Chân Tướng Của Oan Gia Trái Chủ, Cầu Siêu, Giải Hạn...
Thứ Hai, 17 tháng 6, 2019
Chân Tướng Oan Gia Trái Chủ,
Cầu Siêu, Giải Hạn…
Thời gian gần đây cụm từ Oan Gia Trái Chủ
trở nên hot trên cộng đồng mạng cũng như với người học Phật. Có thể nói là Pháp
Thỉnh Oan Gia Trái Chủ do chùa Ba Vàng chế tác đã gây ra một dư chấn lớn lao
cho đạo Phật Việt Nam và lan cả ra phạm vi thế giới. Đã có rất nhiều chư Tăng
Bảo cũng như giới được giới thiệu là chuyên gia tâm linh ở trong nước lẫn nước
ngoài đều lên tiếng về vấn đề Oan Gia Trái Chủ.
Đã có rất nhiều ý kiến khác nhau, khác nhau
đến mức gần như đối lập về cụm từ Oan Gia Trái Chủ, người nói có, kẻ nói không
kèm theo những luận thuyết mang tính suy diễn, ước đoán và hiển nhiên là những
cuộc tranh luận về Oan Gia Trái Chủ sẽ gần như không có hồi kết.
Về lý thuyết người học Phật thuộc hệ phái
Nam Tông phe cánh bảo thủ sẽ cho rằng không có cái gọi là Oan Gia Trái Chủ bởi
do chấp thủ Đoạn Kiến – Không Có Linh Hồn. Tuy nhiên, với người học Phật thuộc
hệ phái Nam Tông cấp tiến họ sẽ thận trọng suy xét trên nền tảng kinh Nikaya và
rồi thừa nhận có sự tồn tại của những nẻo giới vô hình tức là thừa nhận có vong
linh, có hiện tượng vong nhập. Việc thừa nhận có vong linh ở giới Tăng Bảo Nam
Tông phe cấp tiến không chỉ là việc dựa trên kinh Phật nguyên thủy mà hẳn là
còn dựa vào sự thật vẫn thường xảy ra nơi xã hội con người, hiện tượng người
sống bị người âm mượn thân xác – Hiện tượng vong nhập.
Về Phật giáo Bắc Tông, cụm từ Oan Gia Trái
Chủ hiện nay được đông đảo chư Tăng Bảo lạm dùng, với nhiều vị Tăng Bảo thì Oan
Gia Trái Chủ là cái cần câu cơm, câu tài vật, tiền của, danh tiếng, thậm chí là
cả ái dục. Do đó, về cơ bản với Phật giáo Bắc Tông Oan Gia Trái Chủ là có thật.
Vậy vấn đề Oan Gia Trái Chủ thật sự có thật
không? Oan Gia Trái Chủ là chủng chúng sinh nào trong 4 nẻo vô hình Trời,
Atula, Ngạ Quỷ, Địa Ngục?
Có một sự thật là đến nay giới Tăng Bảo Việt
Nam, những vị Tăng Bảo đã từng lên tiếng về vấn đề Oan Gia Trái Chủ đều không
chỉ ra được Oan Gia Trái Chủ là dạng chúng sinh cụ thể nào trong 4 nẻo vô hình.
…
Thật ra về cụm từ Oan Gia Trái Chủ trở nên
hot là do việc cố ý dùng từ sai của sư thầy Thích Trúc Thái Minh. Có lẽ do hám
danh, tham lợi đến mờ mắt nên sư thầy Thích Trúc Thái Minh đã nâng cấp cụm từ
Vong Linh lên một tầm cao mới. Lẽ ra vấn
đề tác pháp mà sư thầy Thích Trúc Thái Minh lạm dùng chỉ dừng lại ở cách gọi
thông thường Thỉnh Vong, Gọi Vong. Song có lẽ thầy Thích Trúc Thái Minh nhận
thấy với cách gọi dân gian đó tín đồ Phật tử sẽ không thấy được tầm vóc hơn
người của chư Tăng ở chùa Ba Vàng đồng thời cũng không nhận thấy sự đáng sợ của
việc người cõi âm chất chứa oán cừu quay về đòi nợ. Hẳn là sư thầy Thích Trúc
Thái Minh biết rõ nếu tín đồ Phật tử không kinh sợ thì sẽ khó có thể moi được
số tiền khủng cùng với sự tự nguyện và thuần phục.
…
Với Ngạo Thuyết, Oan Gia Trái Chủ là có thật
bởi lẽ 3 cõi 6 đường là có tồn tại. Tuy nhiên, 3 cõi 6 đường cũng chỉ là một
cách nói mà Phật Thích Ca đã thuận theo “Vạn Pháp Duy Tâm, Tam Giới Duy Thức”
nhằm giúp mọi người nắm bắt được quy luật vận hành của sinh tử luân hồi cùng
nhân vay, quả trả. Chữ tâm trong “Vạn pháp quy tâm” phải được hiểu là tâm ý của
chúng sinh.
Ngạo Thuyết muốn nhấn mạnh điều gì?
Việc Phật chia chẻ Pháp giới thành 3 cõi 6
đường là nhằm vào mục đích giúp con người dễ dàng nhận diện các cõi giới, các
nẻo luân hồi. Ở thời điểm Phật Thích Ca tại thế, các hệ thống tôn giáo cùng với
tín ngưỡng dân gian bản địa ở các nước quanh lưu vực sông Hằng rất phát triển.
Và mỗi một hệ thống tôn giáo, mỗi một tín ngưỡng dân gian sẽ có cách phân định
các cõi giới hữu hình, vô hình ra thành rất nhiều nẻo giới khác nhau, tên gọi theo
đó cũng dị biệt. Chính vì lẽ đó, các nẻo giới vô hình sẽ được chia chẻ theo lối
thiên hình, vạn trạng. Kết quả là rất rối rắm, hỗn độn và phiền phức.
Đứng trước thực tế các cõi giới vô hình, hữu
hình bị ngoại đạo bày vẻ trừu tượng, phức tạp đến mức bất khả tri Phật Thích Ca
đã hệ thống lại, phân chia lại các cõi pháp giới theo khuynh hướng đơn giản,
gọn gàng, dễ trực nhận và phù hợp với nhận thức, tư duy của người đương thời.
Đây là việc làm thường thấy ở người giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
Tại sao phải trừu tượng hóa, phức tạp hóa
vấn đề trong khi việc cần làm là phải nhận diện, phải nắm bắt được vấn đề?
Do đó Giác Giả sẽ giản tiện, đơn giản hóa
vấn đề để mọi người dễ dàng nắm bắt, có thể trực nhận chạm đến.
…
Thời Phật Thích Ca tại thế, người học Phật e
rằng không biết đến cụm từ Oan Gia Trái Chủ. Bởi lẽ Phật Thích Ca ra đời chỉ với
mục đích duy nhất là trao truyền chánh pháp giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
…
Vong linh, hương linh, ma, quỷ, thân trung
ấm, Oan Gia Trái Chủ,… là chủng chúng sinh nào trong 4 nẻo vô hình mà Phật Thích
Ca đã chỉ ra?
Có vẻ giới Tăng Bảo ngày nay cũng không nhận
diện rành rõ vong linh, hương linh, ma, quỷ, thân trung ấm, Oan Gia Trái Chủ,…
thuộc chủng loại chúng sinh ở nẻo giới vô hình nào.
Phải chăng việc thuyết pháp ở giới Tăng Bảo
ngày nay mang nặng tính máy móc, giáo điều và xa rời thực tế?
Có nhiều vị Tăng Bảo cho rằng Thân Trung Ấm
là một dạng chúng sinh chuyển tiếp đang chờ tái sinh và cho rằng Thân Trung Ấm
sẽ tồn tại 49, 100 ngày. Và đây là luận thuyết của người học Phật Bắc Tông.
Có luận thuyết nhấn mạnh rằng giai đoạn Thân
Trung Ấm là giai đoạn người chết chưa tái sinh. Đây là một luận thuyết sai lầm.
Thật ra con người và loài vật vừa chết, thần thức liền rời khỏi thân. Thần thức
rời thân có thể xem là đã tái sinh rồi, chứ không chờ đến 49 hay 100 ngày. Thực
tế là thần thức là một thực thể sống, khi rời khỏi thân xác hữu hình – giai
đoạn bỏ thân xác hữu hình tức thần thức chết ngay thời điểm ấy (tạm gọi vậy) ở
cõi giới hữu hình và liền tái sinh ở cõi giới vô hình. Và do thức còn lưu giữ
hình ảnh của kiếp sống hữu hình liền kề nên thần thức sẽ lưu xuất hiện tướng
như lúc còn sống chỉ khác biệt là không mang thân xác vật chất hữu hình.
Và do có không ít người được gặp thần thức
người đã khuất ở trạng thái như lúc còn sống nên cụm từ giả lập thân trung ấm
đã được đặt ra.
Vong linh, hương linh, ma, quỷ, Oan Gia Trái
Chủ,… chỉ là cách gọi khác của Thân trung ấm.
Thực tế là có rất nhiều người chết đã lâu
đến rất lâu nhưng thần thức rời khỏi thân vẫn chấp giữ hình dáng lúc còn sống
và quẩn quanh làm những vong linh không siêu sinh (tạm gọi như thế). Và đây
cũng có thể gọi là Thân Trung Ấm bởi lẽ hình tướng thần thức không khác so với
lúc còn sống.
…
Hiển nhiên là sự hiểu biết của con người
thuở thời Phật Thích Ca tại thế sẽ không thể so bì với mặt bằng chung của tri
thức nhân loại ngày nay. Tuy nhiên, về mặt tâm tánh thì người xưa sẽ chân
phương, mộc mạc, thuần khiết hơn so với loài người hiện nay. Ngoài ra, nền tảng
tri thức con người thời Phật Thích Ca tại thế tin nhận sự hiện hữu của thế giới
tâm linh, đời sống có khuynh hướng hướng nội, sống khiêm hạ, an nhẫn. Ngược
lại, nhân loại ngày nay có xu hướng vọng ngoại, ham thích thể hiện, đời sống
nội tâm bị xem nhẹ và do sống thực dụng nên phần đa nhân loại ngày nay bị ràng
buộc hoặc mặc định rằng Chết Là Hết (Sự chấp thủ Đoạn kiến Chết là Hết ở loài
người hiện nay có thể rất thô thiển nhẫn đến rất vi tế đến mức người rơi vào
chấp thủ không dễ nhận biết).
Do sự hạn chế về mặt tri thức ở con người
thủa thời xa xưa Phật Thích Ca không dễ rạch ròi chia chẻ Pháp giới ra làm hai
dạng thực thể hữu hình và vô hình. Chính vì vậy để mọi người dễ nắm bắt Phật
Thích Ca sẽ phân Pháp giới ra làm 3 cõi 6 đường. Trong 6 đường có Nẻo Người,
Nẻo Súc Sinh thuộc về Pháp giới hữu hình; Nẻo Trời, Atula, Ngạ Quỷ, Địa Ngục là
4 nẻo thuộc về Pháp giới vô hình.
Như Ngạo Thuyết đã từng nói việc phân chia
các cõi giới của Phật Thích Ca chỉ mang tính quy ước chứ không phải là những
chế định. Việc quy ước dựa trên nền tảng mặt bằng tri thức chung của người
đương thời. Việc quy ước chỉ nhằm vào mục đích duy nhất giúp loài người hệ
thống hóa lại các cõi giới ngõ hầu dễ nắm bắt, dễ nhận diện.
Trên thực tế các cõi giới từ hữu hình đến vô
hình đều rất đa thù, đa biến, thiên hình, vạn trạng mà nhất là chúng sinh ở các
cõi vô hình, chỉ cần chút thay đổi ở rung cảm, ở ý niệm thì chúng sinh cõi giới
vô hình đã biến hóa ngụy dị, khôn lường. Do đó việc phân chia Pháp giới thành 3
cõi 6 đường chỉ mang tính quy ước, chỉ là sự giả lập.
Đơn cử như ở Nẻo Người với rất nhiều chủng
người khác nhau gồm người da trắng, người da đen, người da màu, người tóc xoăn,
người tóc vàng, người Do Thái… và mỗi chủng tộc người lại phân ra những nhóm
khác nhau về màu mắt, dạng mũi,… Vì thế, nếu không gom lại thành Nẻo Người e
rằng sẽ rất khó khăn để phân định các nhóm Nẻo Người. Và việc phân chia không
cần thiết đó chỉ làm cho vấn đề trở nên phức tạp, khó nắm bắt dễ dẫn đến rơi
vào ngõ cụt Bất Khả Tri.
Chúng sinh các cõi giới vô hình còn đa thù,
đa dạng hơn rất rất nhiều, thế nên nếu “đuổi hình, bắt bóng” thì vĩnh viễn không
thể chia chẻ, phân biệt rõ ràng các nẻo giới vô hình được, và kết quả sẽ là
những cuộc tranh luận không hồi kết. Do đó, Giác Giả Thích Ca đã tạm chia nhóm
nẻo giới vô hình thành Nẻo Trời, Atula, Ngạ Quỷ, Địa Ngục.
Ngày nay, sự hiểu biết của loài người đã
nâng cao, tư duy, nhận thức của con người theo đó cũng vượt trội hơn so với
người xưa. Với nhiều người học đạo, học Phật do tham cứu kinh sách của nhiều hệ
thống tôn giáo khác nhau nên đều biết và nhận diện được rằng các cõi giới vô
hình thực tế phong phú, đa dạng hơn rất nhiều so với quy ước 3 cõi 6 đường. Và
kết quả là nếu vẫn “đuổi hình, bắt bóng”, ra sức chia chẻ các cõi giới sẽ lại
sa vào ngõ tối Bất Khả Tri. Dính mắc vào sự trừu tượng, đa biến, phức tạp,… ở
các cõi giới vô hình dễ thường sẽ khiến người học Phật bất khả tri.
Chính vì lẽ đó, thay vì giữ các cõi giới
siêu hình thêm phần trừu tượng, phức tạp, ngụy dị,… theo cách truyền giáo của
các nhà hoạt động tôn giáo cũng như giới Tăng Bảo tri giải, Ngạo Thuyết sẽ phân
định tối giản 3 cõi 6 đường thành quy ước đơn giản hơn. Pháp giới sẽ phân định
thành Pháp giới hữu hình và Pháp giới vô hình.
Trong đó, như thường lệ Pháp giới hữu hình
là Nẻo Người, Nẻo Súc Sinh; Pháp giới vô hình gồm Nẻo Trời, Atula, Ngạ Quỷ, Địa
Ngục.
Sở dĩ Ngạo Thuyết rạch ròi lại sự quy ước là
vì với sự hiểu biết của nhân loại ngày nay, sự quy ước Pháp giới hữu hình, Pháp
giới vô hình sẽ dễ nắm bắt, nhận diện hơn. Mặc kệ chúng sinh ở các nẻo giới vô
hình biến hóa đa thù, đa biến ra sao thì chúng sẽ không thể vượt thoát khỏi sự vô
hình của pháp giới vô hình, chúng không thể ngay lập tức hóa hiện ra thân xác
hữu hình. Và với quy ước tóm gọn lại thành Pháp giới vô hình sẽ thỏa mãn được
sự biến hóa dị ảo của nẻo giới vô hình và vượt thoát chế định 3 cõi 6 đường
theo lối quy ước cũ.
…
Vậy với quy ước Pháp giới hữu hình, Pháp
giới vô hình thì Oan Gia Trái Chủ được xếp vào Pháp giới vô hình. Thật ra Oan
Gia Trái Chủ là một nhóm chúng sinh khá hiếm hoi trong chủng chúng sinh vô
hình. Hạng chúng sinh này mang tâm ý oán thù, cừu hận sâu nặng, và thông thường
tánh hạnh của chúng sinh này nhiều chấp thủ, lòng chất chứa sự hẹp hòi, nhỏ
nhen và đôi khi chứa nhóm cả lòng đố kỵ cùng sự hoài nghi. Chính do những tánh
hạnh như thế nên chủng chúng sinh này nặng oằn đau khổ, muộn phiền và chất chứa
ý niệm báo thù, báo thù. Do tâm hạnh nặng nề oán thán nên vô hình chung chủng
chúng sinh này chiêu cảm, lưu trú ở những cõi giới xấu. Và chỉ cần cởi mở tâm
ý, buông xả tà tâm, ác tâm, oán tâm thì chủng chúng sinh này sẽ tái sinh vào
những cõi giới tốt đẹp hơn.
Thực tế là tất cả chúng sinh ở cõi giới vô
hình đều tồn tại ở dạng Thần thức, và hiện tướng cõi giới thọ dụng phần đa đều
dựa trên nền tảng ý niệm, một số chúng sinh nẻo giới vô hình khác dùng định lực
để trụ xứ.
Chỉ với những chúng sinh tâm tánh hạ liệt,
tạo nhiều ác nghiệp hoặc việc lạm dùng các chất gây nghiện như ma túy, bia rượu
quá mức dẫn đến việc lương tâm dằn xé,… đánh mất định lực, thần trí mê mờ cùng
với việc chấp thủ những định kiến sai lầm mà không thể tự chủ ở các nẻo. Và kết
quả là bị các chủng chúng sinh nẻo vô hình thao túng, chèn ép, bức bách hoặc
việc tự đày đọa chính mình do si mê, tham đắm.
…
Nếu Ngạo Thuyết không từng chạm mặt những
chúng sinh nẻo giới vô hình thì hẳn là định kiến Chết Là Hết tiềm ẩn mặc định
trong nhận thức của Ngạo Thuyết khó thể phơi bày cũng như không dễ phá vỡ.
Không chỉ vậy, Ngạo Thuyết đã từng chạm mặt khá nhiều chúng sinh vô hình đủ để
nhận biết và hiểu họ đồng thời cũng hiểu thêm về chính mình.
Ngạo Thuyết cũng đã từng khuyên nhủ một
chúng sinh nẻo giới vô hình siêu thoát. Tuy nhiên, chúng sinh đó tái sinh về
đâu quả thật là điều mà Ngạo Thuyết không được rõ. Song Ngạo Thuyết biết rằng
chúng sinh đó không thể giải thoát hoàn toàn. Và Ngạo Thuyết cũng biết rằng
người chứng ngộ giải thoát hoàn toàn, thậm chí là Phật cũng không thể độ chúng
sinh nẻo giới vô hình giải thoát hoàn toàn, có chăng là qua việc chạm mặt giúp
chúng sinh nẻo giới vô hình mở lòng ra và tái sinh vào những nẻo giới tốt hơn.
Và việc thuyết pháp độ sinh đối với chúng sinh nẻo giới vô hình ở những người
chứng ngộ bao giờ cũng là sự tùy duyên chứ không là việc cưỡng cầu tìm gặp.
Không chỉ vậy, việc chọn lựa tái sinh của chúng sinh nẻo giới vô hình cũng do
tự tâm chúng sinh được điểm hóa làm chủ chứ không do người chứng ngộ gặp duyên
điểm hóa quyết định.
…
Do ảnh hưởng của tôn giáo và tín ngưỡng dân
gian, con người hiện có rất nhiều ngộ nhận, những hiểu biết lệch lạc về thế
giới tâm linh. Những hiểu biết sai lạc đó trở thành định kiến trói buộc cả
người sống lẫn thần thức người chết.
Điển hình như việc thờ cúng cửu huyền thất
tố, ông bà cha mẹ hoặc người thân đã khuất. Việc thờ cúng mang tính chế định và
không ít người cho rằng ông bà cửu huyền, thất tổ, người đã khuất sẽ về thọ
dụng đồ cúng. Do không hiểu biết đúng về thế giới tâm linh trên nền tảng chánh
pháp nên việc thờ cúng này sẽ mặc định ông bà cửu huyền, người đã khuất sẽ mãi
mãi là những vong linh chẳng thể tái sinh ở những cõi giới khác. Và cũng do
chấp thủ định kiến mà thần thức của những người chết lẽ ra có thể tái sinh vào
những cõi giới tốt hơn, thậm chí là trở lại kiếp người thì lại trụ chấp vào
việc con cháu, người thân cúng cơm ăn, cúng áo mặc, việc trụ chấp thành quen dễ
khiến thần thức trở thành những vong
linh chấp thủ, rất khó tái sinh.
…
Về cơ bản con người khi chết đi thần thức rời
khỏi thân và tùy tâm ý mà hóa hiện ra hình tướng tương ưng. Và do dính mắc tiền
kiếp nên phần đa thần thức sẽ lưu xuất hình tướng như khi còn sống và theo thói
quen thần thức sẽ đến đi ở những chỗ đến đi quen thuộc như gia đình, cơ quan,
chỗ làm hay hàng xóm láng giềng,… Cũng theo thói quen thần thức cũng sẽ lưu
xuất cảm giác đói no ấm lạnh và nếu sáng suốt trước khi chết, thần thức sẽ nhận
ra mình đã chết và rồi tự điều phục cảm giác, tri giác,… thậm chí tự hóa hiện,
bày cảnh việc uống ăn với chúng sinh ham thích việc uống ăn. Với những người
chết trong tình trạng già lẩn thần thức sẽ không được sáng suốt như thế và sẽ
theo định kiến ghi nhận mà thọ trì việc uống ăn thông qua việc cúng cơm của các
vị thầy cúng cũng như người nhà. Những định kiến 49, 100 ngày sẽ trói thần thức
người chết làm những vong linh đánh mất sự tự do, thoải mái. Và khi dính mắc
định kiến mê lầm sẽ dễ dẫn đến thần thức người chết trở thành những vong linh
khó siêu sinh.
Lẽ ra nếu sống một đời sống thiện lương, hài
hòa khi trút bỏ thân xác vật chất hữu hình, thần thức người chết sẽ tự do tùy
tâm biến hiện nhưng do bị trói vào định kiến mà thần thức người chết bị chiêu
cảm vào những cõi giới hạn chế, thậm chí là tối tăm.
…
Với những người chết trụ chấp định kiến Chết
Là Hết dễ thường sẽ nhiều đau khổ vì trong lòng họ luôn mong mỏi được sống, cho
đến khi thần thức rời thân liền thấy mình vẫn đây, vẫn hiện hữu mà người thân
lại không biết đến, đây là một giai đoạn bỡ ngỡ, bối rối và nhiều hoang mang.
Họ sẽ mất định hướng, không biết đi đâu, về đâu và làm gì. Đôi khi vì sự bối
rối đó họ sẽ bị lạc lối bởi do chúng sinh nẻo giới không thân phá bĩnh, thao
túng. Ngoài ra, có thể về sau do ham thích sự tự do biến hiện, họ sẽ trở thành
những vong linh vất vưỡng dài lâu, điều này là mầm họa cho việc tái sinh lại
nẻo giới hữu hình – Nẻo Người, Nẻo Súc Sinh nhưng tri kiến lại chẳng đồng, có
sự tụt hậu về mặt bằng tri thức.
Với những người không bị hạn cuộc định kiến
Chết Là Hết, khi thần thức rời thân cũng khó tránh khỏi việc hoang mang, kinh
sợ. Tuy nhiên, nếu có định lực vững vàng thần thức này sẽ mau chóng lấy lại cân
bằng và khám phá sự mới mẻ của cõi giới vô hình cùng với khả năng thần biến của
chính mình,… Về sau, tùy duyên cũng như tùy tâm mà siêu sinh vào nẻo giới tương
hợp. Tuy nhiên, việc tái sinh trở lại xác thân vật chất cũng chỉ là vấn đề thời
gian sớm hay muộn.
Với những người chết trẻ do những sự cố bất
ngờ như tai nạn giao thông, việc sốc thuốc, việc chơi games quá độ hoặc cả việc
tự tử,… do tâm ý tuổi trẻ nên thần thức của những đối tượng này dễ trở thành
những vong linh phá phách, nghịch ngợm. Do mê mải với trạng thái không có thân
xác vật chất, vui thú về điều đó dạng chúng sinh này có thể chủ động mượn thân
xác người sống để quấy phá, những người bị mượn thân xác hầu hết là những người
có thần kinh không vững vàng, định lực yếu ớt.
Tuy nhiên, việc mượn thân xác của chúng sinh
nẻo không thân không có tính bền vững, lâu dài. Hay nói một cách khác chúng
sinh nẻo giới vô hình không thể đoạt luôn thân xác của người sống.
Vì sao lại như vậy?
Vì sự không tương thích về vóc dáng, hình
hài và vì chúng sinh nẻo không thân dạng quấy phá này tâm tính loạn động, không
ưa sự gò bó, tù túng khi mang thân xác vật chất hữu hình. Hơn nữa, chủ nhân
thật sự của ngôi nhà thân xác vật chất lúc mê, lúc tỉnh nên rất phiền toái trong
việc giành giật.
…
Và hiện tướng người chết mượn thân xác người
sống để bày tỏ ý kiến, đòi ăn uống, đòi áo mặc,… được gọi là hiện tượng vong
nhập.
Với những vong chết trẻ, nhất là vong trẻ
con có tính tinh ranh, ham chơi,… khi mượn xác người sống và tùy sự dẫn dắt câu
hỏi của người sống vong nhập xác có thừa khả năng tán hươu, tán vượn, xưng thần
thánh, bồ tát, Tôn Ngộ Không, thậm chí xưng là Phật. Do tồn tại ở dạng tần số
rung cảm nên những vong dạng lâu năm có thừa khả năng đọc cảm nghĩ của người
sống, nắm bắt được tâm ý, thông tin từ người sống những dạng vong linh này hoàn
toàn có thể đưa ra những câu trả lời có tính thuyết phục, câu trả lời khớp với
thực tế. Chính do khả năng đặc biệt này mà vong linh có thể trí trá, giả mạo
người thân đã khuất của người sống để vòi vĩnh. Hiển nhiên là với những vong
linh giả mạo người thân đã khuất này, nếu người sống tỉnh táo, lắng tâm đưa ra
những câu hỏi chất vấn, những phép thử liên hoàn thì vong giả danh sẽ bị lộ
tẩy.
Do tính mê đắm nên phần đa những vong mượn
xác người sống dễ thường đòi hỏi việc uống ăn, việc nhang khói, quần áo,… Có
những vong ma mãnh còn bày trò điêu ngoa, mỗi lần nhập xác lại đưa ra những
thông tin bất nhất, việc làm chỉ mang tính quấy phá của trẻ con.
…
Việc rước vong, gọi vong, thỉnh vong,… thời
Phật Thích Ca tại thế, giới sa môn khất sĩ sẽ không được tùy tiện tác nghiệp
bởi lẽ dựa vào kinh Phật nguyên thủy sẽ không thấy Phật cùng môn đồ ra sức tìm
gặp, độ vong.
Lẽ ra với những hạng chúng sinh quấy phá ưa
thích việc mượn xác thân người sống, người hiểu biết về chánh pháp sẽ tùy thuận
hỏi đáp nhằm giúp cho chúng sinh đó nhận thức được rằng tự thân đã chết ở nẻo
giới hữu hình, và khi tồn tại ở nẻo vô hình thì chúng sinh đó sẽ tùy nghi biến
hiện mà không còn hạn cuộc ở việc đói no ấm lạnh, việc chờ đợi đồ cúng là điều
mê mờ,… Qua những cuộc trao đổi thẳng thắn, trực tiếp vong linh sẽ hiểu ra vấn
đề và người hiểu biết về chánh pháp sẽ tiến thêm một bước là khuyên vong linh
đó đừng quấy phá nữa mà hãy nên tái sinh học Phật nhằm thoát khỏi những mê lầm,
những phiền muộn chất chứa. Bằng vào sự chân thành, tự tin, không kinh sợ những
người hiểu biết về chánh pháp sẽ có thừa khả năng khuyên giải chúng sinh nẻo
không thân tái sinh, xả bỏ kiếp vong linh u mê, vọng chấp.
Việc tiếp cận vong linh ở người sống có thể
thực hiện ở hai lối chính. Một là chúng sinh không thân mượn xác người sống tạo
tác và người sống sẽ hỏi đáp trực tiếp với vong linh thông qua xác thân người sống.
Hai là người sống hành trì việc thần thức rời thân thâm nhập vào các cõi giới
vô hình mà gặp gỡ chúng sinh nẻo vô hình. Với người học Phật hành trì chánh
pháp Phật môn sẽ không tham đắm việc tìm gặp chúng sinh nẻo giới vô hình, mọi
việc tùy duyên.
Một yếu tố quan trọng để xảy ra hiện tượng
vong nhập là vong có định lực khá mạnh, còn người bị vong mượn xác phần đa có
thần trí yếu ớt, định lực kém, có vấn đề về thần kinh.
…
Miền bắc Việt Nam do chịu ảnh hưởng của văn
hóa Thần quyền lâu đời từ Trung Hoa nên những hủ tục, những tín ngưỡng dân gian
đã tiêm nhiễm sâu rộng vào tâm thức của người sống lẫn người chết. Do đó, cả
ngoại đạo lẫn đạo Phật miền bắc Việt Nam từ xưa đến nay vẫn luôn chứa giữ việc
gọi vong, thỉnh vong trong đời sống thường nhật. Và ngày nay, việc Thờ Mẫu, hầu
đồng được công nhận là một nét bản sắc văn hóa thì việc đồng bóng, cậu Trạng,…
sẽ góp phần gìn giữ hiện tượng vong nhập gây ra việc âm thịnh dương suy. Hiện
tướng âm thịnh dương suy xâm nhập vào đời sống tâm linh con người sẽ là sự
nhiễu nhương, hỗn độn.
…
Pháp Thỉnh Oan Gia Trái Chủ của sư thầy
Thích Trúc Thái Minh là sản phẩm chế tác lại từ pháp Gọi Vong của ngoại đạo. Và
để mở lối đi riêng sư Thích Trúc Thái Minh đã PR sản phẩm Gọi Vong lên một tầm
cao mới – Pháp Thỉnh Oan Gia Trái Chủ. Và với hai chữ Oan Trái sư thầy Thích
Trúc Thái Minh đã khiến tín đồ Phật tử sợ đến phát khiếp việc oán cừu, việc
quấy phá do vong linh đòi nợ. Từ sự khiếp sợ đó tín đồ tham gia Pháp Thỉnh Oan
Gia Trái Chủ gần như là bị hớp hồn, bị thao túng hoàn toàn bởi tà pháp mượn
danh nghĩa pháp Phật. Và khi người học Phật đánh mất sự tự chủ thì tiếp đến sẽ
là trượt dài vào tệ nạn mê tín dị đoan mà sư thầy Thích Trúc Thái Minh bày ra.
…
Như đã trình bày ở phần trên, chúng sinh Oan
Gia Trái Chủ là chủng loài chúng sinh vô hình khá hiếm hoi, chúng sinh này tồn
tại do chất chứa, chấp thủ oán cừu sâu nặng. Chúng sinh này sẽ luôn đau khổ về
việc chất chứa đó và sẽ quấy phá cừu nhân còn sống khi có dịp. Song duyên để
quấy phá cừu nhân ở cõi giới hữu hình sẽ khó khăn vô cùng, do đó thật không dễ
để chúng sinh nẻo giới vô hình quấy phá cừu nhân còn sống.
Đơn cử như trường hợp vong linh bị người
sống bức bách dồn đến cái chết. Do uất ức, phẫn hận vong linh này chẳng dễ siêu
thoát mà trong ý niệm chúng sinh này sẽ quanh quẩn như hình với bóng của cừu
nhân, tâm sinh cảnh liền hiện (và điều này chỉ nằm trong tư tưởng của vong
linh, người tạo ác thời thịnh thế ít khi nghĩ tưởng đến việc vong linh theo sát
mình). Cùng với sự đau khổ chứa giữ oán cừu vong linh sống những năm tháng
không thân xác hữu hình đầy phiền não, u uất. Nếu không thể tự xả bỏ tâm sân
hận, oán cừu vong linh này sẽ trở thành những vong oan hồn, uổng tử rất khó
siêu sinh vào nẻo giới khác, do ý niệm theo đuổi cừu nhân đến cùng báo thù nên
vong này sẽ thường trực bên cừu nhân. Vạn nhất về sau cừu nhân nhớ nghĩ đến
việc ác đã làm, lương tâm dằn xé, sám hối. Lúc bấy giờ sự tương ưng về rung cảm
sẽ giúp cho cừu nhân gặp nhau và hiển nhiên là người làm ác sẽ bị vong linh gây
nhiễu loạn có thể đến mức thần mê, trí loạn, hiện tướng khùng điên hay già lẩn.
Dù là sau những năm tháng dài chờ đợi để cuối cùng báo được tư thù nhưng tin
rằng vong linh oan hồn uổng tử cũng chẳng vui gì và cũng sẽ tiếp tục là những
oan hồn vất vưỡng kể cả khi cừu nhân chết thảm, tiếp đến là những năm tháng
cùng đọa lạc ở nẻo xấu của những vong linh chất chứa oán cừu, lẽ ra Oan Gia Nên
Giải Không Nên Kết.
Tuy nhiên, trên thực tế không hẳn là tất cả
vong linh bị bức tử đều sẽ chất chứa oán cừu không buông, phần đa vong linh sau
những năm tháng nặng nề chấp thủ với u uất, phiền muộn đều sẽ dần nguôi ngoai
và siêu thăng vào những nẻo giới tốt hơn ở cõi vô hình lẫn hữu hình. Về lý
thuyết mối Oan Trái đã giải khai, tuy nhiên, việc giải khai đó chỉ là ở vong
linh bị thua thiệt. Về phần người sống tạo tác nghiệp ác (cừu nhân), người này
sẽ không hề biết điều đó và việc làm ác sẽ vẫn dính mắc trong tâm thức của họ,
đến một lúc nào đó ký ức xấu ác quay về (thường là những năm tháng cuối đời
hoặc khi thần trí suy bại do bia rượu, ma túy,…), sự ân hận, nội tâm dằn xé,…
sẽ khiến người này trầm cảm. Và những lắng động, những rung cảm tâm thức này sẽ
bị chúng sinh vô hình nắm bắt, nhận diện,… và từ những thông tin tâm linh thu
nhận được chúng sinh nẻo giới vô hình với tâm ý quấy phá sẽ hóa hiện thành cừu
nhân đến đòi nợ, ra sức não hại người sống đã từng tạo ác nghiệp.
Do đó, việc Oan Gia Trái Chủ đòi nợ ngoài
yếu tố chính chủ còn có việc chúng sinh nẻo giới vô hình giả danh. Và phần đa
hiện tướng Oan Gia Trái Chủ đều là giả danh vì vong linh bị hại phần nhiều sẽ
không chứa giữ mãi oán cừu, thậm chí là với những vong chất chứa oán cừu thì
theo năm dài, tháng rộng cùng với duyên nghiệp chằng chịt đã tái sinh vào cõi
giới khác. Việc Oan Gia Trái Chủ đòi nợ ở ngay hiện kiếp đã hiếm hoi thì việc
Oan Gia Trái Chủ theo đuổi, bám riết cừu nhân trải qua hà sa kiếp càng là điều
không tưởng, là sự bất khả thi. Thế nên việc thầy bà, cậu Trạng hay Tăng Bảo
lập ngôn cừu nhân tiền kiếp lâu xa đòi mạng, đòi nợ thật sự là những điều dối
trá, lọc lừa. Thật tế là những vong linh thuộc chủng loại Oan Gia Trái Chủ lòng
nhiều cừu hận, si mê,… vốn là chúng sinh thuộc những nẻo giới cấp thấp, chính
vì lẽ đó hạng chúng sinh này không có khả năng Thiên Nhĩ Thông, Thiên Nhãn
Thông, Tha Tâm Thông.
Qua phần trình bày bên trên hẳn là mọi người
sẽ nhận diện được rằng phần đa vong Oan Gia Trái Chủ là hàng giả. Và hàng thật
còn không đúng thật, huống hồ là hàng giả.
…
Nền tảng của hiện tượng vong nhập phần nhiều
là do người sống tâm trí loạn động, định lực yếu ớt.
Ngoài hiện tượng vong nhập, về cõi giới vô
hình còn có hiện tượng vong theo. Hiện tượng vong theo không nhất thiết phải
nghiêm trọng hóa bằng cụm từ Oan Gia Trái Chủ mà phần đa sẽ xuất phát bởi niệm
yêu ghét của vong linh.
Trường hợp vong theo rất thường gặp ở nam
thanh, nữ tú. Kết quả của việc vong theo sẽ khiến cho đương sự gặp chướng ngại
trong việc lập gia đình. Vong linh sẽ bằng cách này, cách khác nhiễu loạn tâm
tánh của đương sự hoặc người đương sự thương yêu hoặc cả với người thân của hai
phía chỉ nhằm vào mục đích ngăn chặn việc lập gia đình của đương sự.
Phần đa hiện tượng vong theo dạng này phát
sinh từ sự tương hợp hoặc yêu đơn phương, và đôi khi chỉ là sự cảm mến. Và do
chấp thủ chỉ muốn giữ người thương mến cho riêng mình, vong linh sẽ quấn lấy
đương sự và chặn lối việc lập gia đình. Một số vong linh còn có khả năng khiến
đương sự quan hệ xác thịt với vong bằng thần thức, và điều này gây ra tâm lý
tội lỗi, mặc cảm cho đương sự. Thực tế là với hiện trạng dân số ngày càng đông
đúc cùng với hiện tướng “âm thịnh, dương suy” ở nhận thức tâm linh, hiện tượng
vong theo quấy phá “nam thanh, nữ tú” lập gia đình ngày nay đang rất phổ biến.
Và vì sự tự ti, mặc cảm tội lỗi nên hiện tượng này không được công khai trên
diện rộng.
Nguyên nhân của hiện tượng vong theo là do
sự tương hợp rung cảm, việc yêu đơn phương hoặc chỉ đơn thuần là sự cảm mến mà
vong linh chiếm giữ người sống cho riêng mình. Cụ thể như việc giúp đỡ qua về
trong cuộc sống thường nhật hoặc trong việc học hành, điển hình như trường hợp có
một cô bé sinh ra trong một gia đình nghèo khó, sức khỏe yếu ớt, tự ti và gặp
duyên có một bé trai cảm thương động viên, cô bé vui sống với niềm an ủi đó,
rồi chẳng may cô bé đó hoặc cậu bé đó bị chết, do sự cảm mến mà vong linh chết
trẻ sẽ theo sát người mà mình nhớ nghĩ. Và nếu người còn sống cũng thường nhớ nghĩ
đến người bạn đã mất thì sợi dây giao cảm sẽ được vong linh sớm thiết lập, sợi
dây giao cảm này sẽ do vong linh chấp giữ, đôi khi người sống không còn nhớ
nghĩ đến nhưng vong linh chấp thủ vẫn có thể nhận diện, nắm bắt tâm ý người bạn
đã từng “tâm đầu, ý hợp”, do cảm mến, do chấp thủ vong linh này sẽ khó siêu
sinh sang nẻo giới khác. Và rồi từ sự cảm mến tuổi trẻ theo năm tháng sẽ thành
sự thương yêu và ý muốn chiếm hữu dần định hình, lúc bấy giờ vong linh sẽ thao
túng ít nhiều đời sống của người sống, nếu định lực người sống này quá vững
vàng thì vong linh sẽ hướng sự ngăn chặn việc lập gia đình ở đương sự đến từ
người thân hoặc người yêu.
…
Việc tác pháp Pháp Thỉnh Oan Gia Trái Chủ
của sư thầy Thích Trúc Thái Minh phần đa chỉ là những vở diễn, những tấn tuồng
do người sống diễn xuất. Tuy nhiên, từ sự giả trá về sự hiện diện của Oan Gia
Trái Chủ sẽ khiến tín đồ Phật tử cạn nghĩ, lầm tin khiếp phục từ đó rơi vào
việc khiếp sợ thế giới tâm linh, thần thức người sống mê tín sẽ trở nên yếu ớt,
đánh mất định lực dẫn đến hiện tướng “âm thịnh, dương suy” ở nhận thức tâm
linh. Kết hợp với tín ngưỡng hầu đồng, gọi hồn, thỉnh vong, rước vong,… sẽ
khiến hiện tượng vong nhập sẽ ngày càng nhiều. Bên cạnh đó, những tệ nạn nghiện
games, nghiện bia rượu, nghiện ma túy cũng như các chất kích thích,… sẽ khiến
những người nghiện thần trí mơ hồ, ảo giác nhiều, định lực kém,… đây là hiện
tướng của hiện tượng vong nhập sẽ ngày càng nhiều nơi xã hội con người.
Và để hóa giải hiện tượng vong nhập sẽ đòi
hỏi con người phải có chánh kiến, chánh tư duy, chánh nhận thức, chánh nghiệp.
Bát chánh đạo sẽ góp phần điều phục, hóa giải hiện tướng âm thịnh, dương suy ở
nhận thức tâm linh.
…
Về việc cầu siêu, cầu an, cúng sao giải hạn,
những hủ tục rườm rà của việc tổ chức tang lễ,… hiển nhiên sẽ không là những
pháp mà Phật Thích Ca hay Giác Giả trao truyền, xiển dương hay tán thán. Không
chỉ vậy, người chứng ngộ sẽ ra sức giải trừ, đoạn dứt những tà pháp không mang
lại sự giác ngộ giải thoát. Và ở một khía cạnh nào đó việc lạm dùng những tà
pháp này sẽ khiến người sống lẫn người chết sa đà vào những mê mờ tâm linh, là
việc hại mình, hại người.
Có nhiều người với chủ trương Bài Tàu đã chủ
quan cho rằng việc cầu siêu, cầu an, cúng sao giải hạn, những hủ tục rườm rà
của việc tổ chức tang lễ,… là sản phẩm của việc lây nhiễm từ Phật giáo Trung
Hoa. Thực ra sự quy kết đấy không chuẩn mực, trên thực tế là bất kỳ vùng miền
nào cũng có những tín ngưỡng dân gian khác nhau, dù có sự khác nhau nhưng việc
giao thoa tín ngưỡng tâm linh cũng sẽ có những tương đồng nhất định. Và thông
thường nơi nào có sự hiện diện của thầy mo, thầy cúng, thầy tướng số,… thì các
hủ tục, các chiêu trò tâm linh sẽ phát sinh,… và đó là chiếc cần câu cơm chính
của những thầy bà vô minh, không có đạo tâm. Thêm việc phú quý sinh lễ nghĩa
nên hủ tục tâm linh ngày càng thêm màu mè, phức tạp, rườm rà.
Do đó, với rất nhiều hệ thống tín ngưỡng tâm
linh lâu đời Ấn Độ cổ, Tây Tạng là bậc thầy của những chiêu trò cầu siêu, cầu
an, cúng sao giải hạn, những hủ tục rườm rà của việc tổ chức tang lễ,… Phật
giáo lan tỏa đến Trung Hoa có chăng chỉ thêm phần khói hương mờ mịt.
Và Phật Thích Ca đã không tán đồng, không
khuyến khích việc cầu siêu ở các nước quanh lưu vực sông Hằng thể hiện ở Kinh
Tương Ưng Bộ Phẩm IV:
“Một
Bà-la-môn tên là Asibandhakaputta đến gặp Đức Phật trình bày về việc những
người theo đạo thờ lửa cầu siêu cho người sau khi chết được lên cõi trời. Rồi
vị Bà-la-môn ấy hỏi quan điểm của Đức Phật về việc cầu nguyện đó. Đức Phật trả
lời, nếu một người sát sinh, lấy của không cho, sống theo tà hạnh trong các
dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham lam, sân
hận, theo tà kiến. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ họp lại, cầu khẩn,
tán dương, chắp tay đi cùng khắp cầu nguyện cho người ấy được sinh lên thiện
thú, thiên giới, cõi đời này. Nhưng người ấy vẫn phải sinh vào cõi dữ, ác thú,
đọa xứ, địa ngục theo ác nghiệp của họ. Ngược lại, nếu có người từ bỏ sát sinh,
từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ sống tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ
nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham,
không có sân hận, có chánh tri kiến. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ
họp lại, cầu khẩn, tán dương, chắp tay đi cùng khắp để mong người ấy bị sinh
vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nhưng không thể được. Người ấy vẫn sinh
vào thiện thú theo thiện nghiệp của họ”.
“Rồi
Đức Phật đưa ra ví dụ rằng, ví như có người nhận chìm một ghè sữa đông, hay một
ghè dầu vào trong một hồ nước sâu rồi đập bể ghè ấy. Ở đây, ghè ấy trở thành từng
miếng vụn, hay từng mảnh vụn và chìm xuống nước. Còn sữa đông hay dầu thời nổi
lên trên. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ họp lại, cầu khẩn, tán dương,
chắp tay đi cùng khắp để cầu cho sữa đông và dầu chìm sâu xuống, còn cái ghè đá
thì nổi lên. Nhưng mà sữa đông và dầu ấy vẫn không bị chìm xuống và cái ghè đá
cũng không thể nổi lên theo sự cầu khẩn của đám đông”.
Qua dẫn
chứng trên cho thấy Phật Thích Ca không tán đồng cho sa môn, khất sĩ tác pháp
cầu siêu bởi tính không thực tế của việc cầu nguyện. Việc cầu siêu đã vậy, việc
cầu an chẳng thể khác. Người học Phật chân chính có chánh kiến sẽ rõ biết vạn
pháp duy tâm, há dễ cầu nguyện suông mà được việc. Chỉ khi ý nguyện, tâm hành
mới có được phần tương ưng.
Tuy
nhiên, ở bộ kinh nguyên thủy A Hàm, để
hợp thức hóa việc cầu siêu giáo lý chánh pháp đã có sự len lõi của tư tưởng
ngoại đạo, ở nội dung đoạn kinh văn này lý giải việc cầu siêu có thể thành tựu
thông qua hình ảnh đặt đá lên chiếc bè mặc dù đá nặng nhưng vẫn không chìm
xuống nước. Kết luận sau cùng là việc cầu siêu có tác dụng giúp người chết siêu
thăng ở những cõi giới cao.
Thật ra
với sự bất nhất này có thể xét đến yếu tố giáo lý đạo Phật bị xen tạp tư tưởng
ngoại đạo bởi lẽ quyết định cho sự tái sinh của thần thức phần đa chỉ dựa vào
nhận thức, tư duy và duyên nghiệp mà chúng sinh đó đã từng tạo tác.
Việc
cúng sao giải hạn, hủ tục rườm rà của việc tổ chức tang lễ là pháp hữu vi do các
thầy tử vi, thầy tướng số, thầy cúng, thầy mo,… tác nghiệp và đạo Phật ngày nay
bị tiêm nhiễm tà pháp ngoại đạo mà bày hiện tướng cầu siêu, cầu an, cúng sao giải hạn, những
hủ tục rườm rà của việc tổ chức tang lễ,… không đúng theo tinh thần chánh pháp
Phật môn. Đây là điều mà người học Phật có chánh kiến phải nhận thức chạm đến
ngõ hầu dần thoát ra những tệ nạn mê tín dị đoan, chánh tâm học Phật.
Bài viết tiếp theo liên quan đến vấn đề
duyên nghiệp, công đức, phước báu.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét