Home
» Blog doavouu
» Sự Ra Đời Và Hiện Trạng Suy Đồi Ở Các Tôn Giáo Đông Tây - Tương Tác Phật Học Online
Sự Ra Đời Và Hiện Trạng Suy Đồi Ở Các Tôn Giáo Đông Tây - Tương Tác Phật Học Online
Thứ Tư, 17 tháng 4, 2019
Tôn Giáo Đã Ra Đời Và Sự Suy
Đồi Ở Các
Hệ Thống Tôn Giáo Đông Tây
Loài người thời cổ đại có đời sống hướng nội
nên thường trăn trở, suy tư về gốc tích của tự thân - Ta đến từ đâu? Tại sao Ta
được sinh ra? Ta sinh ra nhằm vào mục đích gì? Tại sao có sự chết đi? Và khi
chết Ta sẽ về đâu? - Đó là những câu hỏi rất đúng mực, sâu sắc, sáng suốt của
người xưa. Song những câu hỏi minh triết như thế cơ hồ đã trở nên ngây ngô, thô
thiển, ấu trĩ đối với tri thức nhân loại ngày nay, nhất là với số đông những
người đang đắm mình trong lối sống thực dụng, buông thả.
Chính do người xưa ở cả phương Đông - phương
Tây có thiên hướng sống hướng nội nên hình thành nên những hệ thống triết học
cổ đại chứa đầy những thông điệp minh triết, thông thái và sáng suốt. Tuy
nhiên, về sau khi không tìm được câu trả lời cho những câu hỏi nội tâm người
phương Tây đã từ bỏ đời sống nội tâm sâu sắc mà dịch chuyển dần sang lối sống
hướng ngoại. Chính sự chuyển dịch lối sống của người phương Tây đã khiến nền
triết học cổ đại phương Tây bị chặn đứng và có sự tụt hậu so với nền minh triết
phương Đông.
Sơ khởi hệ thống triết học cổ đại Đông Tây
là hệ tư tưởng minh triết dựa trên cơ sở lý luận biện chứng logic sâu sắc nên
có tính khách quan, sáng rõ, đúng mực.
Nương theo sự minh triết có ở các trường
phái triết học cổ đại dòng tâm thức tín ngưỡng tâm linh ra đời. Dòng tâm thức
tín ngưỡng tâm linh ra đời do hệ tư tưởng minh triết ở các trường phái triết
học Đông Tây không thỏa mãn được nhu cầu hiểu biết của loài người, có rất nhiều
vấn đề bức thiết có trong nhận thức, tư duy con người đặt ra mà sự minh triết,
thông thái của loài người không thể lý giải. Tính thực thể có nơi hệ thống
triết học cổ đại - hiện đại đã chặn đứng sự hiểu biết của loài người về những
vấn đề tâm linh, những điều huyền bí, mầu nhiệm, thế giới sau khi con người
chết…
Dần dần, những hệ thống tư tưởng tâm linh
được phân định rạch ròi bằng chuỗi những hệ thống tôn giáo khác nhau. Hệ thống
tôn giáo ra đời khi ý thức, nhận thức, tư duy của loài người phát triển. Khác
với hệ thống triết học cổ đại Đông Tây, hệ thống tôn giáo chịu chi phối của sự
tín ngưỡng do vậy nên có tính chủ quan, phiến diện. Kết quả là chuỗi hệ thống
tôn giáo cổ đại ngày càng rơi vào sự suy diễn, ước đoán, viễn vông, đánh mất
dần sự đúng mực, sáng rõ.
Do đời sống hướng nội nên người cổ đại nhận
thức được sự nhỏ bé, mong manh của tự thân, mãi trói mình trong nhận thức đó và
nhìn thấy sự kỳ vĩ của thế giới hiện tượng, sự bao la, trùm khắp của thế giới
tự nhiên loài người suy lường “Hẳn là có một ai đó đã tạo nên sum la vạn tượng
và con người, loài vật cũng do bởi một bàn tay nào đó nhào nặn mà thành”.
Do suy lường như thế nên loài người đã chia
sẻ thông tin cho nhau dần dần một giả thuyết được định hình trong nhận thức, tư
duy nơi số đông loài người. Sau cùng, việc thừa nhận có một Đấng quyền năng đầy
quyền phép đã tạo ra loài người và muôn vật được xác lập. Dần dần, do nhận thức
được sự yếu đuối, nhỏ bé của con người trước thiên nhiên kỳ vĩ, bất thường con
người trở nên lệ thuộc Đấng quyền năng vô hình tự lúc nào chẳng rõ. Hệ thống
tôn giáo hình thành ban đầu chỉ có một dần dần phân cành, rẽ nhánh lan rộng
khắp xã hội loài người. Tùy thuộc vào sự hiểu biết của những vị lãnh đạo hệ
thống tôn giáo mà giáo lý ở các hệ thống tôn giáo có sự sai biệt. Tuy nhiên,
điểm chính yếu cho sự tồn tại tôn giáo thời cổ đại là có Đấng quyền năng đấy
quyền phép, về sau để thỏa mãn sự bay bổng sáng tạo ở tâm trí loài người có
thêm rất nhiều vị Thần linh ra đời nhằm đảm nhận những công việc sáng tạo khác
nhau, những vị Thần được tạm xem là người giúp việc của Đấng quyền năng Tối
cao.
Hệ thống tôn giáo sơ khởi chỉ có một Đấng
quyền năng - Nhất Thần giáo tiến hóa lên thành hệ thống tôn giáo Đa thần. Từ
đó, thế giới loài người xảy ra sự xung đột tín ngưỡng và cái giá phải trả là
mạng sống của con người, những tín đồ tôn giáo thuần thành, tận tụy.
…
Thực tế là chỉ có loài người mới có tuệ tri
và tâm phân biệt để suy tư “Ta là ai, ta đến từ đâu, chết ta sẽ về đâu?”. Con
bò, con khỉ hay bất cứ giống loài nào có trong tự nhiên thảy đều không có đủ sự
hiểu biết và tinh khôn cũng như việc dính mắc những câu hỏi có thiên hướng tìm
hiểu cội nguồn bản thân, cội nguồn sự sống.
Hay nói một cách khác là chính tâm ý phân
biệt, tìm tòi, suy tư của loài người đã thúc đẩy cho sự ra đời các hệ thống tôn
giáo từ xưa đến nay. Các Đấng quyền năng – Đấng Sáng Thế - Đấng Cứu Thế - Thượng
Đế, Chúa Trời, Thánh Alah hay các vị Thần linh cũng do con người mà định hình
và lý thuyết về sự tồn tại một Đấng quyền năng bỏ ra 6 ngày để kiến tạo vũ trụ,
nhào nặn ra thằng người và muôn loài là một tri kiến đậm tính suy diễn chủ quan
của một thời tri thức hãy còn nông cạn ở loài người.
Cùng với sự tăng trưởng hiểu biết và tâm ý
phân biệt ngày càng cao ở loài người thì lý thuyết về cội nguồn sự sống cũng
như tôn giáo mới được chia chẻ ra làm nhiều luận thuyết sai biệt. Và tham dục
của loài người đã góp phần rất lớn trong việc phân cành, rẽ nhánh tôn giáo thành
rất nhiều hệ thống tôn giáo khác nhau. Một yếu tố quan trọng khác góp phần chia
chẻ các hệ thống tôn giáo thành rất nhiều, rất nhiều hệ thống tôn giáo khác
nhau phải kể đến đó là yếu tố bối cảnh xã hội thúc đẩy.
…
Pháp đã nổ súng tấn công Hà Nội vào những
năm 1873 là cột mốc đánh dấu Việt Nam chìm trong chiến loạn 100 năm đô hộ giặt
Tây. Dưới sự cai trị hà khắc của thực dân Pháp nhiều phong trào khởi nghĩa đấu
tranh vũ trang của nhân dân Việt Nam nổ ra, và thực dân Pháp với trang bị vũ
khí tối tân những cuộc khởi nghĩa tự phát của nhân dân Việt Nam bị đàn áp đẫm
máu.
Những cuộc đấu tranh nhỏ lẻ và mau chóng bị
đàn áp khiến những người trí thức Việt Nam yêu nước khởi lên những suy tư làm
thế nào để khôi phục niềm tin quyết thắng và sự đoàn kết ở người dân Việt Nam.
Và một trong những ý tưởng được người trí thức Việt Nam yêu nước nghĩ đến đó là
niềm tin thần thánh, do đó dựa vào mặt bằng tri thức tâm linh của người Việt
đương thời không cao có rất nhiều hệ thống tôn giáo Việt Nam đã ra đời ở thời
kỳ thuộc Pháp. Cụ thể:
Đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương do bổn sư là Đức Phật Thầy Tây An ra đời sớm hơn so với thời điểm thực
dân Pháp nổ pháp súng đầu tiên xâm lược Việt Nam. Song lúc bấy giờ triều đình
phong kiến Việt Nam hủ bại, yếu hèn gần như đã dâng trọn đất nước Việt Nam cho
ngoại bang. Cám cảnh thương dân tộc Việt Nam sẽ sớm rơi vào lầm than, cơ khổ
nhà trí thức yêu nước Đoàn Minh Huyên về sau được tín đồ tôn kính gọi là Phật
Thầy Tây An đã quy tập tín đồ thoát ly triều đình phong kiến thối nát bằng việc
khẩn hoang, làm ruộng để tự túc đời sống. Cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa (năm 1867
-1873) do môn đệ đắc ý của Phật Thầy Tây An lãnh đạo là minh chứng để nhận diện
được rõ nguyên nhân mà Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương thành hình.
Nền tảng giáo lý của Đạo Bửu
Sơn Kỳ Hương dựa vào Nho Giáo, Lão Giáo và Phật Giáo, ý tưởng của vị Phật Thầy
Tây An là giản tiện hóa lại giáo lý đạo Phật vốn rất rườm rà, màu mè do ảnh
hưởng thần quyền Trung Hoa lúc bấy giờ.
Đức Phật Thầy Tây
An có kệ rằng:
Dặn
cùng già trẻ gái trai,
Giữ
lòng niệm Phật lâu dài đừng quên.
Thảo
ngay nhơn nghĩa cho bền,
Thờ
cha kính mẹ, tưởng trên Phật Trời.
Nói
cho lớn nhỏ ghi lời,
Nhứt
tâm niệm Phật, Phật Trời độ cho.
Ai
trau công quả cho dày,
Đất
bùn có thuở mọc rày hoa sen.
Màu
thiền đắc ý cùng màu,
Còn
hơn chen chúc công hầu vương khanh.
Tây
Phương trước mặt chẳng còn bao xa
Cách
nhau vì bởi ái hà biển mê
Dốc
lòng niệm chữ từ bi,
Lấy
đao trí huệ cắt đi cho rồi...
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương hay nói đúng hơn là vị
nhân giả Phật Thầy Tây An đã là người phát động phong trào thời kỳ Hạ ngươn sắp mãn để bước sang thời Thượng
ngươn, tức là thời kỳ Đức Di-lặc hạ sanh lập nên hội
Long Hoa.
Về sau, Đạo Tứ Ân
Hiếu Nghĩa và Đạo Hòa Hảo đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.
…
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã ra đời từ ý tưởng và
bối cảnh xã hội lâm vào cảnh ngộ như thế, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa vốn là một chi
nhánh của phong trào Cần Vương. Ngô Lợi, người được xem là đức Bổn sư của Đạo
Tứ Ân Hiếu Nghĩa, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ban đầu được gọi là Đạo Thờ Ông Bà. Vị
thầy bổn đạo đã dùng hình thức tôn giáo để quy tập nghĩa quân kháng chiến, hình
thức tôn giáo chỉ là chiêu bài để che mắt thực dân Pháp nhằm thuận tiện hoạt
động cách mạng.
Và yếu tố huyền bí đã được dựng lên nhằm thu
phục tín tâm trong lòng tín đồ, tương truyền rằng có một ngày Đức bổn sư Ngô
Lợi bỗng nhiên "bất tỉnh, để trở thành
người ‘giải thoát tẩy trần tâm, giáo nhơn tùng thiện đạo’" (rũ sạch
lòng trần, dạy người theo đạo lành).
Đức bổn sư Ngô Lợi dạy răn
tín đồ bằng một dạng thi kệ dân ca đang thịnh hành lúc bấy giờ: Kệ rằng:
Một
lòng giữ vẹn tứ ân,
Phụng
thờ khuya sớm ân cần đừng sai.
Gắng
công niệm Phật hôm mai,
Trì
tâm thì đặng thiếc mài nên kim.
…
Tương tự như vậy
Đạo Hòa Hảo (Còn gọi là Phật giáo Hòa Hảo). Trước bối cảnh đất nước lâm nguy,
thất phu hữu trách – vị nhân giả Huỳnh Phú Sổ đã khai tông lập giáo vào năm
1939. Và để gia cố đức tin cho dân chúng quanh vùng cùng tín đồ quy thuận. Đức Huỳnh
Giáo chủ còn được gọi là "Thầy Tư Hoà Hảo", tự nhận mình là bậc
"Sinh nhi tri", biết được quá khứ nhìn thấu tương lai, được thọ mệnh
cùng với Phật A-di-đà và
Phật Thích-ca Mâu-ni, xuống hạ giới có nhiệm vụ truyền bá cho
dân chúng tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương để
"Chấn hưng Phật giáo, cứu độ
chúng sinh khỏi sông mê, biển khổ và đưa tới chốn Tây phương
cực lạc". Ông chữa bệnh cho người dân bằng các bài thuốc dân
gian đã học trong lúc đi chữa bệnh, đồng thời qua đó ông truyền dạy giáo lý
bằng những bài sám giảng (còn gọi là sấm giảng) do ông soạn thảo. Vì vậy chỉ
trong vòng 2 năm từ 1937 đến 1939 số người tin theo ông đã khá đông và
ông trở nên nổi tiếng khắp vùng.
Sang năm 1941
đạo Hòa Hảo đã gia tăng nhanh về số lượng và được vũ trang thành những Đội bảo
an.
Miền tây nam bộ là nơi phát
tích của Phật giáo Hòa Hảo, với đa số tín đồ là những người dân hiền hòa, yêu
nước. Nhằm thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân, Ủy ban nhân dân Nam Bộ
mới thành lập sau Cách mạng tháng Tám đã mời người sáng lập giáo phái là Huỳnh Phú Sổ giữ chức ủy viên đặc biệt của Ủy ban.
Tuy nhiên, theo Việt
Minh, một số lãnh đạo Hòa Hảo có nhiều tham vọng về quyền hành đã
lợi dụng danh nghĩa của giáo phái Hòa Hỏa đòi giao những tỉnh có đông tín đồ
(như Cần Thơ, Long Xuyên, Châu Đốc) cho họ quản lý. Khi yêu sách này không được
đáp ứng, họ 2 lần tổ chức biểu tình tuần hành, kéo vào thị xã Long Xuyên (cuối
tháng 8-1945) và thị xã Châu Đốc (đầu tháng 9-1945) định gây bạo loạn cướp
chính quyền. Lực lượng vũ trang cách mạng được huy động đến kịp thời giải tán. Theo
Archimedes L.A Patti, đạo Hòa Hảo chống lại chủ trương của Việt Minh muốn đàm
phán với Đồng Minh nên tổ chức biểu tình đòi vũ trang quần chúng chống lại việc
quân Anh, Pháp đổ bộ vào Nam Kỳ.
Ngày 9/9/1945, những người đứng
đầu Phật giáo Hòa Hảo lại tổ chức tuần hành ở thị xã Cần Thơ với lý do "đi
rước Đức Thầy", thực chất là dự định cướp chính quyền. Chính quyền tỉnh
Cần Thơ giải tán cuộc biểu tình này, bắt những người cầm đầu, đưa ra tòa xét xử
và kết án tử hình 3 người đứng đầu. Đối với tín đồ, chính quyền giải thích ý đồ
của lãnh đạo Hòa Hảo, khuyên họ trở về nhà tiếp tục làm ăn, không để bị lợi
dụng. Huỳnh Phú Sổ giải thích với lãnh đạo Việt
Minh Trần Văn Giàu đây là cuộc biểu tình của
tín đồ Phật giáo Hòa Hảo để biểu thị quan điểm đấu tranh chống thực dân Pháp và
chống độc tài. Sau cuộc biểu tình tại Cần Thơ, Hòa Hảo vẫn tiếp tục hoạt động
chống lại chính quyền, họ tự tuyên bố rằng trong năm 1945 khoảng 10.000 tín đồ
và cán bộ Hòa Hảo bị Việt Minh sát hại.
Với chủ trương đại đoàn kết
toàn dân, ngày 6 tháng 2 năm 1946, tại Chợ Mới (Long Xuyên), Nguyễn Hữu Xuyến,
Trung đoàn trưởng Khu 8, đã ký với Trần Văn Soái (Năm Lửa), thủ lĩnh một nhóm
Hòa Hảo Dân Xã, một thỏa ước nhằm gác bỏ mọi hiềm khích và hiểu lầm cũ, cùng
nhau đoàn kết chống thực dân Pháp. Thỏa ước này gồm 3 điều khoản:
1. Hai bên cam kết không chống
lại nhau.
2. Khi một bên bị Pháp tấn công
thì bên kia ứng cứu.
3. Hai bên phối hợp tổ chức đánh
Pháp.
Ngày 14/11/1946, Huỳnh Phú Sổ
tham gia Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam bộ với chức vụ ủy viên đặc biệt. Lực
lượng vũ trang Hòa Hảo tham gia vào Vệ quốc đoàn do Nguyễn Bình chỉ huy nhưng không chấp nhận các
chính trị viên do cấp trên gửi xuống.
Tuy tham gia Ủy ban Hành chánh
Kháng chiến, Huỳnh Phú Sổ vẫn ngầm hoạt động chống lại chính quyền Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Ngày 20/4/1946, Hòa Hảo cùng một số tổ chức khác tại miền Nam
thành lập Mặt trận Quốc gia liên hiệp để
tự tổ chức chống Pháp tại miền Nam Việt Nam. Mặt trận bầu Huỳnh Phú Sổ (dùng bí
danh) làm Chủ tịch. Mặt trận này có lập trường chống lại chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa Tháng 6 năm 1946 Hòa Hảo tổ chức lại lực lượng vũ trang lấy
tên Nghĩa
quân Cách mạng Vệ quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực. Ngày
21/6/1946, Hòa Hảo thành lập Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng.
Theo kế hoạch của các đảng phái quốc gia tại miền Nam Việt Nam,
Hòa Hảo cùng các đảng phái, tôn giáo khác sẽ dùng lực lượng vũ trang của mình
từ Đông Nam Bộ (khu 7) về Tây Nam Bộ (khu 8, khu 9) đánh chiếm lấy Đồng Tháp
Mười làm căn cứ địa, nắm lấy các nguồn tiếp liệu lương thực và kiểm soát các
đường giao thông giữa chiến khu 7 (nơi Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ đặt
căn cứ), và hai chiến khu 8, 9 để cô lập hóa Nguyễn Bình ở chiến khu 7, vô hiệu
hóa lực lượng bộ đội Việt Minh trong hai chiến khu 8 và 9, làm bàn đạp tiến tới
vị thế chủ lực lãnh đạo ở vùng Nam Bộ. Về mặt chính trị, dưới danh nghĩa
của Mặt trận Thống nhất Quốc gia
Liên hiệp sẽ tạo thế liên kết với các đảng phái quốc gia ở miền Bắc
đã lưu vong sang Trung Hoa, tuyên bố không chấp nhận quyền lãnh đạo Việt Nam
của Hồ Chí Minh và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đầu tháng 4/1947, các đơn vị vũ
trang của Cao Đài, Hòa Hảo, Đại Việt, Bình Xuyên di chuyển về Đồng Tháp Mười
lập căn cứ. Trên đường hành quân, các đơn vị quân sự này bị chi đội 18 và chi
đội 12 Vệ quốc đoàn phục kích ngăn chặn. Họ còn bị phi cơ Pháp bắn phá. Chỉ có
một số đơn vị Hòa Hảo và Đại Việt đến nơi nhờ thông thuộc địa bàn. Các đơn vị
Cao Đài và Bình Xuyên bị kẹt lại khu 7.
…
Đạo Cao Đài ra đời sau các tôn
giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Đạo Cao Đài cũng là một hình
thức tôn giáo “bình mới, rượu cũ” để quy tụ nghĩa quân tính kế sách kháng chiến
lâu dài. Đây cũng là một tôn giáo thành hình do yếu tố xã hội rối ren, ly loạn,
khi con người cần đến một đức tin thiêng liêng. Việc ra đời của đạo Cao Đài gắn
liền với hình thức cơ bút để gia tăng đức tin nơi tín đồ. Tính tổ chức của Cao
Đài giáo rất chặt chẽ và do có phương tiện khéo cơ bút – giáng cơ mà tín đồ Cao
Đài giáo gia tăng rất nhanh về số lượng. Việc thanh thế Đạo Cao Đài nhanh chóng
lớn mạnh và được vũ trang chính quy đã khiến thực dân Pháp, Phát xít Nhật, Việt
Minh,… rất dè chừng. Và Việt Minh đã tranh thủ lấy lòng và chiêu mộ các chi
nhánh Cao Đài Giáo. Về sau xảy ra sự bất đồng nội bộ Việt Minh và Cao Đài Giáo
đã chĩa mũi súng vào nhau tạo nên những trang sử đẫm máu dân tộc Việt Nam.
…
Ở trên là một vài thông tin tư
liệu để xác thực rằng các tổ chức tôn giáo về sau ra đời ở Việt Nam cũng như
trên toàn thế giới phần đa không còn có tính khách quan đơn thuần là giải tỏa
nhu cầu tâm linh mà đã có sự toan tính hoặc với mục đích khác hẳn với hình thức
tôn giáo nguyên thủy.
(Thông tin
trích lục từ nguồn https://vi.wikipedia.org/)
…
Ngạo Thuyết vừa trình bày một vài tôn giáo
đã ra đời ở Việt Nam vào thời điểm loạn lạc, nhiễu nhương nhằm mở rộng ra vấn
đề tôn giáo ở phạm vi thế giới. Công Giáo (Hay còn gọi là Cơ Đốc Giáo) và Hồi
Giáo cũng là những phiên bản tôn giáo lỗi. Hai hệ thống tôn giáo này ra đời
buổi đầu vốn đã không là một hệ thống tôn giáo đơn thuần.
Công Giáo:
Bối cảnh văn hóa và lịch sử thời Jesu sinh
sống:
Gắn liền với Công Giáo đó là Đấng Jesu Christ. Thực tế là khi Jesu
Christ ra đời nơi chiếc máng cỏ thì đây là một đứa bé không cha. Hiển nhiên là
một đứa bé không cha ở một xã hội đầy biến động sẽ có những sự tự ti, mặc cảm
nhất định. Và thói thường những người có xuất thân bất hạnh luôn có những khí
chất khác người, đứa bé Jesu Christ sớm bộc lộ những tố chất đó nhằm khẳng định
vị thế của mình ngõ hầu bỏ lại nỗi mặc cảm thân phận đứa con hoang.
Thế giới đương thời mà Giêsu
sống luôn biến động, được đánh dấu bởi những bế tắc nối tiếp nhau cả về văn hoá
và chính trị. Về văn hoá, vì người Do Thái phải vật lộn với nền triết học và
các giá trị của văn minh Hy Lạp và với sự mâu thuẫn nội
tại của kinh Torah, vì trong khi kinh Torah mặc khải các chân
lý có giá trị cho toàn thể nhân loại thì các luật lệ của nó chỉ áp dụng riêng
cho người Do Thái. Tình thế này dẫn dắt họ đến những cách giải kinh mới chịu
ảnh hưởng của tư tưởng Hy Lạp và nhằm đáp ứng quyền lợi của người không thuộc
chủng tộc Do Thái đã gia nhập Do Thái giáo.
Vào thời điểm Giêsu sinh ra,
lãnh thổ Israel thuộc Đế quốc La Mã, nhưng đặt dưới quyền cai trị
của Herôđê Đại Đế.
Vào năm 4, Hoàng đế La Mã Augustus phế
truất Herod Archelaus, con của Herôđê Đại Đế và đặt các xứ Judea, Samaria và Idumea dưới quyền cai trị
trực tiếp của chính quyền La Mã, được giám sát bởi một quan tổng đốc, người này
có quyền bổ nhiệm chức Thượng tế của Do Thái giáo. Tình trạng này kéo dài cho
đến năm 64. Xứ Galilea, nơi Giêsu lớn lên, vẫn dưới quyền cai trị của Herod
Antipas (một người con khác của Herôđê Đại Đế).
Khi ấy Nazareth là một làng quê
nhỏ bé với vài trăm cư dân, không có hội đường Do Thái giáo (synagogue),
cũng không có cơ sở công cộng nào. Không có vàng, bạc hay
sản phẩm nhập khẩu được tìm thấy ở đây trong cuộc khai quật khảo cổ.
Vài phe nhóm tranh giành ảnh
hưởng với nhau trong cộng đồng Do Thái như nhóm Saducee, có quan hệ mật thiết
với giới tư tế và Đền thờ, trong khi nhóm Pharisêu có nhiều ảnh hưởng trong
vòng các học giả, giáo sư và lãnh đạo các hội đường. Các nhóm này chống đối sự
chiếm đóng của Đế quốc La mã nhưng vào thời Giêsu họ vẫn cố kềm chế để không có
phản ứng công khai nào.
Nhiều người kỳ vọng vào sự xuất
hiện của một vị Cứu Tinh (Messiah), hậu duệ của vua David để
giải phóng họ khỏi sự cai trị của người La Mã. Theo đức tin Do Thái, lịch sử
được điều khiển bởi Thiên Chúa, có nghĩa là sự chiếm đóng của người La Mã là
một phần trong hoạch định của Ngài. Vì vậy đế quyền La Mã cần được thay thế bởi
một vị vua Do Thái nhờ sự can thiệp siêu nhiên. Những người thuộc nhóm quá
khích tin rằng chẳng bao lâu Vương quốc Do Thái sẽ được phục hồi và họ chuẩn bị
các phương tiện để chống người La Mã. Các phản ứng của người La Mã cuối cùng
dẫn đến sự phá đổ Đền thờ và sự suy vong của các nhóm kể trên.
…
Chính Đức tin về sự xuất hiện
một Đấng Mesiah có ở Do Thái Giáo đã sinh xuất ra Thiên Chúa Jesu. Chính sự cai
trị và đàn áp dã man của đế chế La Mã đã nung nấu ý chí quật khởi ở người Do
Thái, song các chi nhánh Do Thái thủ cựu lại chuộng hình thức, đòi hỏi Tông đồ
Do Thái Giáo phải thuần chủng người Do Thái, điều này đã ảnh hưởng đến việc quy
tụ tín đồ. Jesu Christ ban đầu cũng thống lãnh một chi nhánh Do Thái giáo, và
chi nhánh Do Thái Giáo này phát triển ngày một lớn mạnh do việc canh tân giáo
lý, mở rộng hơn cánh cửa đón nhận Tông đồ. Điều này đã khiến hệ thống Do Thái
Giáo thủ cựu xem Jesu Christ như là một phản đồ truyền bá dị giáo. Do đó, về
sau giáo phái do Jesu Christ lãnh đạo đã cải tên thành một tôn giáo riêng biệt.
Thực ra mục đích sâu xa của việc lập giáo của Jesu hoàn toàn không phải vì
chứng ngộ hay là sứ mệnh con Chúa mà là vì việc tập hợp lực lượng tín đồ chuẩn
bị cho cuộc đấu tranh giành lấy độc lập dân tộc cho chủng người Do Thái.
Và phải đến vài thập kỷ sau cái
chết của Jesu thì Kito giáo mới lan rộng ra khắp đế chế La Mã. Tuy nhiên, có một sự thật là
trong khoảng 3 thế kỷ đầu sau Công Nguyên, Ki tô giáo luôn luôn bị coi là bất
hợp pháp trong toàn đế quốc La Mã. Về mặt địa lý đế quốc La Mã lúc bấy giờ
chiếm phần lớn diện tích Châu Âu, lan rộng sang cả Trung Đông, Tây Á, Bắc Phi.
Đây là điểm then chốt tạo điều kiện cho Kito giáo bị biến chất bành trướng sức
ảnh hưởng tâm linh ra phạm vi thế giới.
Gần 300 năm sau kể từ khi Kito giáo ra đời
một nhà chính trị - ông Constantine, một vị tướng lãnh của Đế chế La Mã đã nhận
thức được điều đó - sự cuồng tin ở Tín đồ Kito giáo và ông ta đã tạo điều kiện
cho Kito giáo được chấp nhận ở La Mã, nơi mà trong nhiều thế kỷ đã thanh trừng
Kito giáo gay gắt nhất.
Và nhà chính trị đầy tham vọng, thủ đoạn này
đã biến Kito giáo thành một công cụ bành trướng quyền lực tạo ra tiền đề cho
những đế chế hùng mạnh dùng Kito giáo làm chiêu bài, “nắm bắt” tư tưởng, tinh
thần của quân đội, tín đồ cuồng tín để phục vụ dã tâm xâm chiếm thuộc địa, đồng
hóa, thủ tiêu những tôn giáo khác.
Nhà chính trị đầy tham vọng, mưu mô
Constantine đã thành công trong việc sử dụng, thao túng Kito giáo để bước lên
đỉnh cao quyền lực ở Đế chế La Mã, ông trở thành Đại đế Constantine.
Trên thực tế Constantine là một tín đồ thuần
thành của Đa Thần giáo, vị thần tối cao ông tôn thờ là Thần Mặt Trời. Về sau
khi trở thành Đại đế Constantine ông đã thao túng cả Đa Thần giáo nghiễm nhiên
tự phong giáo chủ tôn giáo thờ Thần Mặt Trời. Với Constantine thì Công Giáo chỉ
là một công cụ, một chiêu bài “nắm bắt” chính trị, quyền lực của ông. Ông ra
sức gầy dựng Công giáo để phục vụ tham vọng bất tận của cá nhân.
Lúc bấy giờ, Kito giáo được đổi tên thành
Công giáo và cây thập tự giá trở thành biểu tượng chính thức của những tín đồ
con Chúa. Và những cuộc Thập tự chinh tàn khốc là biểu hiện một thời của những
nhà làm chính trị dùng Công giáo làm công cụ phục vụ tham vọng quyền lực, chính
trị,…
Thập tự giá là biểu tượng trên lá cờ của
đoàn quân Thập Tự chinh, Thập tự giá cũng chính là một dụng cụ giết người tàn
khốc, dã man nhất của một thời đại đã qua - Một đồ vật đẫm máu gắn liền với
thương hiệu đế chế La Mã tàn bạo, khát máu lại chính là biểu tượng của các giáo
phái thờ Chúa bởi do một kẻ dối lòng thờ Chúa là Constantine chỉ định.
Để “nắm bắt” sự tận tụy, tư tưởng của quân
đội cùng người dân Constatine xác thực Công giáo là quốc giáo của Đế chế La Mã
và ra sắc lệnh máu tận diệt những người theo tôn giáo khác.
Về sau, có không ít chính trị gia ở các quốc
gia khác nhận thức được sự cuồng tín nơi tín đồ Công giáo lúc bấy giờ thật sự
có giá trị cho tham vọng bành trướng lãnh thổ đã lần lượt thừa nhận Công giáo
là quốc giáo cùng với thủ đoạn sát hại không thương tiếc những người khác đạo.
Dưới sự hậu thuận của những nhà làm chính trị đầy tham vọng, khát máu,… thời
đại Đa Thần giáo huy hoàng ở Châu Âu gần như bị xóa sổ, tuyệt diệt bởi chính
những tín đồ thuần thành đầy quyền lực và tham vọng.
Những ông hoàng thuần đạo Đa Thần giáo vì
tham vọng quyền lực vô hình chung đã xóa sổ quốc giáo Đa Thần và tiêu diệt cả
Thần Mặt Trời tối thượng mà chính họ vụng về không nhận ra.
Đúng thật là lòng tham thường đi cùng sự mù
quáng, ngu muội. Về sau, sự vay trả thành hình - cá ăn kiến rồi thì kiến ăn cá.
Nhờ sự ngu muội, mù quáng của các vị Đại đế tham lam, tàn bạo đã tạo ra nền
mống vững chắc cho Công giáo ngự trị phần tâm linh đa số con người ở Châu Âu,
ảnh hưởng ngược về vùng Trung Đông, Bắc Phi và lan rộng khắp 5 Châu với số tín
đồ hơn 1,3 tỷ người… ở những năm đầu thế kỷ XX.
…
Hồi Giáo:
Hồi giáo ra đời muộn hơn Kito giáo gần 600
năm. Đã có chút khác biệt về nơi phát khởi Hồi giáo. Khác với gốc tích Israel
của Do Thái giáo, Kito giáo; Thiên Chúa đã du nhập sang Ả Rập do nhà tiên tri
Mohamed đã khai sinh ra Hồi giáo ở một đất nước Ả Rập. Ngoài điểm nhấn phủ định
Chúa Jesu ở vai trò Massiah thì còn một điểm nhấn quan trọng nhất tạo nên đức
tin tín đồ là tiêu chí Phục Tùng Chân Chủ - Thánh Ala. Và … về sau phát triển
thành Thánh chiến, tử vì đạo. Nguyên nhân có phong trào Thánh chiến, Tử vì đạo
ở Hồi Giáo là bởi do sự phản kháng chống lại sự kỳ thị dị giáo do Kito Giáo, Do
Thái Giáo phát động.
Chính do đức tin bị thao túng mà ra đời các
Đế chế Mughul (Mông Cổ), Đế quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ), Đế chế Safavids của giáo
phái Shitte (Azer Baizan),… là những Đế chế đối trọng với các Đế chế Đông La Mã
và Tây La Mã. Đây là sản phẩm của việc tranh giành quyền lực, sức ảnh hưởng,
tín đồ,… và dị giáo, sản phẩm của thời đại Chân Lý Nằm Trong Tay Kẻ Mạnh, bạo
quyền, độc tài, tàn khốc,...
Lúc bấy giờ các đế chế Đông - Tây La Mã đang
xâm chiếm bành trướng khắp Châu Âu, Trung Đông, Tây Á,… bằng công cụ Công giáo.
Tuy nhiên, vì lãnh thổ rất rộng lớn và việc tranh giành tàn bạo, khát máu,… và
chiến loạn triền miên đã khiến niềm tin về sự công bằng, bình đẳng có ở Công
giáo bị đánh cắp, đức tin Công giáo bị suy giảm, rệu rã trầm trọng. Và… nhiều
nên loạn thế nên tính tổ chức của các Đế chế La Mã cũng không còn nghiêm ngặt,
quy cũ. Do đó dù bị xem là dị giáo nhưng ý tưởng đổi mới đức tin đã lấp đầy
khoảng trống đức tin trong lòng con người, điều này đã mở lối cho Hồi giáo phát
triển len lõi rộng khắp các vùng miền quốc gia có tộc người Ả Rập.
Về sau, các nhà chính trị ở các nước Ả Rập cũng
hành xử như cách mà các Đại đế La Mã áp dụng. Biến Hồi giáo thành quốc giáo và
ra sức tận diệt các tôn giáo khác. Tiêu chí Phục Tùng Chân Chủ Thánh Ala tạo ra
đức tin tuyệt đối và tín đồ Hồi giáo mong mỏi Phục tùng Chân Chủ để được về
nước Thiên Đàng hợp thể cùng Thánh Ala. Tín đồ Hồi giáo có một thời chán ngán
nơi trái đất với quá nhiều tranh giành, tàn độc, giết chóc, bạo lực, chiến
tranh,… và họ đã bị nhồi sọ để sẳn sàng Thánh chiến, Tử vì đạo để trở về với
Chân Chủ Thánh Alah.
Tại sao Kito giáo lại bị coi là dị giáo nơi
Israel và để rồi quay lại tận diệt người Do Thái? Tại sao Công giáo xem Hồi
giáo là dị giáo để rồi tạo ra những cuộc giết chóc triền miên giữa các tín đồ
cùng thờ Đấng Sáng Thế cho đến tận ngày nay?
Vì bởi lòng tham, sự cám dỗ quyền lực, sự si
mê, mù quáng, chủ quan,…; vì tôn giáo nào cũng nhận định là tôn giáo chân
chính, là đúng nhất nên tất cả đều là dị giáo và dưới sức ảnh hưởng của các
Đấng quyền năng thì cuộc giết chóc càng thêm khốc liệt, truyền kỳ. Do bị xem là
dị giáo nên Công giáo quay lại thảm sát người Do Thái để trả đũa; Công Giáo,
Kito giáo, Tin Lành, Hồi giáo,… bị đặt vào tầm ngắm dị giáo mà chĩa mũi súng,
sự hận thù vào nhau. Và … chiến tranh ở vùng Trung Đông cùng phần lớn vùng miền
trên thế giới cũng bắt nguồn từ sự xung đột đức tin, lòng tự hào, sắc tộc, tôn
giáo,… và lòng tham, sự ngu muội, si mê, sân hận mù quáng, chủ quan…
Muốn tháo gỡ những xung đột, chiến tranh,
bạo lực, cuồng tín, cực đoan, ôm bom liều chết,… thì con người cần rõ biết rất
nhiều điều về thế giới tâm linh và cả những gốc khuất nơi quá khứ xa xưa. Ngòi
nổ chiến tranh, biến đổi khí hậu toàn cầu, khủng hoảng nợ công, khủng hoảng
nhân đạo, khủng hoảng giàu nghèo, khủng hoảng hạt nhân, khủng hoảng lòng
người,… cũng sẽ giải quyết rốt ráo, triệt để khi sự hiểu biết con người nâng
cao. Sự Hiểu Biết Sẽ Làm Thay Đổi Nhận Thức, Giá Trị Con Người.
Nhân loại cần phải thừa nhận về sự tồn tại
thế giới tâm linh một cách khách quan, đúng mực. Đây sẽ là giải pháp then chốt,
là cứu cánh cho nhân loại ngày nay và mai sau. Sai lầm về việc xóa bỏ chủ nghĩa
duy tâm ở chủ nghĩa duy vật, khoa học cần phải sửa sai ngay lập tức và sự đúng
mực cần được thừa nhận khách quan trên diện rộng.
…
Kết luận:
Nhìn vào bối cảnh ra đời của các hệ thống
tôn giáo, đặc biệt là hệ thống Nhất Thần Giáo ở một góc nhìn cởi mở, khách quan
tri thức nhân loại ngày nay không quá khó để nhận diện được rằng chuỗi hệ thống
tôn giáo Nhất Thần Giáo về sau ra đời vốn không nhằm vào việc giải tỏa những bế
tắc tâm linh ở loài người. Thực tế là con người tinh khôn đã có sự thao túng,
lũng đoạn hệ thống tôn giáo canh tân nhằm vào những mục đích riêng biệt, cụ thể
là biến tôn giáo thành nơi quy tụ lực lượng, tín đồ thuần thành nhằm mục đích giải
phóng quốc gia, dân tộc.
Sau khi đạt được mục đích ban đầu thì những
nhà chính trị biến tôn giáo thành công cụ thâu đoạt quyền lực, kiểm soát và
thống lĩnh triệt để tư tưởng tín đồ cùng người dân và tiến đến biến tôn giáo
thành đoàn quân giết người man rợ, tàn bạo.
Chính sự tinh khôn của loài người, đặc biệt
là sự man trá, thủ đoạn nham hiểm cùng sự thối nát, hủ bại ở giới chính trị độc
tài đã biến các hệ thống tôn giáo đơn thuần thiện lành thành những công cụ điều
tiết, quản lý xã hội con người. Và giới lãnh đạo bất tài, kém đức ở khắp mọi
nơi trên thế giới sẽ sẳn sàng biến hệ thống tôn giáo thành công cụ giết người
hữu dụng hoặc khiến dân chúng sa đà vào các tệ nạn mê tín dị đoan cùng chính
sách ngu dân để dễ bề cai trị.
Tôn giáo dưới sự thao túng, lũng đoạn của
một thành phần người, cụ thể là giới chính trị vô đạo, trái đức đã không còn là
một hình thức tôn giáo đơn thuần giúp người học đạo và người dân thoát ra những
bế tắc tâm linh. Thay vào đó dưới sự điều tiết có chủ ý ở loài người hệ thống
tôn giáo ngày nay lại chứa đựng những dã tâm thống trị tàn độc và những tham
vọng quyền lực rất đỗi vô cảm.
Chuỗi hệ thống Công Giáo, Hồi Giáo,… phát
triển lớn mạnh, rộng khắp là do mưu lược của giới chính trị bắt tay với giới
lãnh đạo các tôn giáo mà trở nên là những tổ chức chính quy, bài bản và chặt
chẽ. Mục đích cuối cùng của giới quản lý đất nước là “nắm bắt” tư tưởng mọi
thành phần, tầng lớp con người trong xã hội.
Và ngày nay, mọi hệ thống tôn giáo đều đã bị
sự tinh khôn của một thành phần người thao túng, lũng đoạn. Đạo Phật cũng không
ngoại lệ, đạo Phật ngày nay dù là Nam Tông hay Bắc Tông, Thiền, Tịnh hay Mật
đều đã bị sự “khôn vặt, khôn lõi” của loài người xâm thực. Giới chính trị, các
nhà quản lý đất nước ở phạm vi toàn thế giới phần đa chịu ảnh hưởng tư tưởng vô
thần do khoa học và chủ nghĩa duy vật biện chứng nhồi sọ đang chìm sâu vào lối
sống thực dung cùng lòng tham vô đáy, họ đã điều tiết các hệ thống tôn giáo một
cách chủ quan, phiến diện và ngu xuẩn.
Đạo Phật, tôn giáo chứa đựng giáo lý chánh
pháp với Bát chánh đạo, Tứ diệu đế giúp loài người giải thoát khỏi mọi bế tắc
tâm linh đã, đang và sẽ bị thao túng thành một công cụ truyền bá mê tín dị đoan
vào cuộc sống con người. Sự kiện Pháp Thỉnh Oan Gia Trái Chủ do thầy Thích Trúc
Thái Minh khởi xướng và chính thức được Giáo hội Phật Giáo Việt Nam thông quan
là minh chứng cho người học Phật thấy rằng đạo Phật Việt Nam đã bị biến thể
thành tà đạo. Và hiển nhiên là chùa Ba Vàng, thầy Thích Trúc Thái Minh đã là một
trong những nhân tố không phải duy nhất ở đạo Phật bị nhiễm tà bởi sự thao túng
của giới quản lý đất nước - xã hội – con người Việt Nam.
Người học Phật Việt Nam ngày nay hãy nhìn
hiện tượng chùa Ba Vàng, Tăng Bảo Thích Trúc Thái Minh để thấy được rằng đạo
Phật Việt Nam nơi các chùa chiềng, tự viện xa hoa, tráng lệ đã không còn là đạo
Phật nữa. Những chùa chiềng, tự viện vương giả đó chỉ là hang ổ, tụ nhóm của bè
lũ ngoại đạo phá hoại chánh pháp sáng rõ có nơi giáo lý Phật Thích Ca truyền
thừa. Bậc trí giả xưa nay vẫn hằng cảnh tỉnh người học đạo rằng “Chiếc áo không
làm nên vị thầy tu”.
Chính vì lẽ đó, người học Phật chân chính
hãy hằng nhớ đến pháp môn Hãy tự thắp đuốc mà đi ngõ hầu khai mở tuệ tri vượt
thoát luân hồi sinh tử cùng khổ não. Người học Phật hãy nhớ nghĩ tâm bi mẫn của
Phật Thích Ca mà sách tấn, cảnh tỉnh bạn đồng tu tránh rơi vào tình cảnh ngỡ
rằng quy y Phật – Pháp –Tăng nào hay lại
quy thuận nhầm ngoại đạo, tà pháp sa vào sự mê tín dị đoan vô minh.
Dưới sự chi phối của một thành phần người
thực dụng, sùng tín vô thần cùng quyền lực tất cả các hệ thống tôn giáo ở khắp
nơi trên thế giới đã ngày càng trở nên suy đồi và tha hóa. Hiện tướng sa đọa
của các vị giáo chủ các tôn giáo như Đức giáo hoàng, Đức giám mục, các Hồng y,
các Cha xứ thuộc hệ thống Công Giáo, chư Tăng Bảo thuộc đạo Phật, các nhà lãnh
đạo tinh thần thuộc Hồi Giáo,… là minh chứng không thể chối cãi về sự lũng
đoạn, thao túng tôn giáo ở loài người tinh khôn nửa vời.
Các bạn có thể tham khảo thêm loạt bài viết
Giết Các Đấng Quyền Năng Vì Một Chữ Duyên ở trang blog Một Thoáng Phương Đông
để biết rõ thêm về gốc tích phát khởi và dã tâm thao túng Công Giáo, Hồi Giáo ở
những nhà lãnh đạo man trá, độc tài.
Bài thoại tiếp theo Ngạo Thuyết sẽ trình bày là Qua
Sự Kiện Chùa Ba Vàng Thấy Rõ Tánh Tráo Trở, Gian Xảo Của Sư Thầy Thích Trúc
Thái Minh.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét