Giải Mã Đạo Phật_Đơn Nghiệp Và Cộng Nghiệp
Thứ Hai, 27 tháng 5, 2019
Đơn Nghiệp Và
Cộng Nghiệp
Mỗi một con
người, mỗi một chúng sinh, mỗi một tâm ý sự sống đều mang nơi tâm thức vô số
những nhân duyên, nghiệp quả vay trả - trả vay từ rất lâu xa và cứ thế trôi lăn
mãi nơi lưới mộng luân hồi với vô vàn buồn vui, hơn thua, được mất.
Và trong khối
tâm thức hỗn độn nơi mỗi tâm ý sự sống luôn tồn tại một niềm mong mỏi không khổ
não, không tử sinh - việc giải thoát hoàn toàn. Song cuộc sống, sự sống với
những ràng buộc, dính mắc cùng vô minh mà mỗi tâm ý sự sống thoạt nhớ, thoạt
quên sự giải thoát hoàn toàn. Cùng với đơn nghiệp, cộng nghiệp những dòng tâm
thức sự sống cứ trôi lăn vô định; một số tâm thức đối diện với khổ não, tử sinh
cảm thấy sự nhàm mỏi, chán chường; Song đa số tâm thức khác do mãi mê hướng
ngoại với những điều kỳ vọng huyễn hóa cơ hồ đã quên đi việc khổ não tử sinh
nhưng rồi khi đối diện với vô thường thì nội tâm bấn loạn, hoang mang “Chết là
hết” và “Ta sẽ chết, thật đáng sợ. Ta không muốn điều đó sẽ xảy ra với Ta, với
người thân của Ta” nhưng làm sao có thể dừng được vòng quay sinh tử?
Vì lẽ đó trong
nhân loại sẽ có, luôn có một dòng tâm thức tìm về sự giải thoát hoàn toàn. Đa
số những tâm ý sự sống sẽ tìm đến các hệ thống tôn giáo nhằm lần về sự giải
thoát hoàn toàn. Những người học Phật sẽ tìm đến đạo Phật nhưng vì bị lưới vô
minh bủa vây họ hoang mang, bất định với đơn nghiệp và cộng nghiệp.
Đơn nghiệp là
duyên nghiệp, quả nghiệp, nhân nghiệp nơi mỗi người. Khi đã mang thân người hay
tồn tại ở một dạng chúng sinh bất kỳ nào đó thì ta sẽ dính mắc, ràng buộc bởi
đơn nghiệp. Đơn nghiệp do mỗi tâm ý sự sống đã từng tạo ra từ rất nhiều kiếp
sống lâu xa cùng với những nhân duyên kiến tạo ở kiếp hiện tại. Người học Phật
vì muốn giải thoát hoàn toàn họ sẽ phải hóa giải những duyên nghiệp mà họ đang
bị ràng buộc, cột trói.
Với những người
học Phật một lòng tìm về sự giải thoát hoàn toàn song lại có định lực yếu kém
khó thể đối mặt với Tham sân si mạn nghi, do rõ biết những người học Phật đó
chẳng đủ khả năng thọ trì pháp môn đại thừa nên Phật Thích Ca bày ra phương
tiện khéo - việc “Cắt ái, ly gia”. Vậy nên từ đó việc “Cắt ái ly gia” được phổ
truyền cho giới xuất gia học Phật. Pháp phương tiện “Cắt ái ly gia” mà Phật
Thích Ca áp dụng cho giới xuất gia có công năng đoạn dứt các duyên thường ràng
buộc ở người học Phật căn cơ thấp, định lực mỏng, nội tâm yếu kém.
Vậy nên việc
“Cắt ái ly gia” là trợ duyên giúp cho người học Phật tiến đến sự quyết liễu
thoát sinh tử; Việc “Cắt ái ly gia” chưa từng là cứu cánh của sự giác ngộ giải
thoát hoàn toàn.
Khi Phật Thích
Ca còn tại thế thì việc chấp nhận cho người học Phật xuất gia được thực hiện
khi người đó ít nhiều rõ biết về giáo lý đạo giác ngộ giải thoát và người học
Phật sẽ được xuất gia khi xác định rõ đích đến mà họ mong mỏi là sự giải thoát
hoàn toàn. Người học Phật khi xác định rõ đích đến là sự giải thoát hoàn toàn
và hội đủ duyên thì mới được nhận vào giáo đoàn khất sĩ. Việc “Cắt ái ly gia”,
việc không lưu trú cố định ở một trú xứ chính là nhằm vào mục đích giảm trừ các
duyên ràng buộc, đoạn lìa nghiệp tương tục và việc khất thực tuần tự thứ lớp,
không phân biệt giàu nghèo, sang hèn là nhằm vào việc phá ngã ở người học Phật
theo lối Thanh văn.
Do việc “Cắt ái
ly gia” không hề là cứu cánh của đạo giác ngộ giải thoát nên Phật không từng
thiết chế giới luật “Cắt ái ly gia” cho người học Phật. Với những người học
Phật có pháp khí đại thừa Phật Thích Ca không từng dùng việc “Cắt ái ly gia” để
hạn cuộc họ, mọi sự tùy duyên.
Ngày nay, vì
không rõ chánh pháp nên đã có ít nhiều sự hiểu lầm nơi định kiến nhân loại -
người học Phật nhất thiết phải “Cắt ái ly gia”, một sự hiểu biết sai lạc đã
từng khiến giá trị chánh pháp có nơi giáo lý đạo Phật mất đi tính thực tiễn và
sự khả dụng.
Nguyên nhân của
việc bày phương tiện khéo “Cắt ái ly gia” ở vị Giác giả Thích Ca là vì người
học Phật căn cơ bậc hạ dễ bị trói nơi đơn nghiệp và cộng nghiệp. Việc dính mắc
đơn ngiệp - cộng nghiệp sẽ khiến người học Phật thường rơi vào tâm thái khổ
não, lo toan; Người học Phật mà tâm không định sẽ khó thể chứng ngộ việc liễu
thoát sinh tử. Việc học Phật chỉ thành tựu pháp vô sanh khi người học Phật phá
ngã thành công trong khi con người lại thường trói vào ngã - cái tôi, ngã sở -
cái của tôi. Một số người học Phật có thể hành trì ngỡ như không dính mắc ngã -
cái tôi nhưng lại bị trói nơi cái của tôi - ngã sở. Sau rốt tương tác với duyên
nghiệp thì người học Phật sẽ lại dính mắc bản ngã, việc liễu thoát sinh tử ở
người học Phật đó vì thế bị chặn đứng.
Với những người
học Phật thượng căn có pháp khí đại thừa, hành bồ tát đạo một khi sáng rõ chánh
pháp thì tùy duyên tiêu nghiệp cũ; Ái dục, tham luyến, quyến thuộc,… nơi hiện
kiếp không là chướng ngại đủ sức trói buộc chí xuất thế của người đã chứng ngộ
pháp vô sanh, thâm nhập tận cùng lý sự vô thường.
…
Cộng nghiệp là
những tác động chung, cộng nghiệp có sự chi phối đến đơn nghiệp mỗi người. Ở
tầm nhìn tổng thể, khách quan, sâu rộng tri thức nhân loại sẽ dễ dàng nhận ra
“Trong cái một có cái tất cả, trong cái tất cả có cái một” do vậy cộng nghiệp
của mỗi tâm ý chúng sinh cũng không đơn thuần dừng lại ở những mối quan hệ
huyết thống gần gũi trong gia đình mà dính mắc đến mọi tổ chức, cộng đồng, đất
nước, xã hội con người và đến cả nhân loại, mọi loài, mọi sự vật hiện tượng.
Thực tế là tác động của mỗi người ít nhiều đều tương tác đến với tất cả và
ngược lại.
Cụ thể là với
những xung đột vũ trang ở khắp nơi trên thế giới hiện nay và đến một lúc nào đó
sự xung đột vượt giới hạn, một vài quả bom hạt nhân được kích nổ phải chăng vấn
đề ảnh hưởng sẽ không dừng lại ở một vài quốc gia lân cận?
Và phải chăng
với những xáo trộn ở cuộc di dân Châu Âu đã ảnh hưởng lan rộng vượt ra ngoài
phạm vi của một Châu lục và sẽ gây ra những tác động có tính hệ lụy lâu dài?
Chiến tranh,
xung đột vũ tranh, xung đột tôn giáo, sắc tộc, thiên tai, dịch bệnh, ngành công
nghiệp,… đang ảnh hưởng khắp mọi ngóc ngách nơi xã hội loài người. Băng tan,
động đất, núi lửa, sóng thần, bão tố, biến đổi khí hậu, trái đất nóng lên,… đó
là kết quả của cộng nghiệp nhân loại và cả loài người cùng muôn loài đang chịu
ảnh hưởng trực tiếp từ sự hiểu biết sai lầm có tính kế thừa nơi tri thức, nhận
thức nhân loại.
Nếu vẫn tiếp
tục dấn thân xây dựng xã hội loài người dựa trên nền tảng sai lầm hiện nay thì
nhân loại sẽ về đâu? Sự sống nơi hành tinh xanh này liệu sẽ có thể tồn tại được
bao lâu nữa khi mà chủ nghĩa thực dụng đang nhấn chìm giá trị con người nơi mỗi
con người?
Nếu trái đất nổ
tung hay trở thành một hành tinh chết liệu còn có ai, có tâm ý sự sống nào còn
lại nơi nấm mồ của cộng nghiệp nhân loại?
Nếu người học
Phật không sáng rõ việc liễu thoát sinh tử sẽ tiếp tục trôi lăn và cùng với tâm
ý những chúng sinh vô minh đi nhặt nhạnh, gom góp hình hài, thân xác trải qua
hàng tỷ, hàng tỷ tỷ năm tương tục. Đó là cộng nghiệp nhân loại đã ảnh hưởng đến
đơn nghiệp của mỗi người, mỗi loài.
…
Nếu tri thức
nhân loại sớm nhận diện được sự hiểu biết đúng mực, khách quan, sáng rõ thì hẳn
là việc duy trì sự sống nơi hành tinh xanh sẽ được kéo dài thêm. Tất nhiên là
sẽ không có việc trái đất này không bao giờ tàn hoại nhưng nếu con người biết
đến và sống đúng mực với chánh pháp thì xã hội loài người sẽ dần tiến đến
sự hài hòa, tiến bộ, bác ái; Chiến tranh, thù hận, xung đột giết chóc đồng loại
sẽ giảm thiểu nơi nhân loại, xã hội loài người sẽ an toàn, văn minh hơn.
Hành tinh xanh
còn tồn tại thì việc liễu thoát sinh tử cho dòng tâm ý sự sống nhàm chán sinh
tử sẽ có thêm nhiều cơ may. Và trên tất cả là xã hội con người sẽ giảm thiểu sự
khốn cùng, hỗn độn, rối ren khi giá trị con người hiển lộ.
Do vậy… Nên
chăng con người khi tìm đến đạo Phật và nhận ra chánh pháp thì hãy vì nhau ra
sức nâng cao ngọn đuốc chánh pháp, trả tri thức đúng mực, khách quan về sự tồn
tại dòng lưu chuyển tâm ý sự sống cho sự hiểu biết nhân loại, là việc làm có
tính chất cứu cánh, sống còn đối với sự tồn tại hay tàn hoại của hành tinh
xanh. Đây là đơn nghiệp ảnh hưởng, chi phối lại cộng nghiệp nhân loại.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét