Giải Mã Đạo Phật 2.0_Tương Tác Phật Học Online
Thứ Tư, 12 tháng 6, 2019
Giải Mã Đạo Phật 2.0_Tương Tác Phật Học Online.
Giải mã đạo Phật, con gà
khi còn ở trong quả trứng, con gà sẽ không thể phác họa được quả trứng.
Giải mã đạo Phật là điều mà
người học Phật cũng như giới Tăng Bảo xuất gia không thể biện giải, không dễ
biện giải. Và nếu đứng trong hàng ngũ của giới xuất gia học Phật thì việc giải
mã đạo Phật dễ khiến người học Phật này mang điều tiếng phản đồ đạo Phật, là
chồn cáo núp bóng Phật môn.
Giải mã đạo Phật là việc
khó làm, việc làm đòi hỏi tuệ tri sáng suốt đủ để minh định chánh tà, chân ngụy
nơi pho Tam Tạng kinh, nơi Giác Giả Thích Ca, nơi đời và đạo với tri kiến vượt
thoát khỏi biên kiến đạo Phật, đời thường cùng với lối mòn nhị nguyên – vô minh
đối đãi.
Khi Ngạo Thuyết xác quyết
việc làm sáng rõ giá trị chánh pháp có nơi đạo Phật, Ngạo Thuyết sớm biết rằng
nhất thiết “Ngạo Thuyết phải đi trong phi đạo hành Phật đạo”.
Đã trải qua 8, 9 năm dài
cho việc giải mã đạo Phật đồng thời cũng là việc Ngạo Thuyết trả lại cho nhân
loại sự hiểu biết sáng rõ, khách quan, đúng mực. Thông qua nội dung bộ sách Sự
Hiểu Biết Làm Thay Đổi Nhận Thức, Giá Trị Con Người”, đặc biệt là quyển sách
Giải Mã Đạo Phật 1.0, Ngạo Thuyết đã từng bước vạch ra những hạn chế, những mê
lầm, những ngộ nhận hiện tồn nơi đạo Phật.
Việc nói gần rồi lại nói xa
về hiện tướng đạo Phật, hiện tướng Tăng Bảo ngày nay ở Việt Nam bấy lâu đã thể
hiện phần nào việc Ngạo Thuyết “đao hạ lưu nhân” cũng như sự trông chờ giới
Tăng bảo Việt Nam có thể sẽ có những tiến bộ nhất định, những biểu hiện khá
hơn.
Song trải qua 8, 9 năm dài
sự trông chờ cùng với những hiện tướng bẽ bàng của giới Tăng Bảo Việt Nam càng
khiến Ngạo Thuyết xác thực được rằng chờ đợi chân Sư xuất hiện nơi chốn Tòng
Lâm là điều vô vọng.
Ngạo Thuyết biết rằng nếu
không tháo gỡ những xiềng xích vô minh, những dây trói mê lầm nơi giới Tăng
Bảo, nơi đạo Phật thì việc học Phật cả Tăng lẫn tục ngày nay và mai này sẽ tiếp
tục đắm chìm, sẽ ngày càng lệch lạc. Con đường giác ngộ giải thoát hoàn toàn
ngày càng trở nên nghẽn lối, bít đường bởi chính do những người học Phật cả
Tăng lẫn tục vô tri, vô trí xưa nay gây ra.
Cách đây 9 năm Ngạo Thuyết
biết rằng Đảng cộng sản Việt Nam đã từng cài cắm hàng trăm đảng viên Đảng cộng
sản vào đạo Phật để đồng hóa, để thao túng hệ thống tôn giáo chính ở Việt Nam. Thế
nên Ngạo Thuyết xưa nay không để mắt đến sự hiện diện của GHPGVN, các vị chức
sắc hữu danh của đạo Phật cũng như những vị Tăng Bảo có vết tích quốc doanh mà
nhiều người gọi là Sư Cộng Sản. Vì sao? Vì Ngạo Thuyết biết rằng thành phần
Tăng Bảo này vốn không thật quy y Tam Bảo – Phật Pháp Tăng, họ là tín đồ thuần
thành của Đảng cộng sản, họ thật sự quy y ngoại đạo, họ chỉ là ngoại đạo giả
danh đạo Phật.
Ngạo Thuyết không quá bận
lòng về sự hiện diện của giới Tăng Bảo giả danh, thành phần chư Tăng mượn đạo,
tạo đời vì ngỡ rằng họ sẽ tuân thủ luật chơi, biết “Nước sông không phạm nước
giếng”. Việc núp bóng Phật môn thâu đoạt tài vật cho “vinh thân, phì gia” ít
nhiều gì cũng điều đáng thương xót đối với giới Tăng bảo vô minh, vô tri, vô
trí.
Song có một điều đáng tiếc
là giới Tăng Bảo quy y ngoại đạo này vì bởi tâm nông, trí cạn nên đã biến đạo
Phật thành một công cụ truyền bá tệ nạn xã hội, gây ra hàng loạt tệ nạn mê tín
dị đoan điển hình như Cầu an, Cầu siêu, Cúng sao, Giải Hạn, bày vẽ Tang lễ với
nhiều biến tướng ngõ hầu thu đoạt tài vật, tiền của ở đàn na tín thí, ở gia
quyến người mất… và việc vẽ vời ra Pháp Thỉnh Oan Gia Trái Chủ,… Những tà pháp
này là họa hại khôn lường đối với xã hội, đối với sự trong sáng, đúng mực của
đạo lý giác ngộ giải thoát. Đạo Phật hẳn sẽ vì những tà pháp này mà giá trị
chánh pháp bị mai một, nhạt nhòa.
Pháp Thỉnh Oan Gia Trái Chủ
do sư thầy Thích Trúc Thái Minh chế tác ra và ra sức khuếch trương ngõ hầu thu
gom tiền của, tài vật cũng như tín đồ Phật tử mê huyền, đắm diệu. Sư Thích Trúc
Thái Minh là môn hạ của sư ông Thích Thanh Từ, thuộc hệ phái Thiền Tông Trúc
Lâm. Vậy mà khi sư Thích Trúc Thái Minh thực hiện việc xây dựng, triển khai tà
pháp Pháp Thỉnh Oan Gia Trái Chủ gây nhiễu loạn sự tôn nghiêm, chân chính chốn
Thiền môn – Chư Tăng hệ phái Thiền Trúc Lâm không có lấy một lời đính chính,
phân giải, biện bạch sự sai trái ở pháp hành tà đạo của sư Thích Trúc Thái
Minh. Hiện tướng im lìm, đứng ngoài cuộc của chư Tăng hệ phái Thiền Tông Trúc
Lâm là một sự kỳ lạ. Việc làm này vô hình chung sẽ hợp thức hóa Pháp Thỉnh Oan
Gia Trái Chủ là một pháp hành mà hệ phái Thiền Tông Trúc Lâm thừa nhận.
Nhưng điều này thật sự
không thể đúng, Thiền Tông xưa nay không có chỗ dung dưỡng cho tà pháp Pháp
Thỉnh Oan Gia Trái Chủ hoành hành bá đạo. Nhìn lại hiện tướng chùa to, Phật lớn
cũng như việc dễ dàng dựng lên những tự viện xa hoa, tráng lệ ở hệ phái Thiền
Tông Trúc Lâm – Ngạo Thuyết chợt nhớ ra rằng “À! Hóa ra là vậy! Đạo Phật Việt
Nam đã từng bị Đảng cộng sản Việt Nam đồng hóa bằng GHPGVN với thành phần Đảng
viên cộng sản làm nòng cốt thì hệ phái Thiền Tông Trúc Lâm đâu thể có sự ngoại
lệ”.
Phật giáo Bắc Tông ở Việt
Nam đã vậy, do đó Phật giáo Nam Tông cũng như tất cả các chi nhánh, hệ phái đạo
Phật ở Việt Nam cũng đâu thể khác.
Nhìn giới Tăng bảo hữu danh
ở cả hai hệ phái Nam Tông – Bắc Tông với một sự khách quan, đúng mực và thẳng
thắn Ngạo Thuyết biết rằng đạo Phật Việt Nam chỉ mang danh nghĩa đạo Phật. Ngẫm
lại Ngạo Thuyết biết rằng đạo Phật Việt Nam (nói riêng), đạo Phật (nói chung)
từ lâu đã trở thành một công cụ quản giáo, một công cụ quản lý đất nước xã hội
con người của giới chính trị, của thành phần tôn giáo. Và với hiện tướng như
thế đạo Phật không còn là đạo Phật trong sáng, thuần khiết với chánh pháp giác
ngộ giải thoát đúng mực, sáng rõ.
Với những hiện tướng tệ hại
của giới Tăng Bảo cũng như đạo Phật ngày nay, Ngạo Thuyết biết rằng đã đến lúc
giải mã hoàn toàn đạo Phật và thế là Giải Mã Đạo Phật phiên bản 2.0 ra đời.
Người ta vẫn thường nói
rằng “Nói gần nói xa chẳng qua nói thật”. Thế nên, việc đầu tiên Ngạo Thuyết
cần xác lập đó là đạo Phật ngày nay vốn không còn là đạo Phật chánh thống,
không còn là đạo Phật trong sáng, thiết thực mà Phật Thích Ca trao truyền. Giới
Tăng Bảo ngày nay phần đa đều là thành phần ngoại đạo núp bóng dưới chiếc áo sa
môn, họ là tín đồ thuần thành, quy y ngoại đạo Đảng cộng sản Việt Nam.
Với lập luận này của Ngạo
Thuyết sẽ có người biện giải “Người học Phật ngày nay phải tự thắp đuốc mà đi,
người học Phật sẽ “Y pháp bất y nhân”. Nhưng tin rằng với đại đa số những người
lập ngôn như thế sẽ không thật rõ “Thế nào là y pháp, bất y nhân?”, có thể họ
sẽ lại bảo “Hãy tu đi, hãy hành đi rồi sẽ như người uống nước nóng lạnh tự biết.
Tuy nhiên, nếu tiếp tục hỏi “Tu gì? Hành gì?” thì họ sẽ bối rối, việc đối đáp tiếp
theo sẽ rất mơ hồ.
…
Từ xưa đến nay Phật – Giác
Giả sẽ không vì danh từ giả lập Phật – Giác Giả mà ra mặt ứng cơ, tiếp vật, tùy
nghi diễn nói chánh pháp.
Tuy nhiên, danh từ giả lập
Phật cũng là một pháp phương tiện mà Giác Giả tùy biến ưa dùng. Việc này phải
kể đến hành trạng của Phật Thích Ca. Sau ngày liễu ngộ vạn pháp, chứng ngộ pháp
vô sanh Phật đã thoát ra khỏi mọi khổ não vui buồn, hơn thua, được mất, chạm
đến sự an tịnh của việc chưa từng sinh ra – sự an tịnh tuyệt đối vi diệu.
Song lúc bấy giờ Phật vẫn
là một con người còn sống, Phật biết những người bạn, những người cầu đạo đang
lao nhọc tìm lối thoát nhằm thoát ra khỏi khổ não, luân hồi cũng như nỗ lực hợp
thể với Đấng quyền năng (Braham). Phật thấy chính mình ở những năm tháng gian
truân tìm đạo, Phật thương xót họ như thương xót chính mình. Những năm tháng
gian nan, vất vả cầu đạo, tìm đạo ùa về Phật biết rằng mình phải giúp họ, giúp
những người bạn, giúp những người tìm đạo, việc hướng dẫn họ cách thoát ra
những khổ đau cũng như việc luân hồi sinh tử.
Khởi từ tâm bi mẫn xót
thương những người mê đắm, Phật xác quyết việc dấn thân trao truyền chánh pháp
nhãn tạng Như Lai. Và thời điểm Phật Thích Ca tại thế vô minh then chốt của
nhân loại bị dính mắc ở duy tâm mà đặc biệt là việc Tiểu ngã (Atman) sống quy
thuận Đấng quyền năng để rồi chết có thể hợp thể với Braham vĩnh viễn.
Muốn dấn thân trao truyền
sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn rất cần đến sự chính danh. Người đời vô trí,
những kẻ học đạo mê mờ từ xưa đến nay luôn chấp tướng, Phật rõ biết điều đó,
Phật biết rằng với những người còn trong lưới vô minh “danh không chính thì
ngôn sẽ không thuận”. Do đó, Phật tìm đến năm người bạn đồng tu thuở trước xác
lập danh từ giả lập Phật, xác lập việc đã có một vị Phật ra đời.
Thế đấy, Phật ra đời không
vì danh, không vì lợi. Phật ra đời trong nhân loại vì sự mê đắm của muôn chúng
sinh nơi Tam giới, Phật ra đời vì sự phổ truyền chánh pháp giác ngộ giải thoát
hoàn toàn, cứu cánh cho nhân loại từ xưa đến nay và cả mai sau.
Kết quả của sự dấn thân
trao truyền chánh pháp được kết tập thành những bộ kinh nguyên thủy Nikaya.
Tiếp nhận, kế thừa và phát
triển từ giáo lý kinh điển nguyên thủy kết hợp với mặt bằng tri kiến xã hội
loài người không ngừng nâng lên, giáo lý đạo Phật cũng từng bước hoàn thiện,
nâng cấp cho hài hòa với tri thức chung của xã hội các tạng Kinh, Luật, Luận
ngày càng được chỉnh chu, thêm thắt. Vi Diệu Pháp, Kinh Mi tiên vấn đáp,… là
những bước chuyển tiếp để người học Phật có thể nhận diện được nguồn gốc, xuất
xứ của những bộ kinh điển phát triển đại thừa là sản phẩm của người học Phật
đời sau.
Trước sự bảo thủ, cực đoan
thủ cựu của thành phần Tăng lữ thuộc hệ phái Phật giáo Thượng Tọa Bộ từ thuở xa
xưa, đạo Phật ngày càng trở nên yếm thế trước sự phát triển ồ ạt, vũ bão của
ngoại đạo.
Phật giáo Thượng Tọa Bộ
nguyên thủy thuở xa xưa không chấp nhận giáo lý Phật học ngoài những bộ kinh
Nikaya, điều này đồng nghĩa người học Phật Thượng Tọa Bộ thuở xa xưa không chấp
nhận Tạng Vi Diệu Pháp, Kinh Mi tiên vấn đáp,…
Sự bó hẹp giáo lý kinh Phật
đã khiến đạo Phật đuối lý trong các cuộc tranh biện với các tôn giáo khác. Việc
này dẫn đến sự thất sủng của đạo Phật ở giới chính trị Sát đế lợi, đánh mất sự
hậu thuẫn từ giới Sát đế lợi, đạo Phật ngày càng trở nên manh mún, vụn vặt, số
lượng người học Phật, giáo đoàn khất sĩ rệu rã, thưa thớt là hiện tướng của sự
diệt vong đạo Phật.
Đạo Phật suy yếu bày ra
hiện tướng diệt vong phải kể đến sự phá hoại trường kỳ của ngoại đạo, điển hình
nhất là đạo Bà la môn. Sự khách quan, đúng mực và sáng rõ ở giáo lý đạo Phật vô
hình chung đã đập bể chén cơm của đạo Bà la môn, do đó giới Tăng lữ Bà la môn
đã “đặt để” đạo Phật vào vị trí là kẻ thù truyền kiếp và các vị Tăng lữ đạo Bà
la môn thường xuyên công kích, triệt tiêu đạo Phật khi có dịp.
Sau đó, Hồi giáo chiếm đóng
các nước quanh lưu vực sông Hằng với chiêu bài tiêu diệt dị giáo, đạo Phật gần
như bị tuyệt diệt ngay nơi mảnh đất mà đạo Phật đã ra đời.
…
Vào khoảng 300, 400 năm sau
ngày Phật Thích Ca nhập diệt, trước nguy cơ đạo Phật bị ngoại đạo triệt sát đã
có một sa môn nơi chốn Phật môn kế thừa giáo lý đạo Phật nguyên thủy, tiếp nhận
tri thức hệ phái Phật học phát triển và sự hiểu biết của xã hội loài người
đương thời cùng với việc hội tụ đủ mọi nhân duyên thù thắng phiền não – bồ đề,
vị hành giả này đã triệt ngộ Phật đạo, chứng đắc pháp vô sanh bất khả tư nghì.
Vị Giác giả này cũng nếm trải được dư vị đời sống của một người chưa từng sinh
ra, vượt thoát khỏi mọi khổ não hơn thua, được mất cũng như việc luân hồi đạt
sự an tịnh vi diệu.
Vị Giác Giả này vẫn là một
con người còn sống, là một chúng sinh đang sống kiếp cuối cùng nơi lưới mộng
luân hồi. Việc làm đã xong, tâm minh, trí sáng. Hiển nhiên là vị Giác Giả này
đối với Phật Thích Ca một lòng kính trọng và thâm tạ. Nhớ nghĩ đến Phật Thích
Ca, nhớ nghĩ đến tâm bi mẫn khôn cùng của tiền nhân, nhìn lại đạo Phật đang đến
hồi diệt vong vị Giác Giả thứ hai xác quyết việc dấn thân hoằng dương chánh
pháp.
Đạo Phật lúc bấy giờ rệu rã
với nguy cơ diệt vong, vị Giác Giả thứ hai trong nhân loại thổi vào đạo Phật
một luồng sinh khí mới. Do là một sa môn thông tuệ chốn Phật môn nên vị Giác
Giả thứ hai đã âm thầm phổ truyền giáo lý chánh pháp vào kinh điển đạo Phật
thông qua những bộ kinh phát triển đại thừa vào tri kiến Phật học của người học
Phật thuộc Phật giáo Đại Chúng Bộ.
Do tính khế hợp, khế cơ với
xã hội đương thời cùng với trí tuệ bát nhã thậm thâm ẩn tàng nơi những bộ kinh
Phật thuộc hệ phái phát triển vị Giác Giả thứ hai đã từng bước vực dậy một đạo
Phật đã rệu rã, suy tàn. Đạo Phật đã vãn hồi được vị thế trong lòng xã hội loài
người và Phật giáo Đại Chúng Bộ đã góp công rất lớn trong việc phổ truyền, lan
tỏa tri kiến Phật học ra phạm vi nhân loại.
Vị Giác Giả thứ hai đã thắp
sáng lại ngọn đuốc chánh pháp và góp phần giúp đạo Phật lan tỏa ở phạm vi thế
giới mà không cần đến danh từ giả lập Phật bởi lẽ vị Giác Giả này là sa môn, là
người hoằng pháp đạo Phật chính danh. Và việc cần làm của vị Giác Giả thứ hai
lúc bấy giờ là thổi một luồng sinh khí mới cho đạo Phật, giúp đạo Phật tránh
họa diệt vong.
…
Sự suy tàn của đạo Phật
trước sự chống phá, triệt sát của ngoại đạo Bà la môn, giới Tăng sĩ thuộc
Phật giáo Thượng Tọa Bộ không thể đương đầu dẫn đến nguy cơ diệt vong bởi do
tâm hạnh hẹp kém, hạ liệt, thủ cựu của người học Phật chưa ngộ, người học Phật
còn trong lưới vô minh.
Tuy nhiên, cho đến khi với
sự canh tân, đổi mới, sự phổ truyền kịp thời giáo lý Phật pháp phát triển của
vị Giác Giả thứ hai đã giúp Phật giáo Đại Chúng Bộ khôi phục lại vị thế đạo
Phật. Phật giáo Đại Chúng Bộ lúc bấy giờ tận lực phổ truyền giáo lý kinh Phật
phát triển nên được giới Sát đế lợi và xã hội trọng vọng, điều này đã khiến
Phật giáo Thượng Tọa Bộ mất mặt, cảm thấy rất bẽ bàng. Từ đấy dẫn đến các hệ
phái đạo Phật phân chia bỉ thử.
Và thói thường là vậy. Con
trâu buộc ghét con trâu ăn nên Phật giáo Thượng Tọa Bộ lấy tâm lượng hẹp hòi,
đố kỵ ra sức dèm pha, chê bai, kỳ thị Phật giáo Đại Chúng Bộ từ bấy đến nay. Để
công kích, chống phá Phật giáo Đại Chúng Bộ không là chánh tông Phật môn, Phật
giáo Thượng Tọa Bộ ra sức công kích kinh Phật phát triển không do Phật Thích Ca
tuyên thuyết. Và với tâm tánh hạ liệt, hẹp hòi của một thành phần người học
Phật xuất gia vô minh đã hun đúc, gìn giữ mối thù truyền kiếp giữa hệ phái Phật
học Nam Tông và Phật học Bắc Tông từ bấy đến nay.
Người học Phật vẫn thường
nói “Oan gia nên giải không nên kết”. Song mối oan gia giữa Phật giáo Nam Tông
và Bắc Tông vẫn được duy trì từ bấy đến nay, đấy chẳng phải là lý sự chẳng đồng
ở người học Phật hay sao?
Với nhiều người học Phật sẽ
cho rằng những lập luận của Ngạo Thuyết có phần khắt khe với Phật giáo Thượng
Tọa Bộ (thuở xưa) – Hệ phái PG Nam Tông (ngày nay). Chúng ta hãy nhìn vào hiện
tướng của đạo Phật ngày nay sẽ rõ có không việc kỳ thị, dè bĩu về chỗ chánh
tông Phật môn ở người học Phật Nam Tông đối với Phật giáo Bắc Tông.
Có một điều mà người học
Phật lẫn người đời thường hay ngộ nhận đó là có một sự mặc định âm thầm rằng
người học Phật là phải hiểu biết, phải ngộ; là Tăng Bảo sẽ phải thông suốt Phật
đạo, phải vượt thoát Tham Sân Si Mạn Nghi. Đây là một nhận thức sai lầm, một tư
duy nông nổi. Song có một sự thật luôn đúng là người học Phật tại gia hay Tăng
bảo đều là những con người bằng xương, bằng thịt. Và nếu không triệt ngộ, không
chứng đắc pháp vô sanh thì họ vẫn còn đó những Tham Sân Si Mạn Nghi đang điều
phục chưa rốt ráo.
Hiện tướng, cách hành xử
của giáo đoàn Phật giáo Thượng Tọa Bộ (thuở xưa) – PG Nam Tông (ngày nay) với
những thủ cựu, cực đoan đó thực sự là biểu hiện của người học Phật chưa ngộ,
việc học Phật trên lý, việc học Phật duy ý chí.
Tâm tánh hạ liệt, đố kỵ thể
hiện qua sự dè bĩu, kỳ thị PG Bắc Tông ở người học Phật hệ phái Nam Tông cho
thấy Tham Sân Si Mạn Nghi vẫn thường vẹn nguyên nơi người học Phật.
…
Những năm gần đây, Phật
giáo Bắc Tông chìm đắm ở các pháp hành ngoại đạo với những tệ nạn mê tín dị
đoan đã khiến người học Phật dần nhận ra sự hư dối của phần đa giới Tăng bảo
thuộc hệ phái Bắc Tông. Với nhân duyên đó người học Phật lần tìm về kinh điển
hệ phái Phật học nguyên thủy, Phật giáo Nam Tông vì thế dần có được chỗ đứng
trong lòng người học Phật. Song với những định kiến hẹp hòi, hạ liệt ở giới
Tăng bảo Nam Tông liệu người học Phật sẽ học hỏi được gì ngoài sự chê bai, kỳ
thị Phật giáo Bắc Tông?
…
Đạo Phật là đạo giác ngộ
giải thoát. Đạo Phật là đạo của sự hiểu biết sáng rõ, khách quan. Đạo Phật là
đạo của trí tuệ. Thế nên người học Phật lại chấp thủ chỉ có giáo lý kinh Nikaya
mới đúng là kinh Phật, chỉ có lời Phật Thích Ca mới mang lại sự giải thoát hoàn
toàn thì thật sự đã chìm đắm trong mê lầm.
Lẽ nào đạo Phật lại kinh sợ
sự hiểu biết? Lẽ nào đạo Phật lại là đạo kinh sợ việc chạm đến trí tuệ? Dường
như người học Phật hệ phái Nam Tông đang xây dựng một đạo Phật theo lối đóng
cửa sự hiểu biết khách quan, sáng rõ.
Hệ phái Phật giáo Nam Tông
đang có những dấu hiệu chuyển mình ngõ hầu giành lại niềm tin nơi tín đồ Phật
tử. Song Phật giáo Nam Tông cũng đã sớm là một công cụ quản lý của Đảng cộng
sản Việt Nam. Tin rằng những vị Tăng bảo cao niên ở hệ phái Phật giáo nguyên
thủy khả dĩ còn giữ được ít nhiều sự độc lập tông môn, còn giới Tăng sĩ trẻ Nam
Tông hẳn sẽ thuần quy y ngoại đạo, là sa môn nghĩa học, là môn đồ tri giải hữu
danh.
…
Đạo Phật ngày nay đã lan
rộng ở phạm vi thế giới, song giá trị chánh pháp ẩn tàng nơi đạo Phật ngày càng
thêm nhạt nhòa, mai một. Và chính giới Tăng bảo thượng thủ ở khắp mọi nơi trên
thế giới lại là thành phần người học Phật hủy hoại sự khách quan, sáng rõ nơi
đạo Phật. Do bởi thành phần Tăng bảo thượng thủ là ngoại đạo núp bóng đạo Phật,
là Tăng bảo quy y ngoại đạo nên họ từng bước gieo rắc những tệ nạn mê tín dị
đoan vào đạo Phật để gồm thâu lợi dưỡng, lợi danh.
Đạo Phật bị tha hóa, suy
đồi bởi chính những người học Phật vô minh, vô tri, vô trí.
Tại sao đạo Phật ngày càng
lan tỏa khắp thế giới?
Vì bởi khổ đau, phiền não
nơi xã hội loài người không ngừng gia tăng. Và những khi đó con người tìm đến
các hệ thống tôn giáo. Và con người không chỉ tìm đến đạo Phật mà còn tìm đến
Ấn Độ Giáo, Hồi Giáo, Công Giáo, Do Thái Giáo,… Tuy nhiên, những scandal mà Đức
Giáo Hoàng, những giám mục, những vị Hồng Y về lạm dụng tình dục, vấn nạn ấu
dâm ở các hệ thống tôn giáo Nhất Thần Giáo; Việc thảm sát dị giáo của Hồi
giáo,… đã khiến niềm tin tâm linh của con người đòi hỏi đến sự tham gia của trí
tuệ.
Từ đó, số người tìm đến tôn
giáo hướng về đạo Phật ngày một nhiều hơn. Khác với giáo lý có tính trói buộc,
áp đặt ở các tôn giáo khác, kinh sách đạo Phật chứa đựng sự hiểu biết cởi mở,
khách quan hơn. Phật thuyết “Hãy tự thắp đuốc mà đi” cho thấy rằng người tìm về
đạo Phật rất cần đến sự hiểu biết cùng trí tuệ quán chiếu. Chính vì lẽ đó đạo
Phật được nhân loại, người học đạo tin nhận và tiến đến việc quy thuận.
Đạo Phật ngày nay hiện
tướng phát triển rộng khắp nhưng cũng dần phơi bày ra những hạn chế, khiếm
khuyết. Giới ngoại đạo giả danh Tăng bảo năng thuyết bất năng hành vẫn còn đó
vẹn nguyên những Tham Sân Si Mạn Nghi cùng lợi dưỡng, lợi danh vương giả. Người
học Phật vô minh cả Tăng lẫn tục vẫn tán dương, ca tụng đạo Phật song họ không
sống thành thật đúng theo chánh pháp có nơi đạo Phật.
Hiện tướng Tăng phạm giới,
Tăng bảo sa đọa đâu khác gì so với giới chức sắc ở các hệ thống Nhất Thần Giáo,
niềm tin người học Phật khắp mọi nơi trên thế giới từng bước lung lay. Thế giới
tâm linh trong lòng nhân loại ngày càng nhiễu loạn hỗn độn, lối sống thực dụng
xâm thực khiến xã hội loài người ngày càng trở nên đau khổ, lầm than, oán khí
ngút trời. Trái đất nóng lên, băng tan chảy, chiến tranh, xung đột vũ trang triền
miên khiến loài người sống trong hận thù vay trả với đầy máu, nước mắt và mạng
sống đồng loại.
Sự sống nơi hành tinh xanh
kêu gào, khắc khoải những đớn đau, hờn oán. Lối thoát nào cho nhân loại, cho sự
sống nơi hành tinh xanh?
Giáo lý kinh sách ở các hệ
thống tôn giáo Nhất Thần Giáo, Ấn Độ Giáo, Kỳ Na Giáo không mang lại cứu cánh
an toàn, bình yên cho nhân loại. Chỉ có đạo Phật làm sáng rõ giáo lý chánh pháp
mới là cứu cánh giúp xã hội loài người sống chậm lại, văn minh hơn, tiến bộ
hơn.
Quy luật nhân quả nghiệp
báo, quy luật vận hành luân hồi sinh tử cũng như cách thức giải thoát hoàn toàn
cần được minh định sáng rõ, khách quan, đúng mực. Đây là việc làm thiết thực mà
người chứng ngộ phải ra sức. Và đấy cũng gần như là trách nhiệm truyền thừa mà
người chứng ngộ vô sanh với tâm hạnh đại thừa phải ra sức hoàn mãn. Sau cùng sự
khách quan, minh bạch, đúng mực của giáo lý giác ngộ giải thoát sẽ được người
chứng ngộ trao trả cho nhân loại bằng diệu pháp Phật Di Lặc Hạ Sanh Với Thiên
Bá Ức Hóa Thân, đây chính là những người học Phật có đạo tâm hiện tồn khắp mọi
nơi trên thế giới.
…
Khác với thời điểm vị Giác
Giả thứ hai tại thế, thời điểm đó đạo Phật bị ngoại đạo tận diệt đến mức hiện
tướng diệt vong. Và khi ấy, với vai trò một vị sa môn thượng thủ vị Giác Giả
thứ hai đã ra sức rộng truyền những bộ kinh Phật phát triển và làm hồi sinh đạo
Phật trước viễn cảnh suy tàn, cứu nguy cho đạo Phật thoát khỏi sự diệt vong,
hủy giáo.
Ở thời điểm hiện tại, cơ hồ
như đạo Phật đang hiện tướng phát triển hưng thịnh, song sự thật là đạo Phật
đang mục rỗng, thối nát từ bên trong. Đạo Phật hiện tại chỉ hữu danh, vô thực
bởi thành phần Tăng bảo nòng cốt của đạo Phật là ngoại đạo giả danh sa môn.
Và với sự xâm thực sâu rộng
của dị giáo trong lòng đạo Phật, người chứng ngộ sẽ không thể ẩn mình nơi đạo
Phật ra sức hoằng dương chánh pháp bởi điều tiếng phản đồ đạo Phật sẽ sớm bị
quy chụp. Hơn nữa, việc hoằng dương chánh pháp từ bên trong đạo Phật sẽ gặp rất
nhiều hạn chế bởi biên kiến đạo Phật. Do hạn cuộc ở đạo Phật, người chứng ngộ
sẽ khó thể làm bừng sáng ngọn đuốc chánh pháp ở phạm vi nhân loại, ở cả hai lối
đạo đời.
Chính vì vậy, ở bối cảnh
hiện tại người chứng ngộ sẽ bước ra ngoài đạo Phật để giải mã đạo Phật. Giáo lý
chánh pháp nhãn tạng Như Lai cần phải rộng truyền vào nhân loại, chiếc áo đạo
Phật đang ngày càng bó hẹp không dung chứa nổi giáo lý giác ngộ giải thoát hoàn
toàn. Và nhân loại ngày nay thật sự rất cần đến giáo lý chánh pháp đúng mực,
khách quan và sáng rõ. Nói một cách khác là đạo Phật đã đến lúc cần đến sự giải
mã rốt ráo, giải mã đến tột cùng của sự viên dung.
…
Tương tự như trường hợp
Phật Thích Ca, việc giải mã đạo Phật đòi hỏi sự chính danh. Tuy nhiên, người ở
trong đạo Phật không thể giải mã đạo Phật cũng như con gà còn trong quả trứng
chẳng thể vẽ được quả trứng gà. Thế nên Ngạo Thuyết đã bày phương tiện về sự ra
đời của vị giả Phật Ngạo Thuyết.
Và khác với thời điểm Phật
Thích Ca tại thế, thời điểm phần đa loài người tin nhận sự tồn tại của thế giới
tâm linh, sự hiện hữu các cõi giới vô hình. Đại đa số nhân loại ngày nay dính
mắc vào quan niệm Chết Là Hết của chủ thuyết duy vật vô thần và khoa học. Chính
do lầm tin vào Đoạn Kiến mê lầm mà xã hội loài người ngày càng trầm luân vào
lối sống thực dụng với tâm bão của lòng tham và sự ích kỷ.
Việc người sáng tỏ chánh
pháp nhãn tạng Như Lai cần làm hiện nay chính là chỉ ra, là vạch rõ những vô
minh then chốt mà nhân loại đang vướng mắc. Đồng thời người chứng ngộ phải minh
định được sự chánh tà, chân ngụy nơi giáo lý kinh điển Phật môn cũng như những
lầm lạc, ngộ nhận hiện tồn nơi đạo Phật.
…
Một lần nữa bằng vào sự
chân thành, thẳng thắn Ngạo Thuyết nhắc lại rằng đạo Phật là đạo của sự hiểu
biết, đạo Phật là đạo của trí tuệ. Chính vì lẽ đó người học Phật đừng cạn nghĩ,
đừng cả tin mà hãy dùng trí tuệ của tự thân, tham khảo sự hiểu biết ở thiện tri
thức ngõ hầu trạch pháp nhằm tránh lạc vào đường tà, lối rẽ với nặng oằn những
khổ đau, phiền muộn.
Định kiến chấp thủ chánh
tông Phật môn ở người học Phật Nam Tông cần được tháo gỡ. Người học Phật Tịnh
Độ Tông cần đến với đạo Phật bằng trí tuệ hơn là bằng vào sự cả tin vào Lục Tư
Di Đà – Nam Mô A Di Đà Phật. Người học Phật Mật Tông cần phải thấu đáo sự thật
là Phật luôn thuyết pháp với một bàn tay mở thì làm gì có việc giấu giấu, diếm
diếm Mật truyền. Người học Phật Thiền Tông hãy nên bỏ ngay định kiến không cần
đến việc tham cứu kinh sách bởi luận thuyết cho rằng mỗi người vốn tự đầy đủ,
việc quay vào bên trong để mở quyển Kinh Vô Tự nơi mỗi người. Những tri kiến
chế định đó là lời của những người mê, họ không thực sự thông suốt sự giác ngộ
giải thoát nên không thể chỉ bày rành rõ sự giải thoát hoàn toàn.
Lập ngôn lời nói không thể
diễn nói tận cùng sự chứng ngộ, sự giải thoát hoàn toàn là lời nói chứa đựng sự
lỗi lầm. Thật ra người chứng ngộ liễu thông vạn pháp không có điều chướng ngại
trong việc diễn nói, có chăng là người đến tham học tri kiến cạn cợt, tấm lòng
hẹp lượng không đủ tuệ tri để lĩnh hội những điều mà người chứng ngộ trình bày.
…
Vì sao loài người và muôn
vật cứ mãi trôi lăn trong lục đạo luân hồi?
Vì chúng sinh 3 cõi ham
tiếc sinh tử nên chẳng dễ vượt thoát sinh tử. Do ham sống, sợ chết nên dính mắc
nhân ngã mà trôi lăn nơi 3 cõi 6 đường.
Việc chứng ngộ ở người giải
thoát hoàn toàn chính là sự chứng ngộ pháp vô sanh. Và khi chứng ngộ pháp vô
sanh và xác quyết việc liễu thoát sinh tử Hành Giả vẫn sẽ phải sống hết kiếp
cuối cùng nơi đời mộng. Do đó, người chứng ngộ thâm nhập vào pháp vô sanh mà
không còn trôi lăn nơi sinh tử luân hồi với vô vàn nhân vay, quả trả.
Và để làm được điều này,
việc đắc pháp vô sanh thì vị hành giả đó phải phá ngã thành công tức là lìa
ngã, vô ngã và ngã sở. Đây hẳn là điều mà phần đa người học Phật tham cứu đến
sẽ ngẩn ngơ, bối rối. Pháp vô sanh cũng như đây là kiếp sống cuối cùng của người
chứng ngộ phần nào sẽ trả lời cho người muốn liễu thoát sinh tử luân hồi.
…
Người học Phật Thiền Tông
ngày nay dễ thường nhiễm bệnh chứng tự đầy đủ, không cần tham cứu kinh sách
Phật học, hãy nhìn vào bên trong để thấy ông Phật trong chính ta.
Thật ra pháp phương tiện
này được các vị danh sư hành giả Thiền Tông xưa ưa dùng khi nhận biết rằng
người đến tham bái học Phật trên lý, như trùng đục gỗ, cứ hì hục, cắm đầu
nghiền ngẫm kinh sách mà không lắng tâm ngõ hầu “nước trong, trăng hiện”. Do
đó, giả pháp đoạn tham cứu kinh sách được lập ra, và pháp phương tiện này
thường dùng cho những người tham cứu kinh sách quá nhiều, nhiều đến mức dư
thừa.
Ngày nay, người học Phật
Thiền Tông lạm dùng giả pháp đoạn tham cứu kinh sách ở người học Phật một cách
vội vàng là một việc làm lầm lỗi. Đạo Phật là đạo trí tuệ thế nên người học
Phật chớ vội cự tuyệt sự hiểu biết về chánh pháp giác ngộ giải thoát. Có câu
“Lý thông, sự đầy”, thế nên nếu tri kiến học Phật chưa đủ, lý hãy còn mờ mịt,
lại đắm mình hành trì hạ thủ công phu theo lối như trùng đục gỗ kèm với sự móng
cầu chứng đắc thì việc rơi vào ma đạo là điều khó thể tránh khỏi.
…
Người học Phật nếu muốn
thông hiểu việc giải mã đạo Phật một cách đầy đủ rất nên tham khảo Giải Mã Đạo
Phật 1.0 với 16 bài thoại làm nền tảng:
1) Giải
Mã Đạo Phật
2) Phương
Tây Khám Phá Đạo Phật
3) Phương
Đông Hủy Diệt Đạo Phật
4) Chân
Kinh, Ngụy Kinh – Những Điều Cần Biết
5) Giác
Giả Thích Ca Ra Đời Là Điều Tất Yếu
6) Chọn
Lựa Tích Cực Của Phật Thích Ca Ngay Sau Ngày Thành Đạo
7) Khai
Quan Điểm Nhãn
8) Phác
Họa Chân Dung Giác Giả Thích Ca
9) Diệu
Ý Như Lai
10)Tam
Tạng Kinh Do Ai Thuyết
11)Hóa
Giải Thâm Cừu Giữa Các Hệ Phái Đạo Phật
12)Một
Vài Nguyên Nhân Khiến Đạo Phật Bị Lu Mờ
13)Huyền
Môn Và Đạo Phật
14)Bồ
Tát Và Thanh Văn
16)Chọn
Lựa Của Nhân Loại
P/S: Bài viết tiếp theo – Sự Thật Về Tam Minh, Lục Thông Của Phật Thích
Ca.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét