Phật Đã Thành Sẽ Như Thế Nào_Giải Mã Đạo Phật 2.0
Thứ Bảy, 8 tháng 6, 2019
Phật Đã Thành Sẽ Như Thế Nào?
Số lượng người
tìm đến đạo Phật ngày nay có thể khẳng định là rất nhiều và không ngừng tăng
nhanh. Bởi do giáo lý nơi Tam Tạng kinh vi diệu, thậm thâm và rất xác thực, rất
đáng tin cậy. Giáo lý kinh điển Phật môn rất đặc thù và chứa đựng sự hiểu biết
đúng mực, khách quan, trong sáng. Đây là sự khác biệt và cũng là sự vượt trội
của đạo Phật so với giáo lý, kinh sách của các hệ thống tôn giáo hiện tồn trên
thế giới.
Chính
vì vậy nên không phải ngẫu nhiên hay tùy tiện mà nhà bác học trứ danh Albert Einstein (A-bớt
Anh-xtanh) phải xác thực rằng “"Tôn giáo của tương lai sẽ là
một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên
mọi thần linh, giáo điều và thần
học. Tôn giáo ấy phải bao quát
cả phương diện tự nhiên lẫn siêu
nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý,
phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm
mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy
đủ ý nghĩa. Phật
giáo sẽ đáp ứng được
các điều kiện đó".
Tuy
nhiên, nhà bác học Einstein không hề là người thấu đáo diệu lý về sự giác ngộ
giải thoát hoàn toàn, ông ta chỉ người khách quan đánh giá giá trị của những
quyển kinh Phật mà ông hữu duyên biết đến.
Việc
không thông đạt về Phật pháp ở nhà bác học Einstein là điều có thể chấp nhận,
dễ dàng chấp nhận được bởi lẽ từ xưa đến nay số lượng học giả nghiên cứu Phật
học lẫn hành giả chốn Phật môn vốn không có được mấy người liễu nghĩa rốt ráo
những gì mà Phật Thích Ca cũng như những vị Giác Giả sau này đã vì muôn chúng
sinh lầm than nơi biển khổ luân hồi sinh tử mà giảng thuyết.
Người
học Phật từ xưa đến nay thuộc rất nhiều thành phần, tầng lớp xã hội khác nhau,
tri kiến chẳng đồng, tâm hạnh lại rất khác biệt. Song tựu trung lại có thể phân
định người học Phật còn trong lưới vô minh làm hai hạng chính. Đó là hạng người
học Phật tự ti quá mức và người học Phật tự phụ có thừa.
Dạng
người học Phật thứ nhất, dạng người học Phật tự ti quá mức có những đặc điểm
đặc thù điển hình là:
Người học Phật tự ti quá
mức là thành phần người học Phật không có chính kiến rõ ràng. Đây là thành phần
học Phật đến với đạo Phật chỉ bằng vào niềm tin chủ quan, họ theo đuổi việc học
Phật theo lối phong trào, việc cầu nguyện, cúng bái, sám hối… là điều mà họ
kiên trì theo đuổi. Với họ, Phật là một Đấng thiêng liêng với rất nhiều quyền
phép, thần thông. Những người học Phật này tìm đến đạo Phật vì mê huyền, đắm
diệu và họ rất dễ sa đà vào tệ nạn mê tín dị đoan. Do đó, những người học Phật
dạng này rất dễ bị tà sư, ma Tăng lợi dụng. Đặc điểm chính ở những người học
Phật tự ti quá mức là họ không có niềm tin rằng họ có thể thành Phật ngay nơi
hiện kiếp. Việc thành Phật đối với họ mà nói, đó là một điều gì đó viễn vông,
xa xăm và không thể chạm đến. Họ không tin họ có thể thành Phật ngay hiện kiếp,
đồng thời họ cũng không có niềm tin rằng sẽ có một ai đó thành Phật nơi hiện
đời mặc dù có thể họ đang kỳ vọng Phật Di Lặc hạ sanh và thọ ký cho họ thành
Phật.
Dạng người học Phật thứ
hai, dạng người học Phật tự phụ có thừa có những đặc điểm đặc thù điển hình là:
Người học Phật tự phụ có
thừa là thành phần người học Phật có vốn tri kiến Phật học tương đối khá. Phần
đa người học Phật tự phụ có thừa là môn đồ tri giải của hệ phái Phật giáo Bắc
Tông nhánh Thiền Tông, Mật Tông, một số là Phật tử thuộc hệ phái Nam Tông trỗi
dậy. Thật ra việc phân định người học Phật ngày nay thuộc hệ phái hay chi nhánh
Phật học cụ thể là điều không thực tế bởi lẽ tri kiến người học Phật luôn là
một sự chấp vá, góp nhặt từ nhiều tông phái Phật học khác nhau. Thực tế là
người học Phật ngày nay không có tri kiến Phật học đồng nhất của một hệ phái
Phật học riêng lẻ. Hiện tượng người học Phật thuộc hệ phái Bắc Tông sau những
năm tháng quy thuận Phật giáo đại thừa mà không tỏ ngộ tìm về hệ phái PG Nam
Tông không hề ít. Ngược lại, hiện tướng người học Phật thuộc hệ phái nguyên
thủy Nam Tông từ bỏ hệ phái Nam Tông theo về Phật giáo Bắc Tông cũng không là
điều hiếm gặp. Không chỉ vậy, việc tín đồ Phật tử ở các chi Thiền – Tịnh – Mật
hoán đổi pháp môn tu khi pháp môn họ đang theo đuổi không thỏa mãn ước vọng của
họ là điều thường xuyên xảy ra. Chính vì vậy nên dù là người học Phật ngày nay
xác thực chấp thủ tôi hành theo pháp môn, theo hệ phái này nhưng kỳ thật tri
kiến Phật mà họ đang dính mắc vốn là một khối hiểu biết hỗn độn, mông lung và
miên man. Nhờ vào xa lộ thông tin internet người học Phật ngày nay dễ dàng tiếp
cận giáo lý, kinh sách Phật môn do vậy trí tuệ của người học Phật năng học hỏi,
tham cứu ngày nay vượt trội hơn hẳn so với tri kiến người học Phật ngày trước.
Tuy nhiên, do hạn cuộc ở tri kiến lập tri góp nhặt được cùng với cái bản ngã
năng biết, năng thấy, năng hiểu mà người học Phật ngày nay dễ dàng bộc lộ những
thói xấu tệ bạc. Điển hình như việc người học Phật theo hệ phái Nam Tông sau
khi tham học chán chê Phật giáo Bắc Tông sẽ nương theo chấp thủ của tri kiến PG
Nam Tông dè bĩu, kỳ thị Phật giáo Bắc Tông bằng chính vào những luận điệu,
những pháp phương tiện mà họ học hỏi được từ Phật giáo Bắc Tông. Hoặc hiện
tướng người học Phật ở các chi nhánh Thiền – Tịnh – Mật quay lại chỉ trích,
miệt thị những pháp môn mà chính họ trước đó tán thán, quy thuận,… Và hiển
nhiên là với những hiện tướng phơi bày như vậy cho thấy rằng đấy chính là những
người học Phật còn nặng oằn Tham Sân Si Mạn Nghi cộng thêm khối sở tri chướng
Phật học.
Những người học Phật tự
phụ có thừa do dính mắc khối tri kiến lập tri –sở tri chướng không thể tiêu hóa
nên thường có những biểu hiện cho mọi người thấy rằng họ là người học Phật
thông đạt Phật pháp. Một số chối bỏ vị trí là người học Phật sơ cấp – học nhân,
học giả Phật học, họ cố tỏ vẻ cho mọi người nhận biết được rằng họ năng nổ ở
vai trò hành giả chốn Phật môn có chứng, có đắc. Hạng người học Phật tự phụ có
thừa sẽ năng thuyết thiền ngữ, ám ngôn với những luận thuyết có vẻ cao siêu,
thâm áo. Nhưng với một chút ít tinh tế bạn, tôi, chúng ta có thể nhận diện đấy
chỉ là những lời nói xáo rỗng, không khả dụng.
Và khi gặp người chất vấn
“Ông bạn đã chứng ngộ chưa?” thì họ hay có lối trả lời ưỡm ờ, đánh mất sự chân
thật cần có ở một người học Phật đúng mực – Như người uống nước, nóng lạnh tự
biết là cách mà họ thường lạm dùng để thoát ra khỏi câu hỏi khó và cũng là diệu
pháp giúp họ thể hiện việc có chứng, có đắc.
Do bởi không là hành giả
có thực chứng, thực ngộ nên với những người học Phật tự phụ có thừa thường có
xu hướng hám danh, tham ngộ. Và với lối trả lời ưỡm ờ nhằm thể hiện sự thực tu,
thực chứng họ sẽ che mắt người học Phật sơ cơ và sẽ ra sức mê hoặc đại chúng
học Phật.
Với những hạng chồn cáo
núp bóng Phật môn này bạn có thể dễ dàng nhận diện họ bằng những câu hỏi cụ
thể, mộc mạc, gần gũi, điển hình như “Giác ngộ là giác ngộ gì? Chứng ngộ sẽ là
như thế nào? Luân hồi vận hành ra sao? Thế nào là nhân vay, quả trả? Ông bạn đã
thật sự thoát khỏi luân hồi sinh tử chăng? Đây là kiếp sống cuối cùng của pháp
hữu,…?”.
Với những người không có
thực tu, thực ngộ họ sẽ lại né tránh những câu trả lời có tính xác thực như
thế, họ sẽ tiếp tục cách trả lời theo lối mê hoặc, ưỡm ờ “Như người uống nước
nóng lạnh, tự biết”, “Hãy tu đi, hãy hành đi” hoặc họ sẽ cố trả lời những câu
hỏi trên bằng vào kiến thức góp nhặt nặng tính giáo điều, miễn cưỡng. Việc
không trả lời thẳng thắn, trực tiếp những câu hỏi, việc lãng tránh câu hỏi cùng
những phản vấn vụng về của họ sẽ giúp bạn ít nhiều nhận ra đấy là những người
học Phật hám danh, tham ngộ.
Nếu họ liên tục trói bạn
vào lối thoát “Bạn hãy tu đi, bạn hãy hành đi rồi thì bạn sẽ như người uống
nước, nóng lạnh tự biết”. Lúc bấy giờ, bạn hãy hỏi họ rằng “Tu thế nào, hành
làm sao?” thì tin rằng họ sẽ lại ngọng nghịu, bối rối với những giáo điều,
những ngôn từ trống rỗng.
Tất nhiên là không phải
tất cả người học Phật tự phụ có thừa, hám danh, tham ngộ đều có thể “bắt bài”
theo lối đó. Những kẻ hám danh, tham ngộ với rất nhiều biến hóa nên sẽ có những
kẻ chuyên núp lùm, hành xử theo lối “chọc gậy bánh xe” để từng bước khẳng định
vị thế của mình. Với những kẻ học Phật không có tâm chân thật như thế thì thôi
vậy. Hãy cứ để họ dấn thân trên lối mòn vô minh sâu thẳm mà họ tự vạch ra!
…
Loài người luôn đắm chìm
trong Tham Sân Si Mạn Nghi. Và người học Phật xưa nay cũng không là ngoại lệ.
Chìm đắm trong tâm địa
hẹp hòi, hoài nghi và đố kỵ phần đa người học Phật xưa nay không dám thành
Phật, không dám chứng ngộ nhưng sẽ lại xí phần thành Phật, xí phần chứng ngộ.
Họ không đủ tự tin việc
chính mình thành Phật, chính mình chứng ngộ và cũng không tin bất kỳ ai có thể
chứng ngộ hay thành Phật nơi hiện đời.
…
Ngạo Thuyết
biết vì sao người học Phật và người đời ngày nay tại sao lại trở nên như thế.
Vì bởi danh từ
Phật với họ đã trở thành một đấng thiêng liêng, một vị Thần thánh xa lạ, nhiều
quyền phép. Phật với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Phật với Tam Minh, Lục Thông bất
khả tư nghì. Phật vừa sinh ra đã có thể bước đi 7 bước và dõng dạc tuyên bố
“Thiên Thượng, Thiên Hạ Duy Ngã Độc Tôn”,… Những điều đó, những giai thoại
huyền bí mà người đời vô trí, vô tri thêu dệt đã vô hình chung biến Phật thành
một vị Thần, một Đấng quyền năng xa lạ, bất khả tri.
Thật ra Phật là
một con người rất bình thường, rất gần gũi, rất chân thật.
…
Tiếp theo đây
Ngạo Thuyết sẽ trình bày sáng rõ về việc thành Phật, về Phật là gì?
Có một điều rất
rõ ràng và có không ít người học Phật xưa nay đều nhận thức chạm đến, đó là:
“Phật là một con người bằng xương, bằng thịt; Phật là một người có sự hiểu biết
thông tuệ về việc giác ngộ giải thoát hoàn toàn; Phật là người đã giải thoát
hoàn toàn”.
Tuy nhiên, tri
kiến về một vị Phật mông lung, viễn vông vẫn mặc định, vẫn ẩn tàng nơi tâm thức
của muôn người học Phật. Tam Minh, Lục Thông là quyền phép bất khả tư nghì của
Phật khiến môn sinh học Phật bất khả tri và điều đó đầy mê hoặc. Người học Phật
ngày nay không dễ vượt thoát những mê hoặc mà việc Tam sao, thất bản về Phật
Thích Ca do người đời vô trí dựng lên.
…
Thật ra chúng
sinh thành Phật tức là chúng sinh đó có sự hiểu biết thông suốt về việc giải
thoát hoàn toàn và đã giải thoát hoàn toàn.
Phật là như thế
đó, thành Phật là như thế đó. Việc thành Phật thật dung dị, thật gần gũi và
cũng thật mầu nhiệm. Và việc thành Phật không phải là một việc gì đó rất ghê
gớm, rất khủng khiếp. Việc thành Phật không từng là việc làm bất khả thi, vấn
đề chỉ là sự hiểu biết thông suốt về việc giác ngộ, giải thoát hoàn toàn.
Nhiều người học
Phật mê huyền, đắm diệu sẽ lại cho rằng Ngạo Thuyết đang tầm thường hóa Phật
Thích Ca, tầm thường hóa giáo lý kinh điển đạo Phật. Mọi việc rồi sẽ sáng tỏ
thôi. Đừng vội! Đừng vội!
Quay lại vấn đề
chứng ngộ ở đạo Phật.
Việc chứng ngộ,
chứng đắc ở đạo Phật chung cùng cũng chính là chứng ngộ sự giác ngộ giải thoát
hoàn toàn.
Người học Phật
ngày nay lạm bàn việc chứng ngộ, chứng đắc chỉ dừng trên lý nên không thực sự
biết rõ việc chứng ngộ, chứng đắc thực sự là ngộ gì, đắc gì nên họ cứ quẩn
quanh với những tri kiến Phật học lan man và mông lung. Dù biết rằng mình chưa
chứng ngộ nhưng nghe ai đó xác lập sự chứng ngộ, chứng đắc thì đem lòng hoài
nghi, đố kỵ. Đây là việc thường thấy ở người học Phật xưa nay.
Người học Phật
ngày nay ngoài việc không tin vào chính mình lại thêm việc chẳng tin vào người
nên cứ loay hoay trong lưới vô minh, luân hồi sinh tử.
…
Sao trời nguyên
bất động
Mây lành tự đến
đi.
Am tranh, mái
lá TTPHO, Một Thoáng Phương Đông của Ngạo Thuyết từ bấy đến nay cũng đón tiếp
biết bao lượt người đến đi.
Rất nhiều người
thuộc hệ phái nguyên thủy ghé am tranh gặp duyên Ngạo Thuyết chỉ ra ưu khuyết
của pháp môn niệm Phật liền tán thán, cận kề; đến khi Ngạo Thuyết vạch ra lỗ hỗng
Đoạn kiến – Không Có Linh Hồn thì liền không từ mà biệt và ngược lại. Lại có
những vị học Phật theo lối thiền tông Đông Độ hữu duyên lạc bước vào tệ trang
liền như người chưa gặp mà như đã quen lâu nhưng khi thấp thoáng thấy bóng dáng
mà họ cho rằng ngã mạn chứng ngộ của Ngạo Thuyết cũng ra đi vội vàng như khi đến,…
Những hiện
tướng đến đi của người học Phật khiến Ngạo Thuyết cảm thấy tiếc nuối cho họ. Từ
xưa đến nay Phật cũng như Giác Giả bao phen cảnh tỉnh “Hãy Tự Thắp Đuốc Mà Đi”,
điều đó không đồng nghĩa với việc người học Phật ôm định kiến của mình lầm lũi
bước đi mà là hãy dùng trí tuệ để nhìn vào hiện tượng ngõ hầu nhận diện được
bản chất, thấu tỏ đúng sai, chân ngụy, chánh tà tức là trạch pháp.
…
Từ xưa đến nay,
Giác Giả ra đời không bao giờ trụ nơi ngộ mà lập ngôn. Giác Giả xưa nay không
bao giờ rót vào tai thính chúng những lời hay, ý đẹp, những ngôn từ hoa mĩ và
xáo rỗng. Bao giờ cũng vậy, khởi từ tâm bi mẫn Giác Giả sẽ chỉ ra những sai lầm
then chốt, những vô minh cốt lõi khiến tri thức nhân loại đắm chìm trong sự hỗn
độn, điên đảo của Tham Sân Si Mạn Nghi.
Giác Giả sẽ
luôn là người nhận diện được vô minh nơi tự thân, thoát ra khỏi sự vô minh đấy,
liễu thông vạn pháp. Do nhớ nghĩ tâm bi mẫn của tiền nhân mà Giác Giả sẽ nhận
diện, vạch rõ, chỉ bày vô minh đương đại hiện tồn nơi xã hội loài người. Giác
Giả đúng mực sẽ không trói mình, không hạn cuộc mình ở đạo Phật mà mở lời. Và
hiển nhiên là Giác Giả cũng không vì danh từ giả lập Phật, Thế Tôn, Như Lai mà
gượng nói chánh pháp.
Từ xưa Phật đã
được xưng tán với 10 hiệu gồm: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân
Sư, Phật Thế Tôn.
Và hiển nhiên
là với một người giác ngộ giải thoát hoàn toàn họ sẽ không nặng oằn với những
danh hiệu đó. Do đó, Phật với 10 hiệu sẽ là sự xưng tán, tán dương của người
học Phật đối với bậc Giác Giả thông tuệ chánh biến tri. Với 10 danh hiệu Phật
khả dĩ sẽ có hai danh hiệu mà Phật ưa dùng đó là danh hiệu Phật và Như Lai.
Danh hiệu Phật
được dùng khi Phật thông tỏ vạn pháp, liễu thoát sinh tử và hạ quyết tâm dấn
thân trao truyền chánh pháp giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Danh hiệu Như Lai
được Phật dùng vào những tháng năm cuối đời khi tri kiến Phật học đã được Phật
ươm mầm vững chắc vào giáo đoàn khất sĩ. Như Lai chứa đựng sự thật của việc
chứng ngộ giải thoát hoàn toàn vốn là sự không đến, không đi, không sinh, không
diệt.
Còn 8 danh hiệu
còn lại của Phật chỉ là sự tán tụng của người đời dành cho bậc thông tuệ, 8
danh hiệu đấy mang nặng tính duy ngã.
Năm tháng lâu
xa, danh hiệu Phật đã bị người học Phật cùng người đời dịch giải, diễn nghĩa
sai lạc đánh mất sự chân phương, thuần khiết. Phật lẽ ra chỉ nên hiểu đúng là
người giác ngộ giải thoát hoàn toàn đã bị người đời thần linh hóa thành một Đấng
quyền năng siêu nhiên. Do đó, Ngạo
Thuyết về sau khi trình bày về Phật ưa dùng danh từ Giác Giả để chỉ người chứng
ngộ giác ngộ giải thoát hoàn toàn nhằm phá bỏ rào cản Phật là một Đấng quyền
năng siêu phàm, nhập thánh.
Phật – Giác Giả
ở đạo Phật chỉ là người thuần túy chứng ngộ giải thoát hoàn toàn. Giác Giả Phật
môn chỉ thông tuệ về sự giải thoát hoàn toàn chứ không đồng nghĩa rằng Phật là
người sáng suốt, biết tất, biết tuốt tất cả mọi chuyện, mọi việc, mọi ngành
nghề sản xuất. Phật – Giác Giả là dừng lại sự vô minh nơi chính mình và góp
phần tháo gỡ lầm mê nơi nhận thức, tư duy nhân loại.
Có một điều mà
người học Phật xưa nay có biết đến nhưng lại không thể thấu đáo, đó là việc
Phật chứng ngộ pháp vô sanh.
Người giác ngộ
giải thoát hoàn toàn là người chứng ngộ pháp vô sanh. Chứng ngộ pháp vô sanh
tức là chạm đến cái biết chân thật vốn chưa từng sinh ra. Do chưa từng sinh ra
tức không đến, không đi, không sinh, không tử tức Như Lai.
Người đời,
người học Phật lầm mê vì hạn cuộc vô minh bám chấp nơi duy ngã nên có sinh, có
diệt. Do chấp thủ duy ngã cùng việc tử sinh mà trôi lăn miên viễn trong lưới
mộng luân hồi. Kẻ giác ngộ thông suốt Phật đạo, vỡ lẽ ra rằng xưa chẳng từng
sinh, nay đâu từng diệt. Vô ngã, hữu ngã chỉ là giả danh, là vô minh thậm thâm
đã bao đời dính mắc, rốt ráo buông thư, mộng mị tan dần.
Do thâm đạt,
liễu thông vô sanh pháp nhẫn Giác Giả rõ biết vô minh, điều phục vô minh, hóa
giải vô minh mà liễu thoát luân hồi. Do bởi thấu suốt phiền não, bồ đề cùng với
chút duyên thừa nhân quả Giác Giả sẽ vì người rộng diễn nói chánh pháp, vạch rõ
vô minh đương đại. Và việc làm này vô hình chung Giác Giả sẽ xô đổ tri thức
nhân loại, đụng chạm đến quyền lợi của mọi thành phần, tầng lớp xã hội, đặc
biệt là giới chính trị cùng với các hệ thống tôn giáo mà nhất là đạo Phật đã bị
biến tướng.
Phật sẽ làm
những điều khó làm bởi lẽ rõ biết “Ta không vào địa ngục thì ai sẽ vào địa ngục”.
Tóm lại, Phật
đã thành sẽ vào địa ngục.
P/S: Mời các
bạn tiếp tục theo dõi bài viết liền kề:
Bóc Trần Đôi
Nét Về Vị Giả Phật Ngạo Thuyết.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét