Nghiệp Báo Và Duyên_Giải Mã Đạo Phật 2.0
Thứ Sáu, 21 tháng 6, 2019
Nghiệp Báo và Duyên
Người học Phật
mấy ai lại không tin nhân quả luân hồi. Do vậy giới Tăng Bảo xưa nay có ai
không nói đến nhân quả nghiệp báo, thậm chí rất nhiều người còn khẳng định rằng
nhân đã gieo, quả ắt sẽ trổ, nếu chưa thấy quả trổ thì chỉ là chưa đến lúc mà
thôi.
Song khi có
người vấn hỏi việc luân hồi nhân quả vận hành ra sao thì gần như phần đa (nếu
không muốn nói rằng tất cả) người học Phật cả Tăng lẫn tục đều ngớ người ra và
không thể trả lời rành rõ những câu hỏi có tính xác thực sự đúng mực của chánh
pháp Phật môn.
Đã trải qua hơn
2550 năm kể từ khi người học Phật tiếp nhận giáo lý chánh pháp do Phật Thích Ca
dấn thân trao truyền mà người học Phật vẫn không thể sáng rõ quy luật vận hành
của nhân quả luân hồi. Tam Tạng giáo điển ngày càng trở nên thô ráp, giáo điều
và dần mất hẳn sự khả dụng cùng tính thiết thực. Đây quả thật là sự thất bại,
sự thụt lùi của việc phổ truyền giáo lý chánh pháp ở người học Phật ngày nay.
Công đức, phước
đức đã bị ngộ nhận, người học Phật không hiểu đúng chánh pháp, lộng giả thành
chân, vọng ngoại cầu huyền nên đã biến đạo Phật thành một công cụ truyền bá
những điều mê tín dị đoan, những niềm tin tâm linh hoang đường cùng sự giả dối.
Lẽ ra những việc
cất chùa, độ Tăng, bố thí, cúng dường, ấn tống kinh Phật,… sẽ giúp người học
Phật biết đến chánh pháp, học hỏi chánh pháp và sống tùy thuận theo chánh pháp,
từ đó ngày càng giảm trừ Tham Sân Si Mạn Nghi.
Song do hiểu sai
dụng tâm bi mẫn của Phật, của người xưa, những cái bánh vẽ công đức, phước đức,
sự chứng ngộ, quả giải thoát,… đã được tô vẽ rất đẹp đẽ, rất hào nhoáng, rất hấp
dẫn,… những hiểu biết sai lạc, những ngộ nhận về tri kiến Phật học này đã khiến
người học Phật ngày càng xa rời chánh đạo, chìm đắm trong sự móng cầu, tham
lam, ích kỷ, tự tư, tự lợi và thêm dày nỗi vô minh.
Người học Phật
cả Tăng lẫn tục vẫn luôn rao giảng Bát chánh đạo, Tứ diệu đế song tất cả chỉ
dừng lại ở nơi đầu môi, chót lưỡi.
Tất cả những
ngôn thuyết, những pháp hành mang tính giáo điều răn dạy sau rốt cũng chỉ là
những chiếc bánh vẽ bởi do người học Phật ngày nay phần đa vẫn năng thuyết, bất
năng hành,…
Ngoài ra, người
học Phật dẫu có tập tành làm hành nhân thì việc hành trì cũng không chạm đến sự
rốt ráo, sự tận cùng của việc giác ngộ giải thoát. Đa số hành nhân Phật học chỉ
vỡ ra được chút ít tri kiến lập tri thì đã vội ngỡ rằng đã chứng ngộ, đã thực
biết, thực thấy.
Do vội vàng
trong việc xác thực việc chứng ngộ mà phần đa hành nhân chốn Phật môn ngày nay
khi hiện tướng cũng chỉ phơi bày ra những người học Phật còn trong lưới vô minh
với đầy đủ Tham Sân Si Mạn Nghi ở một hình thức khác, có thể vi tế hơn hoặc thô
thiển hơn.
…
Chính vì người
học Phật không thật sự có chánh kiến, chánh tư duy, chánh nhận thức về giáo lý,
về giá trị chánh pháp ẩn tàng nơi đạo Phật. Do đó Tam Tạng kinh chỉ còn là
những lời hay ý đẹp nặng tính răn dạy giáo điều, việc bất khả tri dẫn đến sự
bất khả thi.
Công đức, phước
đức của việc cất chùa, tô tượng, đúc chuông, độ Tăng, bố thí, cúng dường,… sau
rốt có giá trị gì?
Quả thật là sẽ
không có một ai rảnh rỗi hay nông nổi đảm nhận việc ghi sổ, cộng điểm những
việc làm tích góp công đức, phước đức, thiện nghiệp hay ác nghiệp của muôn
chúng sinh nơi Tam giới cả. Mọi việc làm tốt xấu, thiện ác, đúng sai,… chỉ lưu
giữ nơi tiềm thức (tàng thức) của mỗi người, của mỗi chúng sinh từng liên hệ
với việc tạo tác. Và Phật đã gọi đó là Hành Nghiệp ở mỗi chúng sinh.
Có thể nói Hành
Nghiệp ở mỗi người sẽ là Nhân, gặp Duyên hội tụ Hành Nghiệp sẽ trổ Quả, Quả còn
được gọi là Nghiệp Báo.
Thật vậy, những
việc cất chùa, tô tượng, đúc chuông, độ Tăng, bố thí, cúng dường,… cùng với tất
cả những việc mà con người đã làm, đang làm, sẽ làm trong đời sống hàng ngày
đều sẽ huân tập thành tánh hạnh tích lũy cũng như lưu giữ trong tàng thức của
mỗi người. Đây cũng là Hành Nghiệp mà mỗi người đã tự kiến tạo nên trên nền
tảng vô minh.
Với những người
thường làm những việc tốt, những việc lợi ích cho mọi người, mọi loài như việc
bố thí, cúng dường, độ Tăng, ấn tống kinh Phật,… họ làm việc tùy tâm khởi từ sự
yêu thương, từ bi, bác ái,… đây là những việc làm góp phần xây dựng những tánh
hạnh tốt, nhân cách tốt, phẩm hạnh tốt. Có thể nói đây là việc tự tu tánh là
công, tự tu tâm là đức – Là không tu mà tu, tu mà không tu. Sự khách quan hành
pháp Từ Bi Hỷ Xả sẽ giúp đời sống của người này thường tiếp xúc với những niềm
vui cùng sự hạnh phúc nơi đời thường.
Và đến khi họ
chết đi, tàng thức của họ vẫn gìn giữ những tánh hạnh tốt đẹp. Với Hành Nghiệp
thiện lương, thánh thiện như thế và nếu họ không mê đắm những sự thần biến, ảo
hóa ở các nẻo giới vô hình thì người này sẽ sớm tái sinh ở nẻo người bởi do sự
tương hợp về tần số rung cảm với những điều thân thuộc.
Khi tái sinh lại
kiếp người, thông thường mọi chúng sinh đều sẽ sinh ra ở những nơi chốn quen
thuộc và tánh hạnh tốt đẹp đã huân tập từ tiền kiếp ở người đó sẽ sớm biểu hiện
ra bên ngoài. Sự thể hiện đời sống phẩm hạnh, có nhân cách tốt từ bé thì hẳn là
người đó sẽ nhận được sự thương yêu, đùm bọc của mọi người xung quanh. Khi tánh
hạnh đã sẵn tốt, lại được sống trong tình yêu thương cùng với môi trường thuận
lợi người đó càng có nhiều cơ may để phát triển, để tiến bộ, để ngày càng trở
nên tốt hơn. Đây là Nghiệp báo, là Quả trổ cho những Hành Nghiệp (Nhân đã
gieo).
Và người đời do
không hiểu rõ nên vẫn thường cho rằng đó là Phước Báo của đời trước mang lại.
Tuy nhiên, Phước vẫn thường liền kề với Họa.
Do đó, có biết
bao người ở nơi tận cùng của Phước Báo, của những Tánh hạnh tốt đẹp đã sa ngã,
đọa lạc vào những thói hư, tật xấu dần tích lũy những Tánh hạnh xấu xa, tệ bạc
và rồi từng bước chìm đắm vào những nẻo tối nơi Lục đạo luân hồi.
Quy luật vận
hành của nhân quả luân hồi luôn là vậy. Quy luật luân hồi có thể ví như là dòng
sông với những con nước lớn, nước ròng. Do đó, nếu không liễu thoát khỏi sinh
tử thì chúng sinh nơi Tam giới sẽ nhào lên, lộn xuống theo quy luật vận hành
của sinh tử luân hồi, nghiệp báo trả vay.
Với những người
thường làm những việc tốt, những việc lợi ích cho mọi người, mọi loài như việc
bố thí, cúng dường, độ Tăng, ấn tống kinh Phật,… nhưng việc làm dựa trên sự
toan tính vọng cầu phước báu, công đức, việc ra sức làm là vì nghe theo lời
người khác xúi giục chứ không phát khởi từ tâm bi mẫn, xả ly thì Hành Nghiệp đã
có sự sai khác ít nhiều.
Đi sâu vào quán
chiếu Hành Nghiệp của người này sẽ thấy rằng đây là biểu hiện của việc tu tướng
chứ không là việc tự tu tâm, tu tánh.
Do việc làm dựa
trên sự móng cầu, song quả đâu dễ liền trổ mà phải cần đến việc đủ duyên. Thế
nên, ngay hiện đời nếu duyên chưa hội tụ quả móng cầu chưa trổ dễ khiến người
này thất vọng, chán chường và nếu việc móng cầu thái quá mà mãi không được việc
đôi khi người đó sẽ trở nên sân hận, si mê chửi Phật, mắng Trời. Vậy sau rốt do
tâm tham cầu, si mê hư vọng về việc nhân quả mà người này ươm mầm và gặt hái
phiền não, khổ đau cùng với sự đọa lạc.
Người học Phật
ngày nay do cả tin vào lời chư Tăng, lời bạn đạo,… tham đắm tu phước, biếng
lười tu huệ nên phần đa tu tướng thời nhiều. Do mê đắm tu phước nên người học
Phật phát tâm cúng dường y bát, vật thực, phóng sinh,… lòng thầm mong sớm sinh
quý tử, thi đậu tốt nghiệp, trúng số độc đắc, trúng lô đề, thắng cá độ,…
Và kết quả lại
chẳng được như ý, đời sống ngày càng trượt dốc,… phiền não chất chồng ngày càng
nhiều thêm và rồi trách rằng Trời Phật chẳng linh thiêng. Với đạo Phật ngày
nay, những trường hợp người học Phật vọng cầu như thế quả thật là không hề
hiếm.
Kết quả là lẽ ra
đến với đạo Phật tâm tánh, đức hạnh ngày càng tốt lên thì người học Phật lại
ngày càng u mê, tham đắm, tâm địa ngày càng hẹp hòi, ích kỷ, thêm phần xấu xa.
Vậy lẽ nào việc
bố thí, cúng dường, độ Tăng, ấn tống kinh Phật,… của những người tu phước sẽ
trở thành công cốc, nhân có gieo nhưng quả không trổ?
Thật ra ngay cả
với người ra sức làm việc tốt rồi cố gắng ghi nhớ những việc tốt đã làm ngõ hầu
chờ đợi quả trổ theo vọng cầu thì những việc làm tốt cũng đã lưu trong tàng
thức của họ.
Dẫu rằng khi quả
chưa trổ họ nặng oằn với những công trạng đã làm, nặng oằn với những phiền não
do sự bất toại ý từ việc móng cầu mang lại thì ẩn sâu trong tâm thức họ, họ
biết họ đã từng làm việc tốt, họ biết đó là những việc tốt. Những Hành Nghiệp
sâu kín, ẩn vi này đã được ươm mầm.
Và đến một lúc
nào đó những hạt mầm tốt đẹp đó sẽ trổ ra những tánh hạnh tốt, lưu xuất việc tu
tâm, tu tánh ở những người vốn từng chỉ biết tu tướng, tu phước. Có thể điều đó
trổ ở hiện kiếp hoặc không kịp trổ nơi hiện kiếp mà là ở những kiếp liền kề.
Tương tự như
vậy, việc bố thí, cúng dường, độ Tăng, ấn tống kinh Phật, phóng sinh… nhằm thỏa
tâm móng cầu không nhất thiết phải trổ quả ngay lập tức. Phàm việc gì cũng cần
hội đủ nhân duyên, chứ đâu thể hễ cầu là liền được.
Người học Phật
có chánh kiến, chánh tư duy khá nên suy xét về việc Nhân Quả luôn luôn có sự
hiện hữu của yếu tố Duyên. Duyên chính là một mắc xích không thể thiếu trong sự
vận hành của quy luật Nhân Quả luân hồi.
Và thực tế là sẽ
không có một Đấng thần linh hay trời Phật nào đủ năng lực nhúng tay can thiệp
vào sự vận hành của Nhân Quả, Duyên Nghiệp. Tất cả chỉ là sự khế hợp, sự tùy
thời.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét