật diễn nói tương ưng với
điều chớ vội tin thứ 10 – chớ vội tin vì điều ấy được nhà truyền giáo hay do vị
đạo sư của mình tuyên thuyết, chớ vội tin vì điều đó có ghi trong kinh Phật,…
Vậy người học Phật đã học được điều gì, “vỡ” ra được điều gì từ kinh
Kalama về 10 điều chớ vội tin hay người học Phật ngày nay đã trang bị kinh
Kalama như là một loại vũ khí, một công cụ bảo vệ rằng mình đúng, người sai.
Người học Phật Nam Tông vẫn thường dùng 10 điều chớ vội tin để làm luận
chứng vạch trần gốc tích kinh điển Bắc Tông không là lời Phật Thích Ca từng
diễn nói, đó là cái cách mà người học Phật vẫn thường lạm dùng, dùng sai mục
đích đúng mực, sáng rõ của kinh Kalama.
Nếu người học Phật đúng mực, khách quan với lòng quả cảm, sự khách quan
dám nhìn thẳng, nói thật thì lẽ chân ngụy, chánh tà có ở kinh điển Nam – Bắc
Tông hay cả lời Phật thuyết cũng dễ dàng minh định. Điển hình:
Ở kinh điển hệ phái nguyên thủy Nam Tông có đoạn kinh Phật lý giải rằng
không có việc một người gieo nghiệp xấu ác lại có thể nhờ việc cầu nguyện của
các vị thầy Bà la môn mà có thể siêu thoát tội lỗi đã gieo, được siêu sinh vào
cõi giới cao. Tích truyện này liên quan đến việc ngoại đạo cho rằng việc cúng
bái, nguyện cầu, các buổi tế lễ,… có thể giúp người tạo nghiệp dữ siêu thoát.
Phật đã cụ thể hóa việc đó là không đúng thông qua việc bỏ bơ và đá vào hai cái
hủ riêng biệt, bịt kín miệng lại rồi thả xuống nước, sau đó chọc thủng hai
chiếc lọ. Kết quả là bơ nổi lên và những hòn đá thì vẫn nằm dưới đáy. Phật bảo
rằng các vị thầy Bà la môn hãy trì chú,cầu nguyện cho bơ chìm xuống, đá nổi lên
và tất nhiên là điều này không thể được. Sự minh bạch, sáng rõ của bài pháp này
hiển nhiên là do người chứng ngộ Toàn Giác tuyên thuyết.
Và ở một đoạn khác của kinh Nikaya (kinh điển Nam Tông) có viết rằng
Phật đã dẫn chứng việc cầu nguyện, cúng bái có thể giúp chúng sinh đang đọa lạc
nẻo xấu siêu sinh lên ở những cõi giới cao hơn thông qua luận chứng là đặt
những hòn đá lên chiếc thuyền thì đá vẫn có thể nổi trên mặt nước, không bị
chìm xuống đáy. Điều này cho thấy rằng việc cầu nguyện, cúng bái hoàn toàn có
thể giúp người làm việc xấu ác có thể thăng thiên.
Qua hai tích truyện này, chúng ta dễ dàng thấy có sự tiền hậu bất nhất ở
lời Phật nói. Và điều này không thể nông cạn lập luận theo lối “Cả vú lấp miệng
em” là do Phật và các đại đệ tử đều chứng Thánh quả nên việc cầu nguyện, cúng
bái phát huy công năng như thế hoặc kinh Phật thù thắng hơn giáo lý ngoại đạo
nên phát sinh diệu dụng.
Vậy nên vấn đề trở nên rất rạch ròi, đoạn kinh văn đặt đá lên thuyền để
chứng thực hiệu quả của việc cầu nguyện, cúng bái có hiệu quả là do ngoại đạo
chống chế luận chứng “đá chìm, bơ nổi” về nghiệp ở Phật Thích Ca. Và đây phải
chăng chính là ngụy kinh đã len lõi vào chân kinh của đạo Phật từ thời những bộ
kinh Nam Tông nguyên thủy nhất?
Không chỉ vậy. Ở kinh điển nguyên thủy có rất nhiều tích truyện Phật kể
về tiền kiếp và người học Phật ngày nay mê huyền, đắm huyễn nên không có đủ tuệ
tri để minh định mục đích của việc kể ra những câu chuyện tiền kiếp của bản
thân cũng như của các vị đại đệ tử.
Lẽ ra người học Phật phải nên học giá trị nhân văn được lồng ghép vào
trong các câu chuyện tiền kiếp. Thực tế là thông qua những câu chuyện tiền kiếp
mà Phật Thích Ca dẫn dắt con người đến một đời sống giảm thiểu tham đắm, sân
hận, si mê và kiêu mạn.
Lẽ nào khi người học Phật xem những câu truyện ngụ ngôn như Kiến Giết
Voi, truyện Rùa Và Thỏ, truyện Cô Bé Quàng Khăn Đỏ,… đều vội tin tất cả đều là
sự thật.
Các câu chuyện tiền kiếp của Phật Thích Ca cùng các vị đại đệ tử cũng
đều có mục đích tương tợ như thế, có khác nhau chăng là các câu chuyện tiền
kiếp ở đạo Phật chứa những thông điệp về chánh pháp cụ thể, rạch ròi hơn.
Đáng tiếc là người học Phật ngày nay một khi chạm đến kinh Phật hay lời
Phật thuyết đều trở nên nhỏ bé, thấp thỏi, hạ liệt và quy thuận Tam bảo một
cách mê mờ, sự hiểu biết khách quan, sáng suốt vì thế bị chèn lấp một cách vô
thức. Trong khi Phật luôn cảnh tỉnh người học Phật hãy tự thắp đuốc mà đi thì
người học Phật ngày nay khi tìm đến đạo Phật dễ thường “vứt đi” não của chính
mình. Thế nên hiện trạng đạo Phật ngày nay xảy ra lắm sự lạ, người học Phật tìm
đến đạo Phật quên cha, bỏ mẹ, xa vợ, lìa con nhất mực tín tâm tà sư, ma Tăng
giả danh Tam Bảo.
Lẽ nào câu chuyện tiền thân Phật Thích Ca ở những kiếp hành hạnh bồ tát
thấy con hổ đói phải nuôi một đàn con đã đem thịt dâng vào miệng hổ nhưng con
hổ cái này không dám ăn thịt bồ tát. Và kết quả là bồ tát tiền thân Phật Thích
Ca phải gieo mình xuống vực chết để con hổ mẹ có thịt ăn và có sữa nuôi con?
Lẽ nào câu chuyện bồ tát tiền thân Phật Thích Ca xả thí vợ con cho một
người hạ tiện lại là một câu chuyện có thật?
…
Lẽ ra người học Phật ngày nay phải khôn ngoan hơn, phải sáng suốt hơn
khi xem các tích truyện tiền thân của Phật, của các vị Bồ tát cũng như là cả
cuộc đời học đạo, hành đạo, truyền pháp của vị Giác Giả Thích Ca.
Phải chăng do người xưa diễn nói Phật Thích Ca có 10 hiệu – Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Thiên Nhân Sư, Điều Ngự Trượng Phu, Phật Thế Tôn đã khiến người học Phật xưa
nay choáng ngợp?
Phải chăng việc người chứng ngộ giác ngộ giải thoát hoàn toàn sẽ đắc Tam
Minh, Lục Thông khiến người học Phật ngày nay mê huyền, đắm huyễn, ưa thích
hoang đường nên đã không thể nhận diện rốt ráo Tam Minh – Lục Thông ở Giác Giả
thật sự là gì?
Phải chăng người học Phật xưa nay truyền tai nhau rằng Phật Thích Ca có
Tam Minh với:
- Túc mệnh minh: Tuệ
giác sáng suốt biết rõ diễn biến các kiếp sống quá khứ và vị lai của mình
và của tất cả chúng sinh.
- Thiên nhãn minh: Tuệ
giác sáng suốt nhìn thấy tất cả mọi hình sắc ở gần hay ở xa trong cả thế gian,
nhìn thấy mọi hình tướng khổ vui của chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi.
- Lậu tận minh: Tuệ
giác sáng suốt nhận biết các pháp đoạn trừ phiền não mê lầm của mình và
của tất cả chúng sinh để được an lạc.
Tuy nhiên, ngoài
những câu chuyện tiền kiếp của chính mình cũng như các vị đệ tử xuất gia lẫn
tại gia Phật Thích Ca không hề nói đến hậu kiếp của bất kì một ai cả.
Vậy nên phải chăng
người học Phật ngày nay hiểu Tam Minh – Lục Thông của Phật Thích Ca đã rơi vào
giáo điều và sự cứng nhắc gượng ép cứ tin?
Vậy tuệ giác sáng
suốt biết rõ các kiếp sống quá khứ và vị lai của chính mình và của tất cả chúng
sinh ở Giác Giả nên hiểu như thế nào cho đúng?
Lẽ nào người học
Phật ngày nay không có chút điều nghi gì về Thiên nhãn minh minh, tuệ giác sáng
suốt thấy rõ tất cả hình sắc gần xa trong Tam giới cũng như mọi hình tướng khổ
vui của chúng sinh trong 6 nẻo luân hồi?
Thực tế là Tam Minh
– Lục Thông của Phật Thích Ca thật sự là rất vi diệu, bất khả tư nghì nhưng
điều đó không hề huyền hoặc, hoang đường, mê tín dị đoan như người học Phật còn
trong lưới vô minh lầm tin.
…
Các bạn đã đi dạo
một vòng như thế cùng Ngạo Thuyết bây giờ chúng ta bắt đầu đi vào nội dung
chính của bài thoại:
Phác
họa chân dung Giác giả Thích Ca
Có nhiều người
học Phật nói rằng khi Phật Thích Ca ném cái bát xuống dòng nước chảy thì cái
bát đó đã không xuôi dòng mà lại trôi ngược dòng và họ khẳng định muốn thoát
khỏi luân hồi thì người học Phật phải có lối sống trái ngược hoàn toàn với
người đời.
Họ, những người
học Phật vô minh đó lại mặc định việc “cắt ái, ly gia” là điều kiện tiên quyết,
có tính then chốt trong sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Do cả nghĩ sự nhận
định trên của số đông người học Phật vô minh là chuẩn mực mà giới học giả, nhà
nghiên cứu Phật học Đông Tây nhìn nhận Phật giáo hướng con người đến chủ nghĩa
duy ngã tiêu cực, yếm thế, tín đồ đạo Phật thuần tín là những kẻ sống từ bỏ yêu
thương, đoạn dứt việc lập gia đình. Việc “cắt ái, ly gia” sẽ tác động xấu đến
việc duy trì nòi giống loài người, thế là họ - giới học giả, nhà nghiên cứu
Phật học theo lối khám phá đạo Phật bằng cách thức “cởi ngựa xem hoa” đã kết
luận Phật giáo là một hệ tư tưởng có khuynh hướng dẫn đến sự diệt vong nhân
loại. Thật đáng tiếc thay cho những người đại diện tri thức nhân loại cũng như
một đại bộ phận tiêu biểu cho người học Phật tín thành nhưng lại chính là những
người có sự hiểu biết nông cạn, thiển cận và ấu trĩ.
Bởi do rơi vào
biên kiến chủ quan mà số đông người học Phật đã cực đoan khi nhận định muốn học
Phật đạt đến mục đích giải thoát tối hậu là phải “cắt ái, ly gia”, đặt mình vào
lối sống ngược đời. Đây là trạng thái cực đoan Đoạn kiến đoạn diệt của người
học Phật vô minh.
Bởi do chủ quan,
phiến diện khám phá đạo Phật ở góc nhìn hiện tượng mà giới học giả, giới nghiên
cứu Phật học đã không thể tiếp cận đến sự đúng mực, sáng rõ, khách quan ở những
lời bậc Giác giả Thích Ca từng nói. Và từ sự cả tin nông nổi, cục bộ ở đại diện
hàng đầu tri thức nhân loại, giới học giả trí thức góp phần làm nhạt nhòa, lu
mờ giá trị đúng mực, sáng rõ của chánh pháp Phật Thích Ca từng trao truyền. Đây
là trạng thái cực đoan Thường kiến của người vô minh.
Do bởi chánh
pháp sáng rõ, đúng mực bị che khuất, bị giới hạn nơi sự hiểu biết mà nhân loại
ngày nay dần chìm sâu vào sự tối tăm tri thức, lạc lối sự hiểu biết khách quan,
loài người ngày càng chìm sâu vào khổ não, sa ngã vào lối sống thực dụng ích
kỉ, xấu xa. Do thiếu hiểu biết mà loài người đang tạo ra những sai lầm nghiêm
trọng, gây ra sự nguy hiểm cho việc tồn vong nhân loại, sự sống. Những sự hiểu
biết lệch lạc, không đúng mực đã đưa đến việc hủy hoại sự cân bằng nội tại của
hành tinh xanh cũng như sự cân bằng nội tâm ở mỗi con người
Việc hại người
là nhân sẽ dẫn đến việc tổn mình là quả, điều này thể hiện tính khách quan,
công bằng khi con người chạm đến sự đúng mực, thật có của quy luật nhân quả
luân hồi. Và khi số đông nhân loại đều rơi vào lối sống, cách hành xử sai lầm
thì đó là hồi chuông cáo chung cho sự diệt vong loài người, việc tàn hoại sự
sống, hủy diệt trái đất.
Vậy ra giáo lý
đạo Phật đưa đến sự đoạn diệt loài người hay chính sự hiểu biết sai lạc về đạo
Phật, sự vô minh của các thành phần, tầng lớp xã hội loài người đã đặt nhân
loại vào mối nguy diệt vong giống nòi và sự sống?
Nguồn tri thức
đúng mực, sáng rõ, khách quan của chánh pháp nơi giáo lý Phật Thích Ca từng
tuyên thuyết cần được trao trả lại cho sự hiểu biết khách quan của nhân loại.
Giới trí thức, học giả, hành giả, giới chính trị, nhà nghiên cứu, nhà khoa
học,… với lối sống thực dụng hãy còn trong sự chủ quan, u mê, tăm tối và người
đời vị kỷ, bạc nhược cần phải được thức tỉnh sự hiểu biết đúng mực, khách quan
nơi nội tại mỗi người. Ngọn đuốc chánh pháp sẽ được làm bừng sáng ngõ hầu soi
sáng tâm thức u mê của nhân loại, đây là việc làm có tính sống còn, là cứu cánh
cho xã hội loài người ngày nay và tương lai.
Và đâu là chọn
lựa của bạn?
…
Phật Thích Ca có
32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Đây chỉ là việc thần thánh hóa nhân vật của người đời,
là việc làm thường thấy ở những người học Phật còn trong lưới vô minh.
Để phá tâm chấp
sắc, chấp danh, chấp tướng… Phật Thích Ca đã hơn một lần ra sức:
- Phàm sở hữu
tướng giai thị hư vọng được diễn nghĩa vắn tắt, rành rõ là bất cứ vật gì có
hình tướng đều có tính không thật, chúng sẽ biến chuyển theo lẽ vô thường đẹp
xấu - xấu đẹp, còn mất - mất còn,… Vì tính hư huyễn, giả tạm đó mà chấp giữ để
rồi Tham sân si mạn nghi, khổ não thì đích thị là người vô minh nông cạn.
- Lấy sắc, lấy
âm thanh cầu Ta người ấy hành đạo Tà.
…
Cũng do bởi si
mê, lầm lạc người xưa đã kể rằng Phật đản sanh ở bên hông mẹ, đây là việc làm
ấu trĩ nhằm loại bỏ yếu tố bất tịnh khi thọ thai và ra đời ở đức Phật Thích Ca,
đây là yếu tố thần tượng quá hóa cuồng của người mê muội.
Dựa vào kinh
sách cổ tôi được biết sau khi sinh ra Thái tử Tất đạt đa thì hoàng hậu Mada
(Mayadevi) đã chết. Thế nên một giả thuyết có tính thuyết phục được đặt
ra, đó là hoàng hậu Mada sinh non và việc sinh non đó dẫn đến việc hoàng hậu
Mada đã mất vài ngày sau khi sinh. Hẳn là việc mất mẹ cũng đã phần nào khiến
cho Thái tử Tất đạt đa sớm trực nhận và nhạy cảm với mọi lẽ khổ não nhân sinh,
đây là yếu tố tiên quyết khiến Thái tử Tất đạt đa sớm hòa nhập ý thức hệ tìm
cách thoát khỏi quy luật sinh lão bệnh tử, nhân quả luân hồi - ý thức về sự
thoát khổ, việc giải thoát khỏi sinh tử là nhân vốn có ở tâm thức mỗi người, là
Phật tánh - tánh Giác thường còn ở mọi chúng sinh, là chánh pháp thật có trong
mọi tâm ý sự sống.
Vì bởi cuồng
tín, si mê, thần thánh hóa sự toàn mỹ, tuyệt đẹp về Phật Thích Ca mà người xưa
đã thêu dệt nên những câu chuyện có thiên hướng tâm linh sai lạc, những câu chuyện
không thật đúng về gốc tích, tính chân nguyên của sự ra đời một vị Giác giả đã
được dựng lên. Kết quả là đại diện cho giới trí thức, học giả ngày nay, ngày
xưa và ngày sau khi chạm đến phần ngụy thư giả lập có ở giáo lý đạo Phật bằng
tâm thái kiêu mạn, tự phụ tri thức hơn người đã cả quyết rằng đó là những điều
dị đoan mê muội. Từ đó, tri thức loài người một thời đã chủ quan phủ định sạch
trơn những giá trị đúng mực, khách quan, sáng rõ nơi giáo lý Tam Tạng kinh.
Phải chăng khi
đãi vàng, đá quý con người phải gạn lọc những thứ quý giá ở nơi hỗn mang cát
đá?
Sự chủ quan, bảo
thủ, cực đoan, mê lầm của tri thức nhân loại đến bao giờ mới chạm đến sự khách
quan, tổng thể, đúng mực? Lẽ nào sự hiểu biết của loài người cứ lần đến ngọn
thì quên mất cả gốc?
Con người lẽ nào
được sinh ra là chỉ để hưởng thụ cuộc sống, duy trì giống nòi với vô vàn khổ
não được mất, hơn thua, đúng sai cùng những Tham sân si mạn nghi để rồi kết
thúc một kiếp người - Chết là hết. Lẽ nào chỉ thế thôi?
Nếu không thể
“Chết là hết” thì quy luật sự sống sẽ tiếp diễn, luân chuyển như thế nào? Ta là
ai? Ta đến từ đâu? Chết ta sẽ về đâu?... Những câu hỏi dường như không quá xa
lạ với mỗi người, song dường như nhân loại, Ta đã hời hợt quên bẳng đi những
điều rất gần gũi với mỗi người. Lối sống thực dụng hưởng thụ, chủ nghĩa cá nhân
ngày nay đã khiến cho nội tâm, chiều sâu tâm hồn nơi nhân loại, nơi mỗi người
rơi vào sự rỗng tuếch, hời hợt đến thế sao?
Và ở nơi sự
trống rỗng mông lung của nội tâm nhân loại đã từng có và mãi tồn tại một ý thức
hệ lần tìm về nguyên ủy, gốc tích chính mình; Một số khác đi tìm sự giải thoát
khỏi nỗi lo toan, khổ não cũng như việc nhàm chán việc luân hồi sinh tử. Do
việc luôn tồn tại một bộ phận nhân loại luôn tìm về sự giải thoát hoàn toàn từ
đó đã dẫn đến việc ra đời và tồn tại pho Tam Tạng kinh quý giá. Đây cũng chính
là chánh pháp, là Phật tánh - Tánh giác thường còn luôn tồn tại nơi nhân loại,
nơi mỗi tâm ý sự sống. Lối thoát của nhân loại ngày nay, ngày xưa và ngày mai
cũng chính là đây.
…
Thật ra cái bát
được tiếng là trôi ngược dòng mà Phật Thích Ca ném ra đó chính là bát chánh
đạo. Bát chánh đạo với chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Bát chánh đạo chính là những yếu
quyết giúp con người trực nhận, chạm đến bản chất sự sống, vạn pháp với vô
thường, vô ngã, tánh không của vạn hữu… Những điều mà khi con người nắm bắt,
lĩnh hội đúng mực sẽ dứt trừ Tham sân si mạn nghi, giảm thiểu khổ não, muộn
phiền về những bất toàn nơi cuộc sống.
Tà kiến là những
hiểu biết không thật đúng về bản chất sự sống, vô minh là những sự hiểu biết
sai lạc, không đủ đầy. Tà kiến, vô minh khiến con người ngụp lặn trong khổ não,
muộn phiền vay trả. Bát chánh đạo giúp con người thấu rõ vô minh, tà kiến, công
năng của Bát chánh đạo giúp con người có cuộc sống an lạc, lành mạnh, tích cực
và cả sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
Việc “cắt ái ly
gia” không là cứu cánh của đạo giác ngộ giải thoát. Lấy việc “cắt ái ly gia”
làm nền tảng của việc thoát khỏi luân hồi là tà kiến, là sự vô minh tăm tối của
những người học Phật si mê. Việc “cắt ái ly gia” chỉ là một trong những phương
tiện pháp diệu dụng, hữu ích với những người tìm về sự giải thoát khỏi luân hồi
mà lòng nhiều tham đắm ái dục, si mê thanh sắc.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét