Hóa giải thâm cừu giữa các hệ phái đạo Phật_Giải Mã Đạo Phật
Thứ Hai, 6 tháng 5, 2019
Hóa
giải thâm cừu, đại hận giữa các hệ phái đạo Phật
Thâm cừu, đại
hận - Nghe có vẻ thật khoa trương song cụm từ đó cũng không phải là cách diễn
đạt vô lối, đoản hậu. Nếu tựa trên bình diện tổng thể về sự phân tranh giữa các
hệ phái đạo Phật thì mọi người sẽ dễ dàng nhận ra sự rạn nứt, chẳng dung nhau
giữa các pháp môn học Phật là thật có, việc tương tàn giữa các hệ phái đạo Phật
đã là mối thù truyền kiếp từ rất lâu xa. Và ngày nay điều đó vẫn đang tiếp
diễn, việc những người học Phật khác tông phái, pháp môn dùng những lời thô
trược, hằn học ném vào nhau đã trở nên thường đến rất đỗi thường.
Người học Phật
lấy Từ bi hỷ xả làm gốc, lấy chánh kiến, chánh ngữ mà gieo duyên chánh pháp
nhãn tạng Như Lai. Thế sao… Vì đâu nên nỗi?
Việc tranh cãi
về pháp môn niệm Phật, cõi Tây Phương cực lạc vốn xảy ra lâu xa. Thời Lục Tổ
Huệ Năng, điều này chẳng phải đã được trả lời rốt ráo rồi sao?
…
Một hôm, Vi Sử
Quân mở hội trai Tăng mời Lục Tổ Huệ Năng cùng các bậc hương thân, kỳ lão,
thiện nam, tín nữ trong vùng đồng phó hội. Sau khi thọ trai xong Lục Tổ bảo với
mọi người rằng tùy chỗ nghi nên hỏi ta sẽ tùy chỗ biết mà trả lời.
Vi Sử Quân liền
thay mặt cho đại chúng tham vấn chỗ huyền nghi. Vi Sử Quân hỏi:
- Đệ tử thường
thấy người xuất gia, kẻ tại gia niệm Phật A di đà cầu vãng sinh Tây Phương cực
lạc. Nay mong Sư vì trừ chỗ nghi ngờ có - không mà giảng việc vãng sinh cực lạc
cho đại chúng được rõ.
Sư nói:
- Sử Quân và
đại chúng hãy lắng nghe. Khi xưa Đức Thế Tôn nơi thành Xá Vệ thuyết việc sinh
về Tây phương tịnh độ, câu chữ đã rất rõ ràng, nếu nói theo hình tướng thì
khoảng cách từ Ta Bà đến Tây Phương là mười muôn ức cõi. Nói gần, nói xa thì
phải xét gần với ai, xa với ai chẳng nên xây nhà trên hư không vậy. Nói xa là
do người học Phật suy lường bị mười điều ác trong tâm ngăn trở, gây chướng ngại
chỗ đến đi tự tại. Nói gần là với người thượng trí, thiện hành, tầm mắt rỗng
rang. Nên biết người có hai hạng, pháp không hai lối. Vì mê ngộ khác nhau nên
chỗ hiểu biết chẳng đồng, có mau chậm. Vậy nên người mê niệm Phật cầu vãng sinh
Tây Phương, người ngộ chỉ tự gạn lọc bản tâm, giữ lòng thanh tịnh. Cho nên Phật
nói “Tùy tâm tịnh tức cõi Phật tịnh”. Người nơi Ta Bà cõi này - Đông Phương chỉ
cần lòng thanh tịnh tức là giải thoát, nếu ở nơi Tây Phương mà lòng chẳng thanh
tịnh thì đâu thoát khỏi sự ràng buộc khổ não, sinh tử vì còn niệm vậy. Sử Quân
này! Nay ta hỏi ông “Người Đông Phương tạo tội niệm Phật cầu sinh Tây Phương.
Người Tây Phương tạo tội niệm Phật biết cầu sinh nơi nào? Người kém trí chẳng
hiểu tự tánh, không biết có cõi Tịnh độ nơi tâm mới ngược xuôi điên đảo, nguyện
Đông, cầu Tây. Người ngộ dù ở đâu cũng vậy, cho nên Phật nói “Tùy chỗ mình ở mà
thường giải thoát”. Sử Quân! Chỉ cần tâm thiện thì Tây Phương chẳng xa. Nếu giữ
hoài tâm bất thiện, niệm Phật vãng sinh e là điều hư vọng, chẳng thật.
- Nay Huệ Năng
khuyên các vị thiện tri thức! Trước trừ mười điều ác, tức là qua được mười muôn
cõi nước ngăn cách Tịnh độ. Khi trừ được mười sự ác chướng ngăn ngại thì mỗi
niệm thường thấy tánh, thường làm chuyện công bằng, chính trực. Lúc ấy, việc
đến Tây Phương nhanh như khảy móng tay, liền thấy Phật A di đà. Sử Quân! Người
học Phật chỉ cần siêng năng hành trì mười điều lành thì cần gì phải nguyện vãng
sinh Cực Lạc mà cõi A di đà tự hiện. Nhược bằng tâm chẳng dứt mười điều ác Phật
nào đến rước? Nếu ngộ pháp vô sanh thì thấy Tây Phương ngay trước mắt. Chẳng
ngộ pháp vô sanh, niệm Phật cầu vãng sinh biết bao giờ mới đến được chỗ dừng
chân? Huệ Năng sẽ vì đại chúng dời Tây Phương về đây. Đại chúng muốn thấy
chăng?
Đại chúng đều
nói “Nếu nơi này được thấy Tây Phương thì đâu cần lại nguyện vãng sinh Tây
Phương chi nữa. Xin Sư từ bi hiện cõi Tây Phương cho đại chúng đều được khai
tâm”.
Sư nói:
- Này đại
chúng! Hãy xét lại thân mình. Sắc thân là thành quách, nhà cửa nhóm họp từ bảy
báu, bảy báu đó là Thất đại - Địa đại, Thủy đại, Phong đại, Hỏa đại, Kiến đại,
Thức đại, Không đại. Ngoài có năm cửa là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Trong có
cửa ý - thức tánh . Tâm là nền đất, thức tánh là vua. Vua ở trên đất tâm. Thức
tánh còn thì vua còn, thức tánh đi thì vua mất. Thức tánh còn thì thân tâm còn,
thức tánh đi thì thân tâm hoại. Phật do tự tánh khởi lên, đừng cầu tìm ở bên ngoài.
Tự tánh u mê là chúng sinh, tự tánh giác ngộ là Phật. Từ bi là Quán Âm. Hỷ xả
là Thế Chí. Thường tịnh tức Thích Ca. Bình đẳng là A di đà. Tâm chấp ngã là núi
Tu Di, tâm tà là biển cả. Phiền não là sóng cuộn. Độc hại là rồng dữ. Hư vọng
là quỉ thần. Trần lao là cá trạnh. Tham sân là địa ngục, ngu si là súc sinh.
Các vị thiện tri thức! Thường làm mười điều lành thì nơi nào chẳng là Tịnh độ.
Trừ tâm chấp ngã thì làm núi Tu Di đổ. Bỏ tâm tà thì biển cả khô cạn. Phiền não
không còn thì sóng cuộn sẽ lặng, độc hại quên đi thì rồng dữ tự diệt. Tự trong
tâm địa là tánh giác Như Lai, phóng ánh đại quang minh, chiếu ra sáu cửa đều
thanh tịnh, phá được các cõi trời Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Tự tánh soi
chiếu bên trong, ba độc - Tham sân si liền trừ, các tội địa ngục đồng thời tan
rã. Trong ngoài sáng tỏ thì chẳng khác Tây Phương. Nếu không hành trì được như
vậy thì làm sao tới được tịnh độ?
Đại chúng nghe
giảng thuyết, rõ ràng thấy tánh đồng thời cùng nhau lễ bái, xưng tán, nguyện
rằng “Lành thay! Nguyện cho hết thảy chúng sinh nghe được pháp này đều tức thời
tỏ ngộ”.
Sư lại nói:
- Này các vị
thiện tri thức! Nếu muốn tu hành, tại gia cũng tu được không nhất thiết phải
đến ở chùa. Tại gia thường tu hành, như người ở cõi Ta Bà mà tâm thiện. Ở chùa
chẳng tu hành, như người Tây Phương mà tâm ác. Chỉ giữ lòng thanh tịnh tức là
tự tánh Tây Phương.
Về sau, Lục Tổ
Huệ Năng lại vì người học Phật mà diễn nói rành rõ việc Quy y Tam bảo:
- Quy y Phật,
quy y Giác, Lưỡng túc tôn.
- Quy y Pháp,
quy y Chánh, Ly dục tôn.
- Quy y Tăng,
quy y Tịnh, Chúng trung tôn.
Từ nay trở đi
nương Giác - Chánh - Tịnh làm thầy, trọn chẳng quy y tà ma, ngoại đạo.
Này thiện tri
thức! Ta khuyên thiện tri thức hãy nên quy y Tự tánh Tam bảo. Phật tức Giác,
Pháp tức Chánh,Tăng tức Tịnh. Tự tâm quy y Giác thì tà mê chẳng sinh, thiểu dục
tri túc hay lìa Tài - Sắc nên gọi Lưỡng túc tôn. Tự tâm quy y Chánh là niệm
niệm chẳng tà kiến, vì chẳng có tà kiến nên chẳng có nhân ngã, cống cao, tham
ái, chấp trước nên gọi là Ly dục tôn. Tự tâm quy y Tịnh là tự tánh đối với tất
cả trần lao ái dục đều chẳng nhiễm trước, gọi là Chúng trung tôn.
Nếu tu hạnh này
là tự tánh quy y. Người kém trí hư vọng, mê muội từ sớm đến tối thường khuyên
người thọ Tam quy y mà chẳng hiểu. Nếu nói quy y Phật, Phật ở chỗ nào? Nếu
chẳng thấy Phật thì dựa vào đâu quy y? Nói ra lại thành vọng.
Này thiện tri
thức! Mọi người hãy xem xét kỹ, chớ lầm dụng tâm. Trong kinh nói rõ ràng là quy
y tự tánh Phật, chẳng có nói quy y tha Phật. Tự tánh Phật chẳng quy y thì đâu
còn chỗ nào quy y nữa.
Nay ta nói cho
các người rõ về sau mỗi mỗi đều phải quy y Tự tánh Tam bảo, bên trong sửa đổi
tâm tánh, bên ngoài kính mến mọi người tức là tự quy y vậy.
…
Nếu có người
lại hỏi “Cõi Tây Phương cực lạc là thật có không?” thì tôi sẽ tùy chỗ biết trả
lời.
- Vạn pháp duy
tâm, Tam giới duy thức - Thế nên do nơi tín tâm của người học Phật mà cõi Tây
Phương được tựu thành. Song vì người học Phật khi chết ở Ta Bà vãng sinh Tây
Phương nên là có đến có đi; Có đến có đi là còn trong sinh diệt, nào phải đã
vãng sinh. Vậy nên muốn thật giải thoát thì chí ít sẽ phải chết thêm lần nữa.
Nếu lại có
người phản vấn “Lời này nghịch ý kinh” thì tôi sẽ hồi đáp:
Lời kia chẳng
nghịch ý kinh chỉ do người chẳng khéo hay phân biệt lại sinh điều ràng buộc,
dính mắc vì thế nên chướng ngại việc liễu sinh thoát tử. Nên biết Phật Thích Ca
không đợi đến chết rồi mới thành Phật do vậy người học Phật từ xưa đến nay muốn
giải thoát hoàn toàn thì phải ngay nơi hiện kiếp, ngay cõi hiện tồn mà chứng
ngộ pháp vô sanh, chẳng nên điên đảo vọng cầu Đông Tây giả lập mãi.
…
Người học Phật
xưa thường khởi vọng chấp. Kinh Phật là phải do lời Phật Thích Ca thuyết, lời
các Tổ không thể gọi là kinh Phật mà chỉ là những Tạng Luận. Sau rốt, Lục Tổ
Huệ Năng với pháp khí đại thừa đã dùng lời khế hợp, khế cơ tùy nghi thuyết
pháp. Những lời lẽ ngắn gọn, xúc tích, chỉ bày giúp người học Phật trực chỉ
nhân tâm, kiến tánh thành Phật, Pháp ngữ do Lục Tổ Huệ Năng diễn nói về
sau được kết tập thành Pháp Bảo Đàn kinh. Điều này chẳng phải là đã phá vỡ
nguyên tắc “Kinh Phật nhất thiết phải do chính Phật Thích Ca thuyết rồi sao?”.
Phật giáo đại
thừa đã dung nạp Pháp Bảo Đàn kinh xem những lời Lục Tổ không khác lời Phật
thuyết.
Phật giáo
nguyên thủy không dung nạp kinh điển đại thừa cũng là vì cho rằng kinh điển đại
thừa không do lời Phật Thích Ca thuyết. Tuy vậy, Phật giáo nguyên thủy lại dung
nạp kinh Mi tiên vấn đáp, là bộ kinh xuất hiện sau những bộ kinh Nikaya vài
trăm năm. Dựa vào bối cảnh cũng như lời giới thiệu của bộ kinh Mi tiên vấn đáp
thì người học Phật dễ dàng nhận ra đây không phải kinh do Phật Thích Ca diễn
nói.
Tại sao lại có
việc hệ phái Phật giáo nguyên thủy không dung nạp kinh điển đại thừa mà lại dễ
dàng chấp nhận kinh Mi tiên vấn đáp?
Vậy nên vấn đề
Phật giáo nguyên thủy không dung nạp kinh điển đã không còn là vấn đề kinh Phật
phải do lời Phật thuyết nữa mà đã là vấn đề khác.
Người học Phật
khách quan, đúng mực, sáng suốt nên chăng xét lại rốt cuộc Phật giáo nguyên
thủy kỳ thị kinh điển đại thừa là do vấn đề gì? Và hệ phái Phật giáo đại thừa
có phủ định kinh điển nguyên thủy không?
Trên thực tế hệ
phái Phật giáo đại thừa không hề có sự phủ định kinh điển nguyên thủy. Vậy nên
lập luận cho rằng giáo lý hệ phái Phật giáo đại thừa không có Bát chánh đạo, Tứ
diệu đế là nhận định có điều lỗi lầm, rơi vào biên kiến chủ quan. Vì sao? Vì
kinh điển đại thừa bao hàm cả kinh điển nguyên thủy thế nên nói hệ phái Phật
giáo đại thừa không có Bát chánh đạo, Tứ diệu đế thì khác nào người học Phật
theo hệ phái nguyên thủy nói kinh điển nguyên thủy cũng không có Bát chánh đạo,
Tứ diệu đế. Rõ thật đây là việc muốn chặt chân người thì trước đã chặt chân
mình. Có câu y pháp bất y nhân thế nên người học Phật Nam Tông chớ vì sự sai
lạc ở những người học Phật Bắc Tông hoặc là vì lòng tự tôn nguyên thủy chánh
tông Phật môn mà tự rơi vào điều lầm lỗi, che mờ trí tuệ Phật.
Có nhiều
vấn đề dẫn đến sự kỳ thị kinh điển đại thừa ở người học Phật thuộc hệ phái Phật
giáo nguyên thủy và việc “Thương nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau thì quả bồ hòn
cũng nói vuông”, thế nên đã phát sinh nhiều hệ lụy.
Vấn đề khiến
Phật giáo nguyên thủy không dung nạp kinh điển đại thừa trước là do vấn đề văn
phong, tư tưởng giữa hai hệ thống kinh điển Phật giáo. Quả thật là văn phong,
tư tưởng giữa giáo lý kinh điển nguyên thủy và kinh điển đại thừa có sự sai
biệt rất lớn. Khi khách quan đánh giá người tham cứu sẽ dễ dàng nhận ra hệ
thống kinh điển Tam Tạng cơ hồ chẳng thể do một người trình bày. Có một sự khác
biệt rõ rệt về văn phong, dòng tư tưởng, cách thức diễn đạt giữa kinh điển
nguyên thủy và kinh điển đại thừa; Có cả yếu tố tri thức sai khác giữa hai thời
đại bày ra nơi nội dung ở giáo lý hai hệ phái nguyên thủy - đại thừa. Thế nên
người học Phật thuộc hệ phái Nam Tông phủ định kinh điển đại thừa không phải do
Phật Thích Ca thuyết là việc làm không hề sai, song lại cũng không thật đúng vì
việc làm này đã rơi vào biên kiến tranh hơn thua, tâm của người học Phật rơi
vào lẽ đúng sai này đã đánh mất sự thanh tịnh, giải thoát.
Vấn đề sâu xa
dẫn đến việc không dung nạp kinh điển đại thừa ở hệ phái Nam Tông cơ hồ không
phải do văn phong, tư tưởng giáo lý có sự sai biệt mà kỳ thực là do lòng tự tôn
nơi người học Phật mà ra. Hai chữ Đại thừa - tiểu thừa được người học Phật hiểu
sai đại ý, chỗ dụng tâm của người thuyết ra kinh điển đại thừa. Đại thừa - Tiểu
thừa vốn không mang nghĩa hệ phái đại thừa là lớn, hệ phái nguyên thủy là nhỏ.
Vì hiểu sai chỗ dụng tâm của Giác giả mà người học Phật Nam Tông - Bắc Tông rơi
vào việc kỳ thị, đả phá, dấy khởi đại cuộc tranh luận trải qua hàng thiên niên
kỷ, việc làm chỉ khiến tăng trưởng Tham sân si mạn nghi ràng buộc mà chẳng giúp
ích gì cho sự giải thoát nơi người học Phật.
Thực ra đại
thừa chỉ mang hàm nghĩa là thuyền lớn nên có thể nâng đỡ được nhiều người, tiểu
thừa là thuyền nhỏ chủ yếu là tự cứu mình sau lại dìu dắt thêm ít người. Đại
thừa là tâm hạnh rộng lớn, trải đều muôn lối, việc hoằng dương chánh pháp thênh
thang; Tiểu thừa tâm hạnh nhỏ nhẹm hơn, chỉ tùy duyên hóa độ người, việc hoằng
dương chánh pháp do vậy tự có điều chướng ngại.
Ban đầu, tiểu
thừa không hàm nghĩa là hệ phái Phật giáo nguyên thủy, đại thừa không phải là
biểu trưng của Phật giáo đại thừa. Tuy nhiên, về sau do tri kiến sai lầm ở
người học Phật dẫn đến tri kiến lập tri nên đại cuộc thành hình, lý kia thành
sự. Người học Phật thuộc hệ phái nguyên thủy vì không dung nạp kinh điển đại
thừa nên sau rốt hành vi trở nên tiểu thừa, trở thành thuyền nhỏ chở được ít
người; Người học Phật theo hệ phái đại thừa tấm lòng rộng mở nên thành thuyền
lớn chở được nhiều người hơn. Về lập luận này có “cưỡng từ đoạt lý” hay không
thì cứ nhìn vào lịch sử phát triển của Phật giáo sẽ rõ. Thực tế là hệ phái Phật
giáo đại thừa có tính phổ truyền chánh pháp lan rộng hơn việc hoằng pháp của hệ
phái Phật giáo nguyên thủy.
Chỉ do tự ràng
buộc mà hệ phái nguyên thủy trở thành tiểu thừa, chứ không phải do nơi hệ phái
đại thừa kỳ thị mà hệ Phật giáo nguyên thủy trở nên là thuyền nhỏ. Song mầm
móng tiểu thừa vốn sẵn có nơi hệ phái Phật giáo nguyên thủy, cả hệ phái Phật
giáo đại thừa cũng ẩn tàng tánh tiểu thừa. Bậc Giác giả thông tuệ đã nhận diện
mầm móng tiểu thừa ở giới xuất gia nên khép Tăng bảo vào thành phần học Phật
Thanh văn thừa.
Chữ tiểu thừa
mà bậc Giác giả dùng là nhằm vào người học Phật Thanh văn thừa chứ không mang
hàm nghĩa là hệ phái Phật giáo nguyên thủy. Chữ đại thừa được Giác giả dùng nhằm
biểu dương người học Phật phát tâm Bồ tát, sẵn sàng làm cầu đò nâng đỡ, giúp
người thoát khổ chứ không mang hàm nghĩa là hệ phái Phật giáo đại thừa. Người
học Phật xưa nay đã hiểu không thật đúng về dụng tâm của Giác giả nên sự hiểu
biết chánh pháp rơi vào lầm lạc, hư vọng.
Vì rõ biết
người học Phật xuất gia - Tăng bảo là hạnh Thanh văn thừa nên khó lập nên kỳ
tích, Giác giả khó tựu thành nơi đạo Phật do vậy bậc Giác giả thông tuệ đã cảnh
tỉnh người học Phật về tánh tiểu thừa thường tại nơi Tăng bảo. Bậc Giác giả
thông tuệ rõ biết người tại gia hành bồ tát đạo, tâm hạnh xuất trần chan hòa,
rộng khắp nên dùng chữ đại thừa biểu dương cho người học Phật có pháp khí đại
thừa thường có ở nẻo đời.
Người học Phật
ngày nay dễ thường được nghe “Phật giáo Trung Hoa mang danh nghĩa Phật giáo đại
thừa kỳ thực hành vi, tâm hạnh tiểu thừa”, điều này là một thực tế đang diễn ra
ở khắp mọi nơi chứ không riêng gì ở đất nước Trung Quốc. Đây cũng chính là một
nguyên nhân khiến người học Phật Nam Tông không dung nạp giáo lý của Phật giáo
Bắc Tông vì lời nói của người học Phật ở hệ phái đại thừa thường hoa mỹ, hay
đẹp nhưng việc làm thì chẳng đến - lý sự chẳng đồng.
Mầm móng tiểu
thừa ở giới Tăng bảo, người xuất gia không kể theo hệ phái nguyên thủy hay hệ
phái đại thừa là sự thật hiển nhiên, thường trụ do vậy nên Giác giả đã vì người
học Phật đời sau mà bày ra lý tiểu thừa - đại thừa.
Vì sao người
học Phật xuất gia - giới Tăng bảo bị xếp vào Thanh văn tiểu thừa? Vì người học
Phật này bị trói thân vào pháp, nẻo đạo - người rơi vào biên kiến cùng
với sự chủ quan sẵn có nơi tâm mỗi chúng sinh sẽ khó thể giác ngộ hoàn toàn.
Việc học Phật của Tăng bảo đa phần nương nơi văn tự kinh điển nên gọi Thanh
văn, việc tự chứng ngộ như Duyên giác thừa đã khó, việc chứng ngộ Bồ tát thừa,
Phật thừa lại càng khó hơn. Do việc chứng ngộ chẳng triệt liễu nên việc hành Bồ
tát đạo tự khắc sẽ chướng ngại, dẫu thế nào cũng chỉ là thuyền nhỏ nên gọi tiểu
thừa.
Lại nhìn vào
lịch sử phát triển của đạo Phật một cách khẳng khái, khách quan người thả lòng
sẽ nhận ra “Thật vậy! Chánh pháp của đạo Phật tồn tại, phát triển qua hơn hai
ngàn năm kể cả thời Phật Thích Ca tại thế chính là nhờ vào người tại gia hộ
trì, giúp mạch pháp lan tỏa; Giới xuất gia chỉ là người đóng vai trò giữ gìn và
truyền Pháp bảo của Phật theo nhu cầu”.
…
Mối thâm cừu,
đại hận giữa các hệ phái đạo Phật sẽ được hóa giải khi người học Phật mở lòng
thừa nhận Phật Thích Ca là bậc Giác giả đầu tiên ra đời; Vài trăm năm sau lại
có người nương nơi giáo lý Phật Thích Ca mà chứng ngộ vạn pháp, do rõ biết
những giới hạn tồn đọng nơi người học Phật đương thời nên đã thuyết ra kinh
điển đại thừa dựa trên nền tảng giác ngộ giải thoát hoàn toàn mà Phật Thích Ca
trao truyền. Vị Giác giả này vì triệt ngộ nên đâu cần một danh xưng nào khác
nên tùy thuận hòa giáo lý mang lại sự giác ngộ giải thoát vào pho Tam Tạng kinh
của Phật Thích Ca.
Về sau ngài
Long Thọ vì chưa triệt ngộ, còn tham luyến chút hư danh nên khi soạn kinh Hoa
Nghiêm đã khéo vụng để lộ hành tung. Thế nên, có thể khẳng định pho Tam Tạng
kinh vốn không do một vị Giác giả thuyết, ngoài vị Giác giả Thích Ca còn có đến
ít nhất một vị Giác giả khác hoàn toàn triệt ngộ đã góp phần làm nên một pho
giáo lý bất khả tư nghị giải thoát.
…
Mục đích tìm
đến đạo Phật của bạn là gì?
Là tranh hơn
luận thắng, là phước báu lợi dưỡng, là sự hiểu biết rộng khắp vượt trội,… hay
là vì sự thoát khổ, giải thoát hoàn toàn?
Kinh Phật chỉ
nhằm vào mục đích giúp chúng sinh 3 cõi thoát khổ, giải thoát hoàn toàn. Kinh
Phật là lời ai tuyên thuyết cơ hồ không là điều tuyệt đối quan trọng, điều quan
trọng hơn đó là ở mục đích của lời nói mang lại, lời nói đó có tương hợp, dung
thông với chánh pháp cứu khổ, giải thoát hoàn toàn hay không? Nếu không được
vậy thì không thể xem là kinh Phật.
Vậy nên khi
tham cứu kinh điển nguyên thủy bạn có nhận thấy nơi giáo lý đó chỉ bày con
người thoát khổ, giải thoát hoàn toàn không? Khi tham cứu kinh điển đại thừa
bạn có thấy con đường hướng chúng sinh thoát khổ, vượt thoát sinh tử không?
Nếu bạn nhận
thấy có sự thoát khổ, giải thoát hoàn toàn ở giáo lý Phật giáo nguyên thủy,
Phật giáo đại thừa thì đó chính thật là kinh Phật. Nếu bạn không nhận thấy điều
đó thì giáo lý mà bạn đang tham cứu là của ai đã không còn là điều quan trọng,
tranh luận thêm phỏng có ích gì?
Bạn hãy nên xác
định rõ lại mục đích của mình. Đừng vì ngã chấp, kiến chấp, pháp môn chấp… mà
sa vào vòng thị phi tranh luận đảo điên. Tham sân si mạn nghi khởi lên, điều đó
không mang lại cho bạn sự giải thoát, cõi nước thanh tịnh trong bạn sẽ bị khuấy
động. Do vậy người học Phật hãy nên bảo nhậm.
Nếu là đúng
duyên thì tùy thuận chia sẻ chỗ biết khách quan của mình, đừng nói những điều
mình không thật rõ biết, đó chỉ là hý luận, lạm bàn, là lời hư vọng… Điều đó là
vô ích và phiền não.
Đừng khẳng khái
cho rằng tự thân đang ra sức bảo vệ pháp môn là đang hộ trì Tam bảo, hoằng
dương chánh pháp. Vì sao? Vì đã là chánh pháp thì không cần đến sự bảo vệ, hộ
trì.
- Bảo vệ Phật
chăng? Phật ở đâu? Bạn đang bảo vệ Phật Thích Ca hay hộ trì vị Phật tựa nơi
lòng bạn kiến tạo chủ quan? Phật Thích Ca đã nhập diệt, Phật Thích Ca từ xưa
đến nay đâu từng cần đến ai bảo vệ. Phật tại tâm. Tâm Phật nào loạn động sao
cõi nước nơi lòng bạn dậy sóng Tham sân si mạn nghi?
- Bảo vệ pháp
chăng? Đó chỉ là pháp môn sở cậy của bạn. Pháp môn đó chưa viên thông nên mới
chẳng đủ lượng dung nạp vạn pháp, pháp môn đó chưa tinh thuần nên chẳng thể hòa
hợp với pháp môn người. Pháp Phật vốn bình đẳng, chẳng cao thấp, chẳng dơ sạch,
chẳng lớn nhỏ, chẳng đúng sai, chẳng hay dở… Bạn đang bảo vệ điều gì? Đó chẳng
phải là ngã chấp như núi Tu Di hiện tồn nơi bạn đấy sao? Đó là hầm sâu vô minh
chứa muôn điều ràng buộc. Người học Phật trước phá ngã thành vô ngã, sau không
còn chấp ngã, chấp vô ngã; Việc làm tùy thuận khế hợp, khế cơ. Nên chăng?
- Bảo vệ Tăng
chăng? Tăng bảo có mong manh, yếu đuối như lòng bạn nghĩ. Hơn nữa, khi họ phạm
giới, rơi vào phước báo danh lợi liệu bạn đủ sức bảo vệ họ chăng?
Phải chăng muốn
cởi trói người trước đã phải tự cởi trói cho mình? Muốn giúp người qua sông
sinh tử thì chí ít mình phải đang ở trên thuyền lớn, lòng rộng mở thênh thênh
hoặc giả cũng đã là người vượt thoát dòng sinh tử.
Nhân đây, tôi
cũng vụng bày ra điểm giới hạn hiện tồn ở giáo lý hệ phái Phật giáo nguyên
thủy. Nếu có điểm giới hạn này trong tri kiến thì người học Phật hãy nên sớm
dùng trí tuệ khách quan giải trừ.
Điểm giới hạn
đó là việc khẳng định không có linh hồn trong mỗi chúng sinh, mỗi con người.
Hẳn là lời thuyết của Giác giả Thích Ca không có sự khiếm khuyết này, có lẽ do
nơi người kết tập kinh điển tiểu thừa hiểu sai ý Phật nên bày ra chỗ vụng.
Nếu người học
Phật khẳng định không có linh hồn thì lời Phật Thích Ca sẽ rơi vào đoạn diệt,
Tam Tạng kinh sẽ mất điểm tựa. Lời Giác giả trước sau không từng rơi vào chấp
Đoạn, chấp Thường. Thế nên, đây chỉ là do người học Phật đời sau hoặc việc “Tam
sao thất bản” kinh điển dẫn đến sự thiếu khuyết, chẳng rõ.
Vì sao nói nếu
không có linh hồn thì Tam Tạng kinh trở nên mất điểm tựa, thành ra vô nghĩa?
Vì nếu không có
linh hồn nghiệp biết nương vào đâu để dẫn dắt chúng sinh trôi lăn trong 3 cõi 6
đường. Nếu không có linh hồn thì việc luân hồi sẽ chẳng lập, quy luật sinh tử
nhân quả sẽ rơi vào đoạn diệt, Tam Tạng kinh trở nên vô nghĩa hoàn toàn. Điều
chẳng thật đúng đó sẽ khiến Tam Tạng kinh rơi vào đoạn diệt.
Do vậy nếu
người học Phật loại trừ cụm từ “Linh hồn” thì người học Phật phải dùng một ngôn
từ giả lập thay vào chữ “Linh hồn” như là thần thức, tâm thức,… hoặc là tâm ý
sự sống như là cách tôi giả lập dùng để lý giải việc luân hồi. Vậy nên nếu
người học Phật Nam Tông muốn không dùng từ “linh hồn” để diễn nói pháp Phật thì
phải dùng một cụm từ nào khác thay vào chứ không thể rơi vào chấp Đoạn nói
“Không có linh hồn”. Về điểm này, nếu người học Phật không thông thời khó mong
liễu ngộ chánh pháp.
Hệ phái Phật
giáo nguyên thủy không đồng thuận tri kiến của hệ phái Phật giáo đại thừa về
việc Phật Thích Ca vốn đã thành Phật rất lâu xa, sau vì thấy chúng sinh cõi Ta
Bà mà thị hiện trở lại nẻo người, trải qua bao gian truân tầm đạo, thành đạo
rồi truyền đạo là điểm sáng rõ, khách quan, đúng mực với chánh pháp Như Lai
tạng.
Vậy vì sao có
sự xuất hiện tri kiến sai lạc của người học Phật ở hệ phái đại thừa?
Nguyên nhân do
bởi vị Giác giả đời sau tùy thời thuyết pháp đã tạo ra vô số hóa thân Phật, Bồ
tát nhằm hiển bày những pháp phương tiện ngõ hầu dẫn dắt người học Phật đương
thời về con đường thoát khổ, giải thoát hoàn toàn. Kết hợp với việc Phật Thích
Ca chứng ngộ pháp vô sanh, chưa từng sinh ra, là trở về nơi bắt đầu và cũng bởi
do việc thần thánh hóa Phật mà người học Phật sau này, những người còn trong lưới
vô minh đã lập luận Phật Thích Ca vốn đã thành Phật từ trước, sau vì khởi tâm
từ bi với chúng sinh mà tái nhập cõi Ta Bà. Kết quả là tri kiến mê lầm của
người học Phật vô minh thời xưa đã trói sự hiểu biết ở người học Phật thời nay.
Nên biết chư
Phật và vạn pháp vốn chẳng thật có, chẳng thật không. Chư Phật là ai? Phật là
Như Lai, là không đến, không đi. Như Lai chẳng có 3 thời thế nên chẳng có Phật
3 thời - Quá khứ, hiện tại, vị lai. Đã là Như Lai thì chẳng có danh tự để lập
thế nên không có Phật với 10 hiệu. Nói Như Lai, nói Phật là vì người mê mà nói.
Vậy nên danh hiệu chư Phật, chư Bồ tát có nơi kinh điển là tánh hạnh của người
học Phật cầu đạo Bồ đề đi trên con đường giác ngộ giải thoát hoàn toàn mà Giác
giả tùy thuận diễn nói.
…
Tóm lai, mục
đích của Giác giả thông qua Tam Tạng kinh là chỉ bày cho con người về quy luật
luân hồi sinh tử, tự tánh vạn pháp và việc liễu thoát sinh tử.
Người học Phật
chân chính là người tìm đến đạo Phật với mục đích sáng rõ. Kinh Phật chỉ nhằm
vào việc cứu khổ, giải thoát hoàn toàn, thế nên người học Phật nếu vì mục đích
thoát khổ, giải thoát hoàn toàn tìm đến thì nhất định sẽ thành tựu.
Việc tranh hơn,
luận thắng chỉ là sự hý luận vô minh. Việc phân chia ranh giới pháp môn cao
thấp, nhanh chậm chỉ là điều chướng ngại cho người tìm về sự giải thoát, chứng
ngộ vạn pháp.
Khi xưa Thái tử
Tất đạt đa vì tấm lòng rộng mở, dung nạp vạn pháp mà trở nên bậc Toàn Giác.
Người học Phật ngày nay vì đâu lại dấy khởi tâm địa hẹp hòi, đố kỵ, ganh tỵ nhỏ
nhen?
Nếu là người
sáng mắt, là khách đã sang sông thì hãy vì người học Phật mà diễn nói chánh
pháp Như Lai tạng. Nếu hãy còn trong lưới mộng vô minh, chân ngụy chẳng rõ thì
chớ nên tùy tiện nói càn vì tri kiến mê mờ đó không chỉ gây tổn người mà còn là
việc di hại chính mình.
Nếu người học
Phật có chánh kiến, chánh tư duy một khi tham cứu được những điều đúng mực,
khách quan, sáng rõ thì hãy vì nhau mà phổ truyền, đó chính là việc báo đền ơn
Phật, là việc hoằng dương chánh pháp vậy.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét