Huyền Môn Và Đạo Phật_Giải Mã Đạo Phật
Thứ Năm, 23 tháng 5, 2019
Huyền môn và đạo Phật
Vạn
pháp duy tâm, Tam giới duy thức.
Đạo
Phật ngày nay đã lan rộng ở phạm vi thế giới song chiếc chìa khóa có công năng
khai mở trí tuệ bát nhã ngõ hầu giúp loài người chạm đến sự hiểu biết sáng rõ
về nguốn gốc con người - sự sống, tự tánh Như Lai cũng như cách thức vượt thoát
khỏi quy luật sinh tử cơ hồ đã không còn hữu dụng.
Vì sao
lại như vậy?
Ngày
nay, thế giới tâm linh được nhiều người tin nhận, việc luân hồi, sự giải thoát
hoàn toàn đã có rất nhiều người biết đến khi tìm hiểu đạo Phật song vẫn chưa có
người tìm ra được lối thoát khỏi luân hồi. Nguyên nhân là do niềm tin không đủ
chăng? Hay do sự hiểu biết thiếu đi tính khách quan, sáng rõ, đúng mực?
Một
trong những nguyên nhân khiến chánh pháp nơi đạo Phật không mang lại trí bát
nhã cho người học Phật đó chính là yếu tố huyền học, bí thuật. Yếu tố huyền học
là phần giáo lý bị bỏ ngỏ nơi những lời Phật Thích Ca tuyên thuyết.
Vì sao
Phật Thích Ca bỏ ngỏ yếu tố huyền học trong giáo lý giác ngộ giải thoát hoàn
toàn?
Vì
huyền học sẽ gây ra sự chướng ngại cho người tìm cách thoát khổ, liễu thoát
sinh tử. Phật Thích Ca, Giác giả rõ biết giá trị, vị trí của huyền học. Huyền
học gần như vô nghĩa đối với việc giải thoát hoàn toàn của con người. Hơn nữa,
lúc bấy giờ những người tìm đến học hỏi giáo lý giác ngộ giải thoát không dính
mắc nhiều về vấn đề huyền học. Do vậy mà Phật Thích Ca đã không đề cao huyền
học, không đặt huyền học vào nơi giáo lý Tam Tạng kinh.
Song
người học Phật ngày nay, phần nhiều không rõ gốc ngọn nên tin nhận bùa chú, huyễn
thuật, tử vi, bói toán… Do dính mắc yếu tố huyền học nên việc học Phật của con
người ngày nay có sự nghẽn lối, vấp nhiều chướng ngại.
…
Lẽ ra
người học Phật ngày nay nên nhớ việc quy y Tam bảo một cách đúng mực. Quy y Tam
bảo với lời răn của Lục Tổ Huệ Năng:
- Quy y
Phật, quy y Giác, Lưỡng túc tôn.
- Quy y
Pháp, quy y Chánh, Ly dục tôn.
- Quy y
Tăng, quy y Tịnh, Chúng trung tôn.
Từ nay
trở đi nương Giác - Chánh - Tịnh làm thầy, trọn chẳng quy y tà ma, ngoại đạo.
Này
thiện tri thức! Ta khuyên thiện tri thức hãy nên quy y Tự tánh Tam bảo. Phật
tức Giác, Pháp tức Chánh,Tăng tức Tịnh. Tự tâm quy y Giác thì tà mê chẳng sinh,
thiểu dục tri túc hay lìa Tài - Sắc nên gọi Lưỡng túc tôn. Tự tâm quy y Chánh
là niệm niệm chẳng tà kiến, vì chẳng có tà kiến nên chẳng có nhân ngã, cống
cao, tham ái, chấp trước nên gọi là Ly dục tôn. Tự tâm quy y Tịnh là tự tánh
đối với tất cả trần lao ái dục đều chẳng nhiễm trước, gọi là Chúng trung tôn.
Nếu tu
hạnh này là tự tánh quy y. Người kém trí hư vọng, mê muội từ sớm đến tối thường
khuyên người thọ Tam quy y mà chẳng hiểu. Nếu nói quy y Phật, Phật ở chỗ nào?
Nếu chẳng thấy Phật thì dựa vào đâu quy y? Nói ra lại thành vọng.
Này
thiện tri thức! Mọi người hãy xem xét kỹ, chớ lầm dụng tâm. Trong kinh nói rõ
ràng là quy y tự tánh Phật, chẳng có nói quy y tha Phật. Tự tánh Phật chẳng quy
y thì đâu còn chỗ nào quy y nữa.
Nay ta
nói cho các người rõ về sau mỗi mỗi đều phải quy y Tự tánh Tam bảo, bên trong
sửa đổi tâm tánh, bên ngoài kính mến mọi người tức là tự quy y vậy.
…
Huyền
môn có thật không? Câu trả lời hiển nhiên là huyền môn có thật. Lá số tử vi,
kinh dịch, bói toán, thuật chiêm bốc, bùa chú, huyễn thuật… tất cả những gì
liên quan đến huyền học đã hiện tồn và trói buộc cũng như tương tác với xã hội
loài người trải suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Vì lẽ đó chẳng thể nói huyền
môn không thật có, song tự tánh vạn pháp là không, là huyễn nên huyền môn cũng
hư huyễn, chẳng thường tại; Do vậy tự tánh huyền môn đồng thời cũng là không.
Sắc tức
thị không, không tức thị sắc; Sắc bất dị không, không bất dị sắc thế nên khi
con người dùng ý thức, nhận thức, tư duy dựa trên nền tảng nhị nguyên để biện
luận sự có không của mọi sự vật, hiện tượng thì con người sẽ nhận thấy có Có,
có Không. Tuy nhiên, khi vượt ra khỏi giới hạn nhận thức, tư duy nhị nguyên và
thâm nhập vào tự tánh, bản chất của mọi sự vật, hiện tượng với trí tuệ bát nhã
thì con người sẽ nhận ra Có và Không là tướng đối đãi chẳng thật; Có - Không
nương nhau mà lập, nương nhau mà hoại song Có cũng là Không, Không cũng là Có.
Vì bởi Có - Không chuyển biến qua lại, thường hoán đổi vị trí cho nhau theo tự
tánh vô thường của vạn pháp; Có - Không không có tánh cố định, thường tại; Có -
Không được giả lập nên là do hội đủ yếu tố duyên.
Vì thế
nên với một sự khách quan, sáng rõ, đúng mực con người sẽ nhận ra vạn pháp vốn
thật chẳng phải có, chẳng phải không; Việc khẳng định, xác quyết Có - Không ở
mỗi sự vật, hiện tượng (nói riêng), vạn pháp (nói chung) chỉ là cách nhìn nhận
vấn đề rơi vào biên kiến chủ quan, cực đoan, bảo thủ.
Bởi do
rơi vào biên kiến hoặc nhị nguyên nên đã từ lâu tri thức, nhận thức, tư duy của
loài người đã không còn thật đúng về bản chất mọi sự vật hiện tượng và cả con
người. Và đó cũng chính là nguyên nhân, là giềng mối khiến cho xã hội loài
người lâm vào hiện cảnh hỗn độn, rối ren, khốn cùng với chiến tranh, thiên tai,
dịch bệnh cùng sự tàn hoại, diệt vong.
…
Tại sao
huyền môn lại đúng với thưc tế đời sống con người?
Vì Tam
giới duy tâm, Tam giới duy thức. Những quy ước, định mức có nơi huyền môn được
giả lập nơi tri thức loài người đã âm thầm dính mắc, ràng buộc tâm ý sự sống
nơi loài người trải qua vô số kiếp luân hồi từ lâu xa. Ngay cả chúng sinh nẻo
không thân cũng chịu sự chi phối của huyền môn bởi do tri kiến lập tri khi còn
hiện hữu ở nẻo người.
Song
giá trị của huyền học chỉ dừng lại ở tính tương tác đa phương mà không có tính
cố định tuyệt đối. Bởi do huyền học chịu sự chi phối bởi ba yếu tố không thể
tách rời là Thiên Địa Nhân. Vì lệ thuộc vào cả ba yếu tố Thiên Địa Nhân nên
huyền học không nhất thiết phải luôn đúng, do vậy nếu biết cách tác động vào
một trong ba yếu tố Thiên Địa Nhân, cách hành xử thay đổi thì con người ít
nhiều có thể cải biến thực tiễn và huyền học.
Tuy
nhiên, những lợi ích của huyền học mang lại cho con người là ở hiện kiếp, là ở
pháp thế gian. Nếu người học Phật mãi dính mắc vào huyền học dễ thường tăng
trưởng bản ngã, một số vì vô minh mà can thiệp vào quy luật nhân quả khách quan
của quy luật luân hồi, việc tạo tác những điều không đúng mực, sáng suốt sẽ
khiến người học Phật trôi lăn nơi Tam giới.
Tóm
lại, huyền học là pháp thế gian với những điều huyễn hóa, huyền hoặc, thần
thông, bùa chú,… Nếu muốn học Phật đạt pháp xuất thế gian, vượt khỏi sinh tử
luân hồi thì người học Phật hãy hạn chế dính mắc đến những yếu tố huyền học.
Người
học Phật tìm đến đạo Phật cần sáng rõ mục đích của mình - chánh kiến, khi đã có
chánh kiến rõ ràng, việc giải thoát hoàn toàn thì hãy giữ vững chánh định ngõ
hầu đạt được mục đích tối hậu. Nhược bằng người học Phật muốn học hỏi huyền học
thì giáo lý Tam Tạng kinh khó thỏa mãn điều kỳ vọng đó.
Thêm
nữa, người học Phật nên rõ biết còn sinh là còn tử; Thể nhập niết bàn tịch diệt
không phải là việc đắc quả A la hán rồi về Chân như thọ dụng Thường an lạc
tịnh; Như Lai là không đến không đi, không sinh không diệt. Người học Phật mà
không buông xả bản ngã thì không thể giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
Việc
học Phật của con người sau rốt cũng chỉ là sự chọn lựa. Hoặc là tiếp tục trôi
lăn trong quy luật luân hồi sinh tử, nhân quả vay trả - trả vay; Hoặc nếu nhàm
chán việc sinh tử quẩn quanh thì hành trì phá ngã vượt thoát khỏi luân hồi.
Giác giả Thích Ca trao truyền chánh pháp nhãn tạng Như lai với yếu quyết “Pháp
hay chẳng trói buộc người”. Phật Thích Ca chỉ rõ quy luật vận hành của luân
hồi, tự tánh vạn pháp còn việc chọn lựa lối đi mai hậu là do tự mỗi người, mỗi
tâm ý sự sống quyết định.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét