Bây Giờ Hay Không Bao Giờ_Giải Mã Đạo Phật 2.0_Phẩm Tinh Yếu
Thứ Hai, 3 tháng 6, 2019
Bây Giờ Hay Không Bao Giờ_Giải
Mã Đạo Phật 2.0_Phẩm Tinh Yếu
Vừa rồi, ở bài thoại Rác Rưởi Phật Môn –
Thiền Tông Tân Diệu, Ngạo Thuyết có nhận được những phản hồi của một vị tín đồ
vô trí đã theo đuôi vị viện chủ tự xưng, Nguyễn Nhân mà ra sức tâng bốc cho một
vị tà sư dối láo, giả trá truyền tà pháp mượn danh nghĩa đạo Phật.
Về điểm ngu xuẩn, sân si lẫn hám danh ngộ đạo
ở tà sư Nguyễn Nhân đã thể hiện rất rạch ròi thông qua những buổi hỏi đáp của
vị thiền gia dỏm này trước những người đến tham vấn Phật pháp cũng như ở nội
dung những bộ sách do tác giả Nguyễn Nhân viết.
Sự dối láo ngụy tạo Huyền Ký Đức Phật, việc
giả trá lịch sử về vua Trần Nhân Tông của đất nước Việt Nam là điều không quá
khó để độc giả nhận diện thông qua những quyển sách do Nguyễn Nhân biên soạn.
Việc dối láo, tùy tiện viết lại lịch sử một triều đại phong kiến thời Trần ở
Nguyễn Nhân hẳn sẽ là một việc làm vi phạm pháp luật của nước Cộng Hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Lẽ ra Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, các
vị sử gia, ban tuyên giáo trung ương cũng như các ban ngành liên quan,… phải có
sự lưu tâm đúng mực về sai phạm ngụy tạo lịch sử dân tộc một cách trắng trợn, thô
thiển của Nguyễn Nhân và đồng thời phải có chế tài, án phạt tương thích với hành
vi phạm pháp nguy hại về lịch sử đất nước, đây là việc làm rất cần thiết nhằm
ngăn chặn sự lây lan một dạng tội phạm viết lại lịch sử dân tộc bằng sự suy
diễn chủ quan không có chứng cứ lịch sử rõ ràng, không có chứng nhân lịch sử
thuyết phục.
Việc im lặng của Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc
Việt Nam cùng các ban ngành liên quan về vấn nạn ngụy tạo lịch sử của Nguyễn
Nhân vô hình chung sẽ khiến một số người ngộ nhận những điều ông Nguyễn Nhân
viết về lịch sử vị vua Trần Nhân Tông là hợp hiến và chuẩn mực hơn chính sử mà
các sử gia Việt Nam xưa nay ghi lại.
Và kẻ dối láo Nguyễn Nhân sẽ có dịp huênh
hoang rằng ông ta đã đúng về mọi điều kể cả việc viết lại lịch sử dân tộc Việt
Nam, tiếp đó Nguyễn Nhân và những người
cộng sự sẽ ra sức phát tán nội dung những quyển sách rác rưởi mà ông ta đã ra
sức biên soạn nhằm phục vụ sự hám danh, tham ngộ của cá nhân ông ta.
Vẫn biết rằng với những nội dung kém cỏi về
học thuật lẫn văn phong của Nguyễn Nhân sẽ khiến bộ sách do Nguyễn Nhân sớm bị
đào thải. Tuy nhiên, quả thật là mặt bằng chung của một lượng lớn người học
Phật Việt Nam còn rất đỗi thấp kém và lắm u mê nên khó thể tránh khỏi việc bị
những vị tà sư lừa mị.
Hơn nữa, những kẻ cơ hội chính trị ngày nay
luôn có dã tâm thao túng sự hiểu biết hãy còn mê mờ của người dân mà bày điều
giả trá, thị phi nơi chính sử. Nếu tiền lệ ngụy tạo chính sử của đất nước Việt
Nam ở Nguyễn Nhân không được nghiêm trị rốt ráo sẽ tạo ra mối họa hại khôn
lường đối với vận mệnh quốc gia dân tộc Việt Nam khi luôn có những kẻ cố ý lũng
đoạn chính sử quốc gia dân tộc. Mầm họa khôn lường mà Joseph Goebbels (Giô sép Gô bel), bộ trưởng tuyên truyền của
Phát xít Đức thời Hit – le từng tuyên bố, đó là “Một sự dối trá nếu được lặp
đi lặp lại nhiều lần thì đến một lúc nào đó nó sẽ trở thành sự thật".
…
Bỏ qua vị viện chủ tự phong rất hám danh, tham
ngộ Nguyễn Nhân nhìn lại sư đồ của trưởng lão Thích Thông Lạc, một vị A la hán
tự phong – quả thật là Ngạo Thuyết dấy khởi một nỗi u hoài “Phật, Giác Giả vẫn
luôn bi mẫn cảnh tỉnh học nhân thắp đuốc trí huệ mà dấn thân trên đạo lộ giác
ngộ giải thoát nhưng người học Phật xưa nay vẫn có lắm kẻ một khi dấn thân vào
đạo Phật liền tự múc não vứt đi một cách hoang phí cùng sự ngu si, khờ dại.
Sư thầy Thích Thông Lạc chỉ vì xem kinh điển
Bắc Tông nhưng tuệ tri không đến, pháp hành lại sai lạc nên chẳng thể liễu
nghĩa kinh Phật đại thừa. Tiếc rằng sư Thông Lạc lầm lạc, si mê sâu nặng nên
chẳng thể thấu tỏ lẽ chân ngụy - Chính do nơi bản thân trí tuệ u tối, tâm hạnh
hạ liệt nên chẳng thể chạm đến trí tuệ bát nhã của chánh tông Phật môn lại vội
cả nghĩ tất cả giáo lý kinh điển đại thừa đều mê muội, vô dụng.
Việc xem kinh sách Phật học cho nhiều nhưng
tuệ tri chẳng mở nên thầy Thích Thông Lạc loay hoay, mông lung trong chính sự
hiểu biết Phật học nơi tự thân. Mãi về sau tình cờ tìm được một bản dịch kinh
Nikaya không liễu nghĩa của sư thầy Thích Minh Châu đã mừng rỡ như bắt được
vàng, như người sắp chết chìm vớ được một bè lau. Một câu kinh được luận giải
không vẹn nghĩa của sư thầy Thích Minh Châu đã khiến sư Thích Thông Lạc đọa lạc
vào hầm sâu vô minh Đoạn Kiến – Không Có Linh Hồn.
Không Có Linh Hồn, đây chính là mấu chốt tăm
tối, u mê bậc nhất về tri kiến Phật học ở sư thầy Thích Thông Lạc. Và cũng
chính do rơi vào chấp thủ Đoạn Kiến mà việc tác pháp, hoằng pháp của sư thầy
Thích Thông Lạc rơi sự chủ quan, cực đoan lẫn quá khích. Và do chịu ảnh hưởng
lối tác pháp bảo thủ ở người hướng đạo Thích Thông Lạc mà một lượng tín đồ Phật
tử của sư thầy Thích Thông Lạc đã thể hiện lối hành xử cực đoan, quá khích cùng
việc ảo tưởng việc tu chứng trụ nơi Tưởng tri.
Chỉ cần nhìn nhận khách quan với một cái tâm
trong sáng soi rọi vào giáo lý đạo Phật người học Phật sơ cơ hay bất kỳ ai cũng
có thể nhận diện được rằng lối hành xử cực đoan, quá khích không thể là, chưa
từng là cách mà một người chứng ngộ thể hiện hay là pháp hành tối thượng đáng
truyền thừa cho học nhân.
Cũng lại như vậy! Chỉ cần khách quan nhìn
nhận cùng với một tấm lòng trong sáng và một sự hiểu biết cởi mở mỗi người
chúng ta không quá khó trong việc nhận diện được rằng “Chấp Thủ Không Có Linh
Hồn Là Tà Kiến, Là Đoạn Kiến Ở Ngoại Đạo”. Và Chấp Thủ Không Có Linh Hồn sẽ
tương đồng với quan niệm Chết Là Hết, Chết Là Hết lại tương đồng với việc Không
Luân Hồi Sinh Tử, không Nhân Vay, Quả Trả. Với kiến thủ Không Có Linh Hồn thì
việc học Phật là một việc làm vô ích, vô nghĩa bởi lẽ mọi việc đã rơi vào đoạn
diệt thì đâu cần đến chánh pháp để liễu thoát sinh tử luân hồi. Kinh điển Phật
môn vì chấp thủ Không Có Linh Hồn sẽ trở thành một phế vật vô ích, bởi chẳng
chứa đựng một giáo lý chánh pháp khả dụng nào cả.
Do vậy người học Phật một khi rơi vào chấp
thủ Không Có Linh Hồn thì sẽ không nên, không thể nương nhờ Tam Bảo, chùa
chiềng cũng như kinh sách Phật môn mà nhận sự cúng dường y bát, vật thực của
đàn na tín thí. Giáo lý kinh điển Phật học với chấp thủ Không Có Linh Hồn sẽ
chỉ còn là một mớ giấy lộn vô nghĩa. Và người học Phật chân chính, đúng mực sẽ
không thuyết giảng, diễn nói những lời vô nghĩa, vô ích để lừa gạt tín chúng,
môn đệ kiếm cái ăn, cái mặc cùng danh tiếng.
Tóm lại, chỉ cần khách quan tư duy, quán
chiếu, nhận diện người học Phật (nói riêng), người đời (nói chung) sẽ rõ biết
chấp thủ Không Có Linh Hồn sẽ không là điều đúng mực mà Phật Thích Ca, người
chứng ngộ giải thoát hoàn toàn gieo rắc vào sự hiểu biết khách quan nơi tri
thức nhân loại.
Song ngày nay, có rất nhiều người học Phật,
thậm chí là Tăng Bảo có bằng cấp chuyên môn học Phật, có học vị là tiến sĩ Phật
học nhưng lại rơi vào Đoạn kiến Không Có Linh Hồn, điển hình như sư thầy Thích
Nhật Từ, Thích Phước Tiến,…
Phải chăng các vị sư thầy Tăng Bảo này đã
múc não vứt đi một cách hoang phí và ngu xuẩn hay không?
Những vị Tăng Bảo này cả một đời nghiền ngẫm
kinh sách Phật học để rồi chìm đắm vào kiến thủ Không Có Linh Hồn nhưng lại
sống bám vào pho Tam Tạng kinh, vào chùa chiềng, tự viện để gồm thâu danh lợi,
tài vật.
Học Phật mà như thế liệu có xứng đáng với
vai trò Tăng Bảo, người xuất gia học Phật chân chính nối truyền mạng mạch chánh
pháp hay chăng?
Tại sao các vị Tăng Bảo ấy lại trở nên những
kẻ học Phật vô não và phơi bày ra những con người học Phật vô tri, vô trí nhưng
lại hám danh, tham lợi?
Bên cạnh đó, việc u mê giảng nói như đúng
rồi chấp thủ Không Có Linh Hồn ở những nhà truyền đạo Tăng Bảo kém trí đó đã
sinh ra một hệ lụy đặc biệt nguy hại với sự tồn vong của chánh pháp Phật môn.
Do tin tưởng vào những sư thầy Tăng Bảo được tiếng học cao, hiểu rộng, biết
nhiều một cách mù quáng mà một lượng không hề nhỏ tín đồ học Phật vội vàng múc
não vứt đi khi tìm về đạo Phật.
Bởi do ít có điều kiện học hỏi giáo lý Phật
môn mà một lượng lớn người học Phật tìm về đạo Phật đã giao phó tri kiến Phật
học nơi bản thân cho những vị thầy danh tiếng về mặt hữu vi danh lợi, phước
điền. Việc tự thắp đuốc mà đi ở người học Phật vì thế bị chướng ngại, đây là
biểu hiện thường thấy ở người học Phật tại gia ngày nay – hiện tướng múc não
vứt đi một cách hoang phí, vội vàng ở người học Phật.
Hiện trạng múc não vứt đi còn được nhận thấy
ở các vị Tăng Bảo qua trường lớp chuyên tu cũng như thành phần sư thầy quốc
doanh Việt Nam, cụ thể điển hình là vị sư được giới thiệu là một tiến sĩ Phật
học, sư thầy Thích Trí Minh. Ở một bài thoại ngày 31/3/2019 tại chùa Giác Ngộ,
sư Thích Trí Minh vốn là giảng viên Học Viện Phật Giáo tại thành phố Hồ Chí
Minh đã có những phát ngôn thể hiện việc múc não vứt đi ở sư Thích Trí Minh là
sự đã rồi và sư thầy Thích Trí Minh cũng phạm lỗi đại vọng ngữ rất nhiều.
Ở bài thoại ngày 31/3/2019 tại chùa Giác
Ngộ, sư Thích Trí Minh đã nói niềm tin nhiều khi không cần đến bộ não chen vô,
niềm tin là ở trái tim, niềm tin thuộc về tình cảm, niềm tin không cần đến lý
trí.
Phải chăng với lập luận này sư Thích Trí
Minh vô hình chung đã múc não của mình vứt đi và việc cả tin vào các vị Tăng
bảo danh tiếng sẽ khiến rất nhiều tín đồ Phật tử thuần thành sẽ lại múc não vứt
đi?
Đạo Phật là đạo của trí tuệ, đạo của sự hiểu
biết khách quan, sáng rõ thì đâu thể có việc người học Phật đến với đạo Phật
bằng vào cảm tính chủ quan theo lối cuồng tín, cả tin ở pháp tu ngoại đạo. Niềm
tin đúng mực ở đạo Phật thực sự dựa trên nền tảng sự hiểu biết khách quan, tổng
thể về Phật – Pháp – Tăng, sự đúng mực của đạo Phật bao giờ cũng dựa trên sự
hiểu biết không trụ chấp vào cảm tính hay lý tính. Thế nên Phật đã cảnh tỉnh
“Hãy tự thắp đuốc mà đi!”.
Cũng tương tự vậy ni sư Thích Nữ Hương Nhũ,
sư thầy Thích Trí Minh cùng rất nhiều vị Tăng Bảo ngày nay đều mắc những lỗi
lầm thường thấy, đó là lỗi nói lời thêu dệt, suy diễn chủ quan về pháp học, về
pháp hành, về chánh pháp Phật môn. Và để cố chứng tỏ sự hiểu biết sâu rộng của
bản thân các vị sư thầy Tăng Bảo ngày nay thường xuyên dựng lên những câu
chuyện không thật có ở các bài pháp thoại mà họ diễn nói. Đành rằng người hướng
đạo luôn cần đến việc bày ra những pháp phương tiện song tiếc rằng các câu
chuyện do các vị sư thầy hám danh lại chỉ chứa đựng nội dung hời hợt về mặt
chánh pháp cùng với thiên hướng gây ra hệ lụy mê tín dị đoan nơi người nghe.
Đây là lỗi lầm lẽ ra người hướng đạo hoằng chánh pháp Phật môn hạn chế mắc phải
nếu không muốn nói rằng nhất thiết không được phạm phải.
Bên cạnh đó, do không thông đạt pháp Phật mà
lại được thừa hưởng sự trọng vọng, kính tin giới Tăng Bảo ngày nay phần đa đều
rơi vào hiện tướng Đại ngã mạn. Giới Tăng Bảo học càng cao, hoằng pháp càng lâu
thì càng sa ngã, chìm đắm vào Đại ngã mạn. Bởi do việc học Phật mãi mà không
chạm được chiếc chìa khóa mở cửa kho tàng Như Lai Tạng mà giới Tăng Bảo càng
dấn thân, càng xa rời Pháp Bảo, làm thui chột đi cả Phật tánh nơi tự thân, gián
tiếp làm hoen mờ chánh pháp nhãn tạng Như Lai khiến đại chúng học Phật lạc vào
đường tà, lối rẽ, đánh mất trí tuệ viên dung, huệ mạng Như Lai.
…
Do không thể thông hiểu Phật pháp nên đại
diện tri thức nhân loại đã “đặt để” đạo Phật trở thành một dạng di sản văn hóa
phi vật thể của thế giới. Lễ hội Vesak đã được Liên Hiệp Quốc xác lập ở tầm vóc
quốc tế và được người đời vô trí ra sức điểm tô cho thêm hoa lệ, cho thêm hào
nhoáng.
Lễ hội Vesak 2019 vừa qua đã được tổ chức rất
hoành tráng ở đất nước Việt Nam. Và đại chúng học Phật cùng người đời chấp
tướng sẽ ngỡ rằng đạo Phật đang phát dương quang đại, chánh pháp đang hiển bày.
Song có một sự thật là sự xa hoa, hào nhoáng của một đạo Phật được điểm tô tỉ
mỉ hương sắc không che giấu được sự mục rỗng, cạn cợt, thối nát cùng trơ trẽn
của GHPGVN cũng như giới Tăng Bảo Việt Nam, thành phần được Phật Thích Ca gửi
gắm việc giữ gìn, trao truyền chánh pháp nhãn tạng Như Lai.
Và đâu đó, bên lề lễ hội Vesak là những tiếng
thở dài ngao ngán cho hiện tướng suy đồi của đạo Phật ở Việt Nam với những Thích
Thông Lạc, Thích Giác Nhàn, Thích Trúc Thái Minh, Thích Thanh Quyết, Nguyễn
Nhân, sư Trần Tâm, Thanh Hải Vô Thượng Sư,… Đâu đó lại vang lên những lập ngôn
“Đạo Phật đã đến hồi mạt pháp”.
Có một người bạn ngoại đạo viết rằng “Phật
pháp tới hồi mạt không chỉ ở Việt Nam. Mất chất, phô trương, trục lợi – đó là
dấu hiệu. Nhưng triết lý đạo Phật vẫn tồn tại lâu bền”. Lại có người viết “Suốt hơn hai nghìn năm qua, giới Tăng lữ
luôn được đặt ở đẳng cấp cao nhất trong xã hội. Chỉ trong thời mạt pháp, các
chức sắc tôn giáo mới tụt xuống hàng cuối cùng cả về văn hoá và tư cách”, “Tôn giáo nào cũng có ý can thiệp hoặc
dựa vào chế độ, ai nói tôn giáo phi chính trị, đấy chỉ là lý thuyết”.
Tình cờ đọc được những lời cảm thán đó, Ngạo
Thuyết đã đáp lại lời rằng: “Tôn giáo phi chính trị khi tôn giáo phi tôn giáo. Chứ khi tôn giáo đã hiện
nguyên hình tôn giáo thì sự sẽ khác. Nếu tôn giáo không chủ động tìm đến đầu
quân cho chính trị, chính trị cũng sẽ tìm đến, nắm đầu dẫn dắt tôn giáo như
người ta đi chăn bò vậy đó. Và lúc bấy giờ tôn giáo sẽ không còn là tôn giáo
trong sáng nữa tức tôn giáo phi tôn giáo. Song cùng là câu chữ tôn giáo phi tôn
giáo nhưng diện mạo của tôn giáo phi tôn giáo trước sau khác biệt hoàn toàn”.
…
Tôn giáo phi tôn giáo? Tôn giáo phi tôn giáo
trước (Tôn giáo thuần túy, phi chính trị) và tôn giáo phi tôn giáo sau (Tôn
giáo đã bị chính trị hóa, tôn giáo bị chính trị xỏ mũi dắt đi) khác biệt nhau
như thế nào? Ngạo Thuyết muốn nói với các bạn về điều gì?
Bây giờ, chúng ta hãy xét lại xem đạo Phật
hiện tồn ở đất nước Việt Nam có đúng thật là đạo Phật chánh thống, đạo Phật phi
chính trị hay không?
Trong nội dung một vài bài viết ở blog Một
Thoáng Phương Đông, Ngạo Thuyết đã từng trình bày về việc có hàng trăm đảng
viên cộng sản được cài cắm vào các hệ thống tôn giáo ở Việt Nam tại thời điểm
nước Việt Nam kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thành công.
Do bởi e dè các thế lực thù địch núp bóng ở
các hệ thống tôn giáo như Công Giáo, Cao Đài Giáo, Đạo Hòa Hảo, Đạo Phật,…
trường kỳ chống phá chính phủ Việt Nam lâm thời, Đảng cộng sản Việt Nam đã chủ
động kiểm soát các hệ thống tôn giáo bằng vào việc thiết lập mạng lưới nội gián
ở trong từng hệ thống tôn giáo.
Chính vì vậy số đảng viên cộng sản được cài
cắm vào đạo Phật không hề ít. Họ là đảng viên cộng sản nên hiển nhiên sẽ là tín
đồ thuần thành của chủ nghĩa vô thần theo đường lối duy vật biện chứng Mác – Lê
Nin. Về mặt hình tướng thì các vị Tăng bảo – Đảng viên cộng sản là một sa môn,
nhưng kỳ thực lý tưởng của họ, bản chất của họ là ngoại đạo Đoạn kiến với Chết
Là Hết. Chiếc áo thầy tu mà họ khoác lên người chỉ là chiếc vỏ bọc để họ hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ mà Đảng cộng sản và chính phủ Việt Nam giao
phó.
Thế nên, trong giới Tăng bảo Việt Nam số
người tuổi đảng nhiều hơn tuổi đạo không hề ít. Và đạo Phật Việt Nam kể từ đó
đã sang trang sử mới, đạo Phật từ đó trở thành một công cụ hữu dụng của Đảng
cộng sản Việt Nam. Hiện tướng những vị Tăng bảo tuổi Đảng nhiều hơn tuổi đạo
luôn là rường cột của GHPGVN cũng như nắm giữ những chức sắc quan trọng ở đạo
Phật Việt Nam từ bấy đến nay là minh chứng cho thấy rằng đạo Phật Việt Nam vốn
là tôn giáo phi tôn giáo, là tổ chức tôn giáo bị giới chính trị sỏ mũi dắt đi
và dần mất chất, mất gốc. Hay nói một cách khác là từ buổi đầu thành hình
GHPGVN chỉ là một tổ chức mang danh nghĩa đạo Phật nhưng kỳ thực đây là một tổ
chức tôn giáo do thành phần ngoại đạo thuần tín chủ nghĩa vô thần, Chết Là Hết
thống lĩnh. Đây là yếu tố “Nhân sai biệt, quả thành hư vọng” ở GHPGVN. Hay nói
một cách khác đạo Phật ở Việt Nam từ rất lâu xa đã không còn là đạo Phật chánh
thống. Thật vậy, đạo Phật ở Việt Nam thực sự đã trở thành một tổ chức tôn giáo
bị thao túng, bị lũng đoạn; Là đạo Phật đã bị chính trị hóa.
Dẫu rằng có không ít đảng viên cộng sản nằm
vùng ở đạo Phật về sau toàn tâm, toàn ý quy y Tam bảo nhưng nhiệm vụ quốc gia
do Đảng cộng sản giao phó, họ vẫn phải đảm nhiệm và hoàn thành theo đúng định
hướng.
Thêm nữa, dù rằng về sau những đảng viên
cộng sản đó có thật tâm quy y Phật môn, từng bước tháo gỡ tri kiến lầm lạc –
chủ nghĩa vô thần, Chết Là Hết, phát lồ tri kiến Phật nhưng để thông đạt, chứng
ngộ giác ngộ giải thoát hoàn toàn là điều không dễ thành tựu. Do vậy, đạo Phật
chân phương, thuần khiết ở Việt Nam đã dần mất gốc và từng bước suy đồi.
Khi đặt nền móng xây dựng GHPGVN bằng những
đảng viên tận tụy buổi đầu, Đảng cộng sản Việt Nam đã hợp thức hóa kế hoạch xây
dựng một đạo Phật Việt Nam theo định hướng của Đảng cộng sản Việt Nam. Thế là
từ một số lượng đảng viên với con số hàng trăm ban đầu trong hệ thống tôn giáo
đạo Phật, về sau số lượng Tăng bảo được hướng đạo Đảng cộng sản không ngừng gia
tăng về số lượng và được đảm nhận những vai trò trọng yếu nơi GHPGVN cũng như ở
đạo Phật nơi đất nước Việt Nam.
Khi nói đến đạo Phật, chúng ta dễ thường
nghe đến việc quy y Tam Bảo – Phật, Pháp Tăng với rốt ráo quy y Tam bảo nơi tự
tâm. Song nơi GHPGVN, đạo Phật Việt Nam ngày nay thì từ sadi đến tỳ kheo lẫn
tục gia đệ tử Phật môn, nếu muốn an trụ và tiến thân nơi đạo Phật đều phải quy
y ngoại đạo tức quy y theo đường lối, chính sách của Đảng cộng sản và nhà nước
Việt Nam. Quy thuận Đảng cộng sản Việt Nam là nấc thang, là bước ngoặt quan
trọng giúp giới Tăng Bảo tiến thân, nắm giữ những vai trò, vị trí quan trọng
nơi đạo Phật.
Dù rằng mang danh nghĩa xuất gia tu học
nhưng từ sa di đến tỳ kheo đều phải học tập sống, làm việc noi gương Bác Hồ
theo khuôn mẫu mà Đảng cộng sản Việt Nam ra sức đúc kết thành. Đây là dấu hiệu để
nhận biết giới Tăng bảo Việt Nam từ lâu xa muốn tồn tại và có chỗ đứng nơi đạo
Phật nhất thiết phải quy y Đảng cộng sản Việt Nam, điều này đồng nghĩa rằng
giới Tăng bảo Việt Nam không thực sự quy y Tam Bảo mà cốt yếu là phải thuần
tín, quy y Đảng cộng sản Việt Nam.
Giới Tăng Bảo thượng thủ Việt Nam trước đây
đã vậy, giới Tăng bảo trẻ Việt Nam ngày nay càng chẳng thể khác, thậm chí giới
Tăng bảo trẻ càng phải thấm nhuần lý tưởng Đảng cộng sản Việt Nam, những vị
Tăng bảo càng thể hiện ra mặt việc quy thuận Đảng cộng sản Việt Nam sẽ càng có
nhiều cơ may tiến thân trên đường đạo, gồm thâu danh lợi. Do vậy, giới Tăng bảo
tuổi trẻ, khí vượng ngày nay rất khó liễu ngộ đạo Phật chánh thống nhưng lại rất
dễ sa vào cái bẫy danh lợi thế gian. Thế nên giới Tăng Bảo hữu danh ngày nay
theo đuổi việc học Phật ở phương diện hình tướng, bằng cấp, học hàm, học vị, sa
vào lối học Phật tri kiến lập tri, từ đó vô minh chồng chất thêm vô minh. Số
Tăng bảo hám danh, tham lợi khác lại chọn lựa việc gia nhập Đảng cộng sản Việt
Nam ngõ hầu có được vị trí tốt ở GHPGVN hoặc ở đạo Phật Việt Nam. Thành phần
Tăng bảo trẻ không bộc lộ sự quy thuận đường lối, chính sách Đảng cộng sản Việt
Nam sẽ bị cô lập hoặc bị đào thải và không có cơ may nắm giữ vai trò, vị trí
quan trọng trong GHPGVN.
Có thể nói trải qua một khoảng thời gian 80,
90 năm lãnh đạo đất nước Đảng cộng sản Việt Nam đã thao túng, lũng đoạn mọi
thành phần, tầng lớp xã hội theo đúng định hướng của Đảng cộng sản. Và đạo Phật
chân phương, thuần khiết cũng đã bị chính trị hóa tại Việt Nam, hay nói một
cách khác đạo Phật Việt Nam hiện nay là đạo Phật đã bị dẫn dắt, hướng đạo bởi
thành phần ngoại đạo là Đảng cộng sản Việt Nam.
Chính vì lẽ đó, những người tồn tại được
trong đạo Phật, trong GHPGVN hiện nay phần đa đều là những người sống làm việc
theo tư tưởng đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam. Việc này đồng nghĩa rằng
đạo Phật ở Việt Nam vốn chỉ là tôn giáo mang danh nghĩa đạo Phật và thành phần
Tăng bảo nòng cốt của đạo Phật Việt Nam sẽ chính là ngoại đạo khoác áo sa môn.
GHPGVN và giới Tăng bảo hữu danh ở Việt Nam
thật sự không phải là người học Phật chân chính, đạo Phật ở Việt Nam đã không
còn là đạo Phật đúng nghĩa kể từ lâu xa, điều này có thể minh định kể từ khi
Đảng cộng sản Việt Nam cài cắm đảng viên cộng sản vào các hệ thống tôn giáo
cùng với định hướng biến đạo Phật thành một công cụ điều tiết, quản lý xã hội
con người Việt Nam – sự thao túng, lũng đoạn đạo Phật một cách chủ quan, duy ý
chí. Đây là điều mà người học Phật chân chính, đúng mực phải nên rõ biết về bản
chất đạo Phật ở Việt Nam để tránh sa vào sự lầm tin, tránh được việc lừa mị tín
đồ Phật tử ở giới Tăng Bảo lầm đường.
Và những năm tháng gần đây, hiện tướng của
giới Tăng Bảo Việt Nam ngày càng bộc lộ rõ việc học Phật hữu danh, vô thực ở
thành phần Tăng bảo đã bị lũng đoạn. Sư thầy Thích Nhật Từ, Thích Phước Tiến,
Thích Chân Quang, Thích Trúc Thái Minh, Thích Thanh Quyết,… cả thảy đều là
những người học Phật theo lối tri kiến lập tri nên bày ra hiện cảnh “trống đánh
xuôi, kèn thổi ngược”, chân ngụy rối bời, tà chánh bất phân. Và có lẽ với việc
đào tạo Tăng bảo theo định hướng của Đảng cộng sản ngày nay thì hẳn là rất khó
để cho một sa di, một tỳ kheo ở GHPGVN hay ở đạo Phật Việt Nam thoát thai thành
một Giác Giả chốn Phật môn.
Ở bài viết Bây Giờ Hay Không Bao Giờ, Ngạo
Thuyết sẽ cảnh tỉnh cho mọi người được rõ đạo Phật ở Việt Nam đã từ lâu xa đã
không còn là đạo Phật đúng nghĩa của đạo giác ngộ giải thoát. Vì lẽ đó người
học Phật chân chính, có đạo tâm phải minh định được sự chánh tà, chân ngụy hiện
tồn nơi đạo Phật ngõ hầu trạch pháp, đây là bước ngoặt giúp người học Phật tinh
tấn trên đường đạo. Và từ sự hiểu biết trạch pháp đó, người học Phật đúng mực sẽ
vì đại chúng học Phật mà biện giải, giúp những người học Phật nhiều lầm mê biết
đến đạo Phật chân chánh chứa đựng cứu cánh giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
Bên cạnh đó, Ngạo Thuyết cũng nhắc lại điểm
sai lầm mấu chốt của Đảng cộng sản Việt Nam khi lầm tin và trói sự hiểu biết,
nhận thức, tư duy của người Việt Nam vào quan niệm Chết Là Hết theo ngõ tối chủ
nghĩa vô thần. Chính việc bị nhồi sọ tri kiến Chết Là Hết đã khiến người học
Phật ngày nay gặp nhiều chướng ngại cho sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn, Chết Là
Hết chính là vô minh then chốt, là vô minh mặc định mà phần đa người học Phật
đương đại mắc phải.
Và với Chết Là Hết cùng chủ nghĩa vô thần mà
Đảng cộng sản Việt Nam gieo rắc vào trong lòng dân tộc Việt Nam đã thúc đẩy xã
hội con người Việt Nam mau chóng chìm sâu vào lối sống thực dụng, tham lam và
ích kỷ, căn bệnh của thời đại.
…
Với những lối hành văn tương tự thế này,
cách nay nhiều năm đã từng có người khẳng định rằng Ngạo Thuyết nếu không phải
là gã khùng thì sẽ là một kẻ cơ hội chính trị với nhiều thủ đoạn hèn hạ. Với
những nhận định tựa trên lòng hẹp hòi, hoài nghi này Ngạo Thuyết chỉ có thể cảm
thông và chia sẻ rằng “Nếu nói Ngạo Thuyết là gã khùng thì gã khùng Ngạo Thuyết
hẳn không đánh mất lý trí đến mức không còn biết mình đang làm gì. Nếu nói Ngạo
Thuyết là kẻ cơ hội chính trị mưu mô gian xảo thì hẳn là chẳng tương ưng bởi lẽ
muốn làm chính trị thì Ngạo Thuyết cần đến một tổ chức đủ lớn mạnh làm đối
trọng với Đảng cộng sản Việt Nam, song Ngạo Thuyết đến nay vẫn “độc lai, độc
vãng” trên mấy nẻo đường trần. Bước chân vào chính trường, nhất thống thiên hạ
là điều mà Ngạo Thuyết cảm thấy nhàm chán bậc nhất. Làm một chính khách là điều
mà Ngạo Thuyết không từng nghĩ đến và chẳng mấy bận lòng.
Có người lại cho rằng hẳn là Ngạo Thuyết bất
mãn chế độ cộng sản Việt Nam, kêu gọi đấu tranh, bạo loạn, phản động. Rốt ráo
những điều Ngạo Thuyết gửi đến với mọi người là sự hiểu biết khách quan, đúng
mực và sáng rõ. Và ở nơi sự hiểu biết sáng tỏ đó không bao giờ hiệp cùng với
đấu tranh, bạo động. Do đó, thông điệp của Ngạo Thuyết gửi gắm đến mọi người
luôn là bất tranh, bất bạo động và dùng sự hiểu biết để thoát ra những mâu
thuẫn, những xung đột, những vị kỷ tầm thường ở nội tâm cũng ở cuộc sống đời
thường.
…
Xã hội loài người đã trải qua thời kỳ tự
nhiên – thuận đạo, thời kỳ đức trị, thời kỳ nhân trị. Và ngày nay, là những
chuỗi ngày dài của thời kỳ pháp trị, dù là hình thức quân chủ hay dân chủ, độc
đảng hay đa đảng thì quyết định cho một xã hội văn minh, hài hòa, tiến bộ vẫn
là mặt bằng hiểu biết của loài người. Khi xã hội loài người chìm sâu vào lối
sống vị kỷ, thực dụng thì dù đa đảng hay độc đảng thì sự phân tầng xã hội cũng
sẽ không nhiều khác biệt, vẫn sẽ là những tranh danh, đoạt lợi đớn hèn – cuộc
sống loài người vẫn thường lệ thuộc Tham Sân Si Mạn Nghi.
Khi mặt bằng tri thức loài người chưa nâng
cao thì mọi cuộc đấu tranh bằng máu, nước mắt, mạng sống để đánh đổi chế độ
cũng là hiện tướng “gãi ngứa ngoài giầy”, cũng chỉ là “bình mới, rượu cũ” của
việc tranh đoạt danh lợi; Chế độ chính trị nào rồi thì cũng sẽ vì lợi ích trước
mắt của giới thống trị, thành phần lãnh đạo chính trị - kinh tế - tôn giáo – xã
hội. Rạch ròi được điều đó nên Ngạo Thuyết không bao giờ tơ tưởng việc đấu
tranh vũ trang để thay đổi chế độ chính trị, điều mà Ngạo Thuyết muốn truyền
tải luôn là sự nâng cao mặt bằng dân trí, mặt bằng tri kiến Phật ngõ hầu giúp
mỗi người có thể tự trạch pháp, tránh việc bị thao túng, bị lũng đoạn mà chìm
vào sự phiền não, lo toan, khốn cùng. Do đó, thông điệp mà Ngạo Thuyết muốn gửi
gắm đến mọi người luôn là sự hiểu biết khách quan đủ đầy, sáng rõ và cởi mở ngõ hầu trạch pháp.
Phàm làm việc gì con người đều thường tính
đến động cơ, mục đích, được và mất. Nếu nói động cơ của Ngạo Thuyết là phá hoại
đạo Phật thì đích đến mà Ngạo Thuyết mong sẽ đạt được là gì? Ngạo Thuyết sẽ
được gì và mất gì khi dấn thân vào việc phá hoại đạo Phật Việt Nam?
Những điều Ngạo Thuyết trình bày luôn là tri
kiến cá nhân của Ngạo Thuyết, Ngạo Thuyết cũng chưa từng thành lập một tổ chức
cụ thể nào cả, thế nên việc phá hoại đạo Phật cơ hồ như chẳng mang được chút
lợi ích nào cho Ngạo Thuyết cả. Nếu nói về mất thì việc đụng chạm không khoan
nhượng, chỉ ra và vạch rõ sai lầm của Đảng cộng sản và chính phủ Việt Nam cũng
như những khiếm khuyết ở hầu hết các hệ thống tôn giáo, đặc biệt là đạo Phật sẽ
tạo ra ít nhiều những mối nguy hại khôn lường đối với Ngạo Thuyết. Do đó, nếu
đem cân phân sự nặng nhẹ giữa được và mất thì e rằng Ngạo Thuyết sẽ mất nhiều
hơn được.
Lại có lập luận cho rằng hẳn là Ngạo Thuyết
muốn chứng tỏ mình chứng ngộ, mình thành Phật. Thế nào là thành Phật, thế nào
là chứng ngộ e rằng từ xưa đến nay không nhiều người học Phật rõ biết. Việc
chứng ngộ, việc thành Phật với Ngạo Thuyết cũng chỉ như bóng trong gương, như
trăng đáy nước. Đấy là những việc không đáng để Ngạo Thuyết bận tâm. Bởi do đại
chúng học Phật ngày nay lạc lối trong những lầm mê nên không xác định được vô
minh mà mỗi người đang vướng mắc, Ngạo Thuyết thời may vượt thoát mê mờ nên
vọng vay mượn chút từ bi tâm của Phật Thích Ca gượng nói bao lần.
Vả lại, vì sao lại cứ hẹp lượng cho rằng
Ngạo Thuyết chỉ nói hiện tướng suy đồi ở đạo Phật nơi đất nước Việt Nam. Hãy mở
lòng nhìn ra thế giới! Chẳng phải là đạo Phật ở phạm vi thế giới đang hiện
tướng huy hoàng, bóng bẩy để che đậy một sự thật là đạo Phật đang suy đồi, tha
hóa đến cùng cực. Đạo Phật ở mọi vùng miền, lãnh thổ, quốc gia dù thuộc hệ phái
Nam Tông hay Bắc Tông đều đã trở thành một công cụ điều tiết, quản lý xã hội
của giới chính trị.
Từ đây, có thể khẳng định đạo Phật hiện tồn
không còn là đạo Phật đúng nghĩa, và muốn đạo Phật trở nên là đạo Phật đúng
nghĩa như buổi đầu đạo Phật phi chính trị thì người học Phật phải thả lòng
trạch pháp, minh định lẽ chân ngụy, chánh tà nơi giáo lý Tam Tạng kinh cũng như
sự thật về đạo Phật. Đây là cứu cánh giúp người học Phật chứng ngộ giác ngộ
giải thoát hoàn toàn.
Cũng lại như vậy, đừng hẹp lòng cho rằng
việc chỉ ra sai lầm nghiêm trọng ở Đảng cộng sản Việt Nam về việc nhồi sọ quan
niệm Chết Là Hết cùng với chủ thuyết vô thần vào mọi tầng lớp, thành phần xã
hội Việt Nam là một việc làm thiển cận, tắc trách của Ngạo Thuyết đối với công
trạng của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc giành lấy sự hòa bình, thống nhất
đất nước. Ngạo Thuyết bắt lỗi sai lầm điển hình Chết Là Hết không chỉ dừng lại
ở Đảng cộng sản Việt Nam mà đây là điểm vô minh cốt lõi của tri thức nhân loại.
Có một thực tế là không chỉ ở Việt Nam hay ở
các nước xã hội chủ nghĩa bị chủ nghĩa thực dụng nhấn chìm mà là mọi ngóc ngách
nhân loại, mọi thể chế chính trị đều đang bị chủ nghĩa thực dụng với lòng tham,
tính ích kỷ xâm thực và nhấn chìm. Có chăng là việc Đảng cộng sản ở các nước xã
hội chủ nghĩa lầm tin chủ nghĩa vô thần vội vàng nhồi sọ nhận thức con người
vào quan niệm Chết Là Hết, nhận thức không có đời sống sau cái chết đã thúc đẩy
xã hội loài người mau chóng chìm sâu vào lối sống thực dụng. Và Đảng cộng sản Việt
Nam cũng mắc sai lầm tai hại đó, chỉ vì cả tin, nông nổi mà Đảng cộng sản Việt
Nam đã xúc tiến nhanh tiến trình tha hóa nhân cách con người, dân tộc Việt Nam.
Bằng một sự khách quan, minh bạch chúng ta
dễ dàng nhận ra các nước tư bản phương Tây, Trung Đông, Âu Mỹ,… cả thảy đều
đang chìm dần vào lối sống thực dụng, ích kỉ. Tổng thống Mỹ mỗi khi tuyên thệ
nhậm chức vẫn đặt tay lên quyển kinh Thánh nhưng điều đó không đồng nghĩa rằng
Tổng thống Mỹ, người dân Hoa Kỳ không từng bước đắm chìm vào lối sống thực
dụng.
Vậy nên chủ nghĩa thực dụng là căn bệnh thời
đại của nhân loại, căn bệnh thời đại này sẽ xâm thực mọi ngóc ngách nhân loại
khi mà sự hiểu biết của con người bị chướng ngại, khi tri thức con người không
nhận diện được rạch ròi “Sự sống, con người đến từ đâu và chết sẽ về đâu?”.
Ngành khoa học non trẻ, nửa vời do chủ quan đã xây dựng nhận thức, tư duy Chết
Là Hết vào sự hiểu biết của con người và ra sức lan tỏa tri kiến mê lầm đó vào
mọi ngóc ngách nhân loại, những nơi mà ngành khoa học len lõi đến.
Ngành khoa học chủ quan đương đại do tính
hướng ngoại kết hợp với Tham Sân Si Mạn Nghi luôn thường tại trong mỗi con
người mới chính thật là mầm móng khiến xã hội loài người ngày càng chìm sâu vào
lối sống thực dụng, si mê, tham đắm.
…
Ngạo Thuyết chỉ dụng sự sai lầm một thời của
Đảng cộng sản Việt Nam về sự cả tin học thuyết duy vật biện chứng nửa vời với
chủ nghĩa vô thần, với Chết Là Hết để chỉ rõ sự vô minh căn bản, tri kiến mê
lầm đương đại của nhân loại, của mỗi người.
Việc đặt vấn đề liệu có một ai nơi Đảng cộng
sản Việt Nam hay chính phủ Việt Nam có đủ lòng quả cảm đứng ra nhận sai lầm khi
cả tin và vội vàng nhồi sọ dân tộc Việt Nam vào quan niệm Chết Là Hết chỉ là
một câu hỏi mà Ngạo Thuyết không cần đến lời đáp.
Hơn ai hết Ngạo Thuyết biết rằng giới chính
trị Việt Nam cấp cao từ Tổng bí thư, Chủ tịch nước nhẫn đến Thủ tướng chính phủ
Việt Nam cùng tất cả Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam đều không có bất kỳ ai có
đủ sự hiểu biết cần thiết để nhận ra rằng quan niệm Chết Là Hết là một nhận
thức, tư duy nông cạn. Và họ cũng không đủ tầm hiểu biết để nhận thức nếu Chết
Không Là Hết thì tiếp theo sẽ ra sao. Vì lẽ đó việc trông mong giới chính trị
cùng Đảng cộng sản Việt Nam đứng ra nhìn nhận sai lầm là điều không thể. Thực
tế là họ không có đủ sự hiểu biết cũng như lòng quả cảm để đứng trước dân tộc
Việt Nam nhìn nhận những sai lầm.
Do đó, mục đích của Ngạo Thuyết khi chỉ ra
sai lầm ở giới quản lý cấp cao Việt Nam không phải là sự trông chờ họ sẽ đứng
ra nhận lỗi trước dân tộc Việt Nam mà đấy chỉ là động thái giúp Đảng cộng sản
và nhà nước Việt Nam từng bước nhận diện những sai lầm ngõ hầu có định hướng
sửa sai kịp thời và phù hợp giúp dân tộc Việt Nam dần thoát ra khỏi vòng xoáy
chủ nghĩa thực dụng nghiệt ngã. Đây là hành động “cởi trói” tri kiến mê lầm cho
Đảng cộng sản Việt Nam cũng như mọi thành phần, tầng lớp xã hội, con người Việt
Nam do Ngạo Thuyết ra sức sửa sai.
Và việc Ngạo Thuyết lấy sự sai lầm của Đảng
cộng sản Việt Nam làm điểm nhấn còn nhằm vào một mục đích quan trọng khác. Đó
là Ngạo Thuyết muốn đánh thức sự hiểu biết, khả năng tư duy, nhận thức nơi đại
chúng học Phật cũng như nơi mỗi người. Hãy Tự Thắp Đuốc Mà Đi!
Lẽ nào loài người và muôn loài sinh ra và
chết đi mà không có một ý nghĩa, một giá trị, một thông điệp cụ thể nào cả. Con
người sinh ra với những uống ăn, vui đùa, ngơi nghỉ rồi chết. Và chết là chấm
hết, kết thúc mọi nhân vay, quả trả cùng những điều lầm lạc, si mê.
…
Tương truyền người tối cổ ra đời cách nay đã
3, 4 triệu năm sau khi được tiến hóa từ vượn người trải qua 2 triệu năm vận
động. Và ngày nay, nhân loại là những bản sao của người tối cổ với trí tuệ, sự
hiểu biết không ngừng nâng lên.
Vậy sự tiến hóa, tăng trưởng trí tuệ của
loài người từ bấy đến nay có giá trị gì, chứa đựng thông điệp gì? Lẽ nào nhân
loại vẫn trói loài người vào nhận thức, tư duy – Sinh ra, lớn lên, già bệnh và
chết. Chết Là Hết.
Vậy vì sao con sâu lại sinh ra, lớn lên, tạo
kén hóa nhộng rồi thành bướm?
Vì sao cá hồi và các loài chim di cư đẻ
trứng ở những nơi xa xôi với nơi sống, những chuyến đi chỉ một lần duy nhất
trong đời?
Vì sao con nhện biết giăng tơ? Con chim biết
làm tổ? Ai đã dạy chúng?
…
Vì sao và vì sao?
Phải chăng thông tin di truyền, tập tính
giống loài được truyền thừa theo lối không đơn thuần ở tư duy, nhận thức Chết
Là Hết?
Tại sao có sự khác biệt về tính tình, khả
năng học hỏi, sự thông minh,… giữa người này với người khác? Chẳng phải cấu tạo
cơ thể giữa người với người là có sự tương đồng nhất định thế sao cách hành xử,
lối sống lại dị biệt?
Sự sống ở một thực thể sống hữu hình đó là
biểu hiện của thân và tâm. Khi loài người và muôn vật chết đi, thân xác tan rã
còn tâm đi về đâu? Lẽ nào tâm cũng tan rã như chưa từng tồn tại theo quan niệm
Chết Là Hết?
Rồi đến khi một thực thể sống mới ra đời thì
tâm từ nơi rỗng không lại nương gá vào thân xác và ra sức tạo tác, hoạt động
với những khác biệt không cùng?
…
Mời các bạn tiếp tục theo dõi những bài viết
mới của Ngạo Thuyết trên trang Tương Tác Phật Học Online Youtube!
Ngạo Thuyết tin rằng sự hiểu biết của các
bạn rồi sẽ được cởi mở, khách quan hơn khi lắng nghe tiếng nói của lòng mình!
Chết Là Hết hay Chết Sẽ Về Đâu rồi đây sẽ là
chọn lựa của mỗi người. Và hãy nên nhớ rằng những điều Ngạo Thuyết trình bày
không chỉ hạn cuộc ở đạo Phật, ở Việt Nam! Các bạn hãy nhớ cho rằng đấy là sự
hiểu biết mà nhân loại ngày nay đang rất cần đến! Mỗi người đừng mãi với giấc
mơ con đè nát cuộc đời con. Trân trọng!
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét