Công Đức và Phước Đức_Giải Mã Đạo Phật 2.0
Thứ Tư, 19 tháng 6, 2019
Công Đức và Phước Đức
Vấn nạn của đạo Phật ngày nay
là “Người biết thời không nói. Người nói thời không biết. Và người thật biết
lại rất hiếm hoi.
Trích lục từ Pháp Bảo Đàn Kinh
– Phẩm Nghi Vấn.
Vi Sử Quân sau khi thiết hội
Trai Tăng mời Lục Tổ Huệ Năng thăng tòa thuyết pháp. Vi Sử Quân nói: Đệ
tử có điều nghi.
Lục Tổ đáp: Có nghi cứ hỏi, ta
giải đáp cho.
Vi Sử Quân trình bày:
Tổ Đạt Ma lúc mới gặp Lương Võ Đế, vua hỏi “Trẫm một đời cất
chùa, độ Tăng, bố thí, cúng dường, đúc chuông, tạo tượng, ấn tống kinh sách,…
như vậy có được công đức gì chăng?”. Tổ Đạt Ma đáp “Thật
chẳng công đức”. Đệ tử chưa hiểu lý này, xin Hòa
Thượng chỉ dạy.
Lục Tổ nói: Thật
chẳng công đức. Chớ nghi lời của bậc Thánh xưa. Võ Đế tâm tà,
chẳng biết Chánh Pháp. Xây chùa, độ Tăng, cúng dường, bố
thí,… ấy là cầu phước, chẳng thể đem cái phước ấy cho là công
đức. Công đức ở trong Pháp Thân, chẳng ở tại tu
phước. Kiến tánh là công, bình đẳng là đức, niệm niệm vô
ngại, thường thấy cái diệu dụng chân thật của tự
tánh gọi là công đức. Trong tâm khiêm tốn là công, ngoài hành
lễ phép là đức. Tự tánh kiến lập vạn pháp là công, tâm thể
lìa niệm là đức. Chẳng rời tự tánh là công, ứng dụng vô
nhiễm là đức. Muốn tìm kiếm Pháp Thân của công đức,
phải y theo đây thực hành mới là chân công đức. Người
tu hạnh công đức, tâm chẳng khinh người, thường
hành pháp cung kính. Tâm nếu khinh người, nhân ngã chẳng dứt tức là
chẳng công, tự mình hư vọng chẳng thật tức là chẳng đức, vì ngã
chấp quá lớn, nên thường khinh bỉ tất cả. Thiện tri thức, niệm
niệm chẳng gián đoạn là công, tâm bình đẳng, hạnh ngay
thẳng là đức. Tự tu tánh là công, tự tu thân là
đức. Thiện tri thức, công đức phải do tự tánh tự thấy,
chẳng phải bố thí cúng dường mà cầu được, nên phước đức và
công đức khác nhau là vậy. Võ Đế tự chẳng biết chân lý, đâu phải lỗi
của Tổ Sư.
Về Công Đức Và Phước Đức,
Thượng tọa Thích Chân Tuệ có lời biện luận như sau:
Việc cất hàng
trăm ngôi chùa, độ Tăng chúng tu hành rất đông, thiết trai cúng dường, bố thí, đúc
chuông, tạo tượng, ấn tống kinh sách,… chỉ là những việc làm "bên
ngoài", có ích lợi cho mọi người, những việc làm cầu phước, nên gọi là phước
đức.
Phước đức có công năng giúp chúng ta giảm thiểu nghiệp chướng,
tiêu trừ quả báo, để được tai qua nạn khỏi, để được may mắn và sung sướng trên
đường đời, để bớt chướng ngại trên đường đạo, chứ không giúp chúng ta thoát ly
khỏi vòng trầm luân sinh tử.
Phước đức có tính cách "hữu lậu" hay "hữu
vi", nghĩa là con người hưởng phước vẫn còn trong lục đạo luân hồi. Khi thụ
hưởng hết phước rồi thì bị đọa lạc để đền trả quả báo.
Còn công đức là công phu tu tập "bên trong", có ích
lợi cho chính mình, nhờ hành trì theo lời Phật dạy trong các kinh điển, luôn
luôn niệm Phật, giữ gìn giới luật, tu tập thiền định, phát huy trí tuệ bát nhã.
Công đức có năng lực giúp chúng ta vượt qua bể khổ sông mê,
chóng đến bờ giác ngộ và giải thoát. Công đức có tính cách "vô lậu"
hay "vô vi", nghĩa là không còn trong lục đạo sinh tử luân hồi nữa.
Công đức giúp con người chuyển hóa tâm tính từ phàm phu tục tử trở thành bồ
tát, thành Phật.
Chúng
ta làm những việc như lập chùa hay góp phần xây cất chùa, tham gia phát triển
chùa, phát huy các sinh hoạt, các hoạt động của chùa, của giáo hội, giúp cho mọi
người khác có được cơ sở để tu học, để hành đạo, giúp cho Phật giáo có cơ hội
phát triển mạnh mẽ hơn, rộng rãi hơn, vững chắc hơn, độ được nhiều người hữu
duyên hơn nữa.
Những việc làm này đem lại lợi
ích cho nhiều người như vậy, tất nhiên sẽ đem lại cho chúng ta thực nhiều phước
đức.
Còn riêng bản thân mình thì
không biết tu tâm dưỡng tính, không học kinh điển, không biết trì giới, không
tu tập thiền định, không phát huy trí tuệ bát nhã, cho nên tất cả việc làm trên
đây chỉ là những việc làm bên ngoài, có ích lợi cho nhiều người, nhưng không
ích lợi cho bản thân mình về phương diện giác ngộ và giải thoát. Tại sao vậy?
Bởi vì, tâm tham lam, sân hận,
si mê bên trong chẳng những không giảm bớt mà lại có chiều hướng tăng thêm, vô
minh phiền não không tan biến chút nào mà lại có phần dầy đặc hơn.
Vì chấp chặt mình đã làm được
bao nhiêu việc ích lợi như vậy, dễ có mấy ai làm được như mình, nên tâm cống
cao ngã mạn, phách lối ngày một tăng thêm, mục hạ vô nhân, khen mình khinh
người.
Những việc làm khác như góp
phần ấn tống kinh sách cho người khác đọc, còn mình thì không đọc, góp phần bố
thí cúng dường, giúp đỡ người hoạn nạn, nghèo khó, nhưng không hiểu ý nghĩa cao
cả của những việc làm đó, lại sinh tâm cầu mong được "trả công bội
hậu" ở cõi thiên đàng sau này. Tất cả những việc làm đó chỉ tạo nên phước
đức mà thôi.
Thí dụ như có người bố thí cho
nhà nghèo, hoặc cúng chùa một số tiền nào đó, với tâm mong cầu được trúng số
độc đắc, được buôn may bán đắt, được nhất bản vạn lợi, được thi đâu đậu đó,
được gia đạo bình an, được tình duyên may mắn, được vạn sự bình yên, được muôn
sự như ý, muốn gì được nấy.
Như vậy, lòng tham lam tăng
thêm quá mức thì "làm sao có công đức được!". Làm như vậy, chỉ có phước
đức hạn chế theo số tiền đã bỏ ra mà thôi. Gieo nhân nhỏ thì chỉ nhận được quả
nhỏ, không thể khác được.
Nếu như bố thí, cúng dường mà
tâm không mong cầu gì cả, thi ân bất cầu báo đáp, cúng chùa để chùa có thêm
phương tiện sinh hoạt ích lợi cho mọi người, giúp người để cho người qua cơn
khó khăn, túng thiếu, không đắn đo, không suy nghĩ, không tính toán gì thêm
nữa, chúng ta sẽ bớt đi tâm tham lam, bỏn sẻn, tăng trưởng tứ vô lượng tâm: từ,
bi, hỷ, xả.
Như vậy, những việc làm đó vừa
ích lợi cho người, vừa ích lợi cho mình. Nghĩa là vừa được phước đức vừa được
công đức.
Chúng ta hãy tinh tấn làm tất
cả những việc thiện, rồi quên hết đi, không chấp chặt vào đó, để kể lể công
lao, hay mong cầu phước báo về sau, tâm cầu danh của chúng ta sẽ bớt đi, tâm
chấp ngã cũng nhẹ hơn trước, thì những việc làm đó vừa ích lợi cho người và cho
mình, tạo nên phước đức và công đức vậy.
…
Ở trên là những kiến giải của
sư thầy Thích Chân Tuệ về Công Đức, Phước Đức. Và đại chúng học Phật ngày nay
trói mình vào những kiến giải nông nổi, thiển cận như thế, thậm chí với người
học Phật tự ti quá mức sẽ không dám mơ có phần công đức, họ chỉ mong mỏi tích
góp phước đức cầu may. Họ quan niệm rằng công đức là quả lành của người xuất
gia, của giới Tăng Bảo. Người tại gia hùn được phước với nhà chùa đã là điều
may mắn lắm rồi.
Về công đức, phước đức giới
Tăng Bảo Việt Nam ngày nay đều có những luận giải dựa trên lối mòn vô minh sai
lạc cùng với việc chấp vá thêm những ngôn từ Phật học cao siêu khiến đại chúng
học Phật gần như bất khả tri. Và thực tế là chính giới Tăng Bảo ngày nay cũng
không thể hiểu chạm đến ngữ nghĩa của Công đức, Phước đức, họ có những lỗ hổng
tri kiến về công đức, phước đức mà chính họ cũng không thể lấp đầy. Do đó, việc
luận giải về Công đức, Phước đức của giới Tăng Bảo ngày nay phần đa chỉ là việc
“lừa người, dối mình”
Và giới Tăng Bảo ngày nay vì
không hiểu đúng về Công Đức, Phước Đức song lại rất cần tiền của, tài vật, danh
tiếng nên đã tìm cách xúi giục người học Phật khắp mọi nơi hùn phước với những hình
thức cúng dường y bát, xây chùa, đúc chuông, tạo tượng, ấn tống kinh Phật,
phóng sinh,… Từ lâu, trong giới học Phật vẫn thường thịnh hành câu truyền
miệng:
Xây chùa, tô
tượng, đúc chuông
Trong ba việc ấy
thập phương nên làm.
Người học Phật
ngày nay phần đa học Phật theo phong trào nên khó thể tránh khỏi việc bị tà sư,
Ma Tăng, yêu đạo dối lừa, mê hoặc.
Thậm chí ngay cả
giới Tăng Bảo xuất gia chân chính học Phật ngày nay cũng ngộ nhận sự chân ngụy,
chánh tà nơi đạo Pháp. Bởi do việc học Phật của giới Tăng bảo xuất gia ngày nay
chỉ dựa trên lý, chấp giữ sự hiểu biết trên văn tự cho rằng đã ngộ nhập tri
kiến Phật.
Nào hay do không
hạ thủ công phu theo đúng Bát chánh đạo, Tứ Diệu Đế nên giới Tăng Bảo ngày nay
phần đa không thực tu nên dẫn đến không việc thực chứng. Thế nên thay vì ngộ
nhập Phật tri kiến thì giới Tăng Bảo lại ngộ nhận Phật tri kiến. Và bệnh chứng
này hiện nay không chỉ phổ biến ở giới Tăng Bảo xuất gia mà còn rộng khắp ở
người học Phật tại gia tu học nửa vời.
Vì si mê mà
người học Phật ngày nay phần đa đều ăn nhầm bánh vẽ. Công đức hay Phước đức đều
là những chiếc bánh vẽ, Tham công đức hay tham phước đức thì cũng đều là Tham.
Có người si mê
gượng nói rằng dẫu Tham công đức hay Tham phước đức cũng đều là Tham nhưng chí
ít cái Tham đó là cái Tham thuộc về chánh pháp.
…
Chánh pháp nào
mà cần đến sự tham đắm, si mê.
Xây chùa, tô
tượng, đúc chuông đâu từng là di ngôn mà Phật Thích Ca nhắn nhủ người đời sau
ra sức. Việc xây chùa, tô tượng, đúc chuông,… là những chiêu trò bày vẽ của
người đời sau, đâu thể ép uổng rằng do Phật thuyết. Phật đâu từng màng đến chùa
to, Phật lớn, chuông rồng,… mà giáo lý chánh pháp lại mục rỗng, mai một.
Thế nào là công đức, thế nào
là phước đức?
Câu trả lời của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt
Ma đã rất rõ ràng: Thật không công đức!
Công đức đã không, Phước đức
đâu thể có.
Về sau, Vi Sử Quân đem tích cũ
Lương Võ Đế, Tổ Bồ Đề Đạt Ma hỏi Lục Tổ Huệ Năng, Lục Tổ Huệ Năng vì thương
tưởng đại chúng học Phật nhiều lầm mê thời xa xưa ấy đã “đao hạ lưu nhân” giữ
lại chút duyên lành bằng việc luận Công đức nhằm khai mở mắt huệ cho người học
Phật. Lời rằng:
“Công đức ở
trong Pháp Thân, chẳng ở tại tu phước. Kiến tánh là
công, bình đẳng là đức, niệm niệm vô ngại, thường thấy
cái diệu dụng chân thật của tự tánh gọi là công
đức. Trong tâm khiêm tốn là công, ngoài hành lễ phép là đức. Tự
tánh kiến lập vạn pháp là công, tâm thể lìa niệm là đức. Chẳng
rời tự tánh là công, ứng dụng vô nhiễm là đức. Muốn tìm
kiếm Pháp Thân của công đức, phải y theo đây thực
hành mới là chân công đức. Người tu hạnh công đức, tâm chẳng
khinh người, thường hành pháp cung kính. Tâm nếu khinh người,
nhân ngã chẳng dứt tức là chẳng công, tự mình hư vọng chẳng thật tức
là chẳng đức, vì ngã chấp quá lớn, nên thường khinh bỉ tất
cả. Thiện tri thức, niệm niệm chẳng gián đoạn là
công, tâm bình đẳng, hạnh ngay thẳng là đức. Tự tu tánh là
công, tự tu thân là đức. Thiện tri thức, công đức phải
do tự tánh tự thấy, chẳng phải bố thí cúng dường mà
cầu được, nên phước đức và công đức khác nhau là vậy”.
Do nhận biết người học Phật
đương thời năng tu phước, biếng lười tu huệ nên Lục Tổ Huệ Năng sách tấn người học
Phật chớ vọng ngoại cầu huyền mà hành trì nơi tự thân thâm đạt Phật đạo, tuệ
tri bừng sáng. Tuệ tri sáng suốt chính là công đức quyết định thành Phật vậy.
Tiếc thay! Người học Phật ngày
nay si mê thành tánh, ngộ nhận có Phước đức để thành, có công đức trổ quả. Học
Phật mà mê mờ chân ngụy như thế biết đến bao giờ người học Phật mới chứng ngộ
pháp vô sanh.
…
Người học Phật cả Tăng lẫn tục
ngày nay bảo nhau hùn tu phước đức, công đức gìn giữ cho đời sau.
Chẳng rõ chư Tăng Bảo và những
người học Phật khuyến khích hùn tu Phước đức, Công đức có biết rằng Công đức,
Phước đức sẽ được gìn giữ ở nơi đâu để những đời kiếp sau tái sinh thọ dụng hay
chăng?
Chư Tăng Bảo và người học Phật
ngày nay vẫn thường bảo nhau rằng “Chư Phật mười phương không ban phước, giáng
họa cho bất kỳ ai”. Lập ngôn này chẳng phải đã minh bạch rằng nếu chư Phật có
tồn tại ở dạng hữu hình thì cũng sẽ không ngồi đó chầu chực ghi điểm, cộng điểm
Công đức, Phước đức cho hằng hà sa số chúng sinh nơi Tam giới với hằng hà sa số
kiếp luân hồi.
Vậy ra chư Phật (nếu có tồn
tại theo lối quy ước người chứng ngộ giữ mãi Cái Thấy Biết Thường Hằng) sẽ
không làm việc ghi công, chấm điểm công đức, phước đức cho từng loài, cho mọi
loài.
Vậy ai sẽ ngồi cộng điểm Phước
đức, Công đức cho những chúng sinh ham hùn phước, tham công đức?
Chúng sinh nẻo Trời hay Diêm
vương hay Ông Táo ở chái bếp hiên sau? Vì sao họ lại đảm nhận việc làm vô vị
đó?
Đã thế kỷ 21 rồi, người học
Phật lẽ nào vẫn cứ trói mình vào những tri kiến mê lầm, mờ mịt.
Ơn Trên sẽ cộng điểm Phước
đức, Công đức cho người học Phật chăng?
Ơn Trên là ai trong các chủng
chúng sinh nơi 3 cõi 6 đường? Người học Phật mấy mươi năm về trước đã tiêm nhiễm
có Đấng Ơn Trên ở ngoại đạo và rồi dính mắc ở đấy mà không thể nhận diện được
Ơn Trên là ai, hiện hữu để làm gì?
Thực tế là không có một chủng
chúng sinh nào ở Pháp Giới Hữu Hình hay Pháp Giới Vô Hình đảm nhận việc ghi sổ,
cộng điểm Phước đức hay công đức cả.
Giáo lý Phật Thích Ca sáng rõ
với thuyết Duyên sinh được diễn giải nôm na là vạn pháp theo duyên sinh, theo
duyên mà diệt. Do đó, chẳng có bất kỳ ai, bất kỳ một Đấng nào đủ năng lực can
thiệp vào duyên sinh, duyên diệt của chúng sinh hay của vạn pháp nơi Tam giới.
Và người học Phật khách quan,
đúng mực đến với Phật Thích Ca sẽ biết rằng giáo lý Phật đà chỉ trình bày 2 vấn
đề chính yếu, đó là việc luân hồi và sự giải thoát.
Vậy Công đức, Phước đức phải
chăng là bánh vẽ? Công đức, Phước đức thật sự là gì?
Quan niệm Công đức, Phước đức
vốn là sản phẩm của ngoại đạo. Việc giao thoa tư tưởng ngoại đạo vào các hệ
thống tôn giáo là điều thường xuyên diễn ra trong lòng nhân loại. Và để hòa
nhập vào mọi vùng miền khác nhau, giáo lý đạo Phật đã dung hòa tư tưởng ngoại
đạo, đây là điều khó tránh khỏi.
Với người sáng suốt, người
chứng ngộ thì Pháp sẽ theo người. Do đó bằng vào tuệ tri bén nhạy người chứng
ngộ sẽ “hô biến” tà pháp thành chánh pháp với diệu dụng giúp chánh pháp phổ
truyền mà không làm mai một giá trị giác ngộ giải thoát hoàn toàn nơi đạo Phật.
Ngay cả khi Thái tử Tất Đạt Đa
chưa ra đời thì việc bố thí, cúng dường cho giới Tu sĩ đã là truyền thống của
người dân ở các nước quanh lưu vực sông Hằng. Bằng vào sự hiểu biết chân phương
người dân các nước quanh lưu vực sông Hằng tin rằng các vị Tu sĩ của bất kỳ tôn
giáo nào cũng đều là hiện thân của những vị Thần Linh, Tu sĩ là sứ giả của
những Đấng quyền năng tối thượng. Do đó, khi Thái tử Tất đạt đa xuất gia tu học
người dân ở những nơi Phật trú ngụ đều phát tâm cúng dường. Cho đến ngày Phật
thành đạo và thành lập giáo đoàn Khất sĩ, Tăng chúng đã thừa hưởng truyền thống
cúng dường của người dân các nước quanh lưu vực sông Hằng.
Việc cúng dường Tịnh xá, y
bát, vật thực ở giáo đoàn Khất sĩ về sau do các vị Sát Đế Lợi cũng như những vị
trưởng giả danh tiếng và người dân mến mộ đức độ và sở chứng uyên nguyên của
Phật, của giáo đoàn Khất sĩ mà ra sức.
Phật thừa nhận sự cúng dường
bởi đó là phương tiện độ Tăng, giềng mối xây dựng mạng mạch phổ truyền chánh pháp
đồng thời cũng là diệu pháp độ sinh của Phật đối với những người xả thí cúng
dường, đây là hạnh xả ly tâm bỏn sẻn, ích kỷ.
Phật Thích Ca nhập diệt, người
học Phật sáng lòng thời sau vẫn tiếp tục khuyến khích việc độ Tăng, chép kinh,
ấn tống kinh,… để gìn giữ giáo lý chánh pháp đồng thời là việc giúp đạo Phật
phổ truyền, giúp người người biết đến Phật pháp, giúp nhân sinh hành hạnh bố
thí, xả tâm bỏn sẻn, tham đắm.
Tiếc rằng, về sau do mê mờ
chân ngụy việc cất chùa, độ Tăng, bố thí, cúng dường, đúc chuông, tạo tượng, ấn
tống kinh sách,… đã bị lạm dùng. Chư Tăng Bảo, người học Phật vô minh đã ngỡ
rằng việc cất chùa, độ Tăng, bố thí, cúng dường, đúc chuông, tạo tượng, ấn tống
kinh sách,… sẽ tích lũy Công đức, Phước đức mà “bỏ hình, bắt bóng”.
Đến thời Lục Tổ Huệ Năng,
người học Phật ở cả Tăng lẫn tục tu phước thời nhiều, điều này đã dấy khởi nghi
tâm ở những người học Phật cấp tiến. Chính vì vậy Vi Sử Quân mới đem tích xưa
Lương Võ Đế nhờ Lục Tổ Huệ Năng biện giải cho rành rõ, Lục Tổ Huệ Năng đã
phương tiện khai mở mắt huệ cho người đương thời với ẩn ngôn Tuệ Tri Là Công
Đức giải thoát.
Tiếc thay! Người ngộ thời đã
ngộ, người mê thời cứ mê. Người học Phật lại chẳng biết Công đức, Phước đức đều
gìn giữ nơi tâm mỗi người. Công đức, Phước đức đều tùy tâm nơi mỗi người đủ
duyên thời hiển lộ.
Ngày nay, người học Phật tranh
nhau cúng dường hoa vì tin rằng cúng dường hoa kiếp sau sẽ xinh đẹp như hoa.
Lại có người học Phật tranh
nhau cúng bánh trái, nhang đèn, y bát, vật thực,… để mong đời sau no đủ, giàu
có.
Lại có người học Phật tranh
nhau cúng dường tượng Phật, ấn tống kinh Phật, đúc chuông,… để mong đời sau
vinh hiển, thông minh,…
…
Việc hùn đức, tu phước này lấy
ai ghi sổ, chấm công cho đời sau. Người học Phật không trau dồi huệ mạng - trí
tuệ - công đức, lại móng cầu phước đức mỏng mảnh như hạt sương mai. Ôi! Quả
mộng công đức, trái mơ phước báu thật rất đỗi hoang đường
Lẽ ra việc cất chùa, độ Tăng,
bố thí, cúng dường, đúc chuông, tạo tượng, ấn tống kinh sách,… là để giúp người
học Phật xả bỏ tâm tham đắm, bỏn sẻn, si mê,… giúp tấm lòng người học Phật ngày
càng trở nên phóng khoáng, trong sáng, thánh thiện.
Đằng này người học Phật ngày
nay do thiếu minh sư dẫn đường mà mê mờ chân ngụy, chánh tà, lạm dùng việc hùn
phước nhằm thỏa mãn tâm móng cầu tham đắm, thêm chất chồng nỗi vô minh. Chư
Tăng Bảo vô minh hám danh, tham lợi bỗng chốc trở thành những tà sư, Ma Tăng,
yêu đạo dìu dắt đại chúng học Phật sa lầy vào hầm sâu vô minh với đầy dẫy những
tri kiến mê lầm.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét