Sự Rốt Ráo Giải Thoát Hoàn Toàn Trong Đạo Lý Giác Ngộ_Giải Mã Đạo Phật 2.0
Thứ Năm, 27 tháng 6, 2019
Sự Rốt Ráo Giải Thoát Hoàn Toàn Trong Đạo Lý Giác Ngộ
Của Phật Thích Ca
“Đạo Phật là đạo giải
thoát. Đức Phật là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ
thành. Đó là chân lý bất biến. Chỉ có điều chúng sanh có
biết y theo giáo lý giải thoát của Phật để tu một
cách chân chính hay không, thì đó là chỗ quyết định thành
tựu công đức ấy một cách nhanh chóng ở đời này hoặc đời sau, hay
phải trải qua trong vô lượng kiếp chúng sanh nữa mới
thành, là tùy ở chúng sanh ấy”.
“Y pháp bất y nhân”
“Y kinh liễu nghĩa, bất y kinh
bất liễu nghĩa”.
…
Đây là một trong số những điều
mà người học đạo tìm đến đạo Phật sẽ được chư Tăng bảo lẫn các vị cư sĩ tại gia
rót vào tai. Tất cả những lời nói đó như là mật ngọt và đồng thời cũng là những
ngôn từ xáo rỗng.
Vì rất nhiều lý do khác nhau,
những câu từ có đại ý Phật học dường như rất uyên thâm, rất thông đạt đó đã được
người học Phật rót vào tai nhau hết đời này sang đời khác.
Và có lẽ do kính tin, do thuần
phục và cả việc tự ti cùng với thiển ý giấu dốt mà người học Phật chỉ biết lắng
nghe một cách thụ động, họ, những người đi tham vấn không dám vấn hỏi thẳng
thắn về những góc khuất, những tri kiến mang nặng tính giáo điều mà những người
hướng đạo đang bối rối. Những câu hỏi đại loại như:
- Tu một cách chân chính là tu làm sao?
-
Thành tựu công đức là như thế
nào? Công đức, phước đức sẽ được lưu giữ nơi đâu và người thành tựu phước đức,
công đức sẽ thọ lãnh nghiệp quả tốt xấu bằng cách thức nào?
-
Y pháp là y pháp nào, y pháp ra
làm sao?
- Kinh liễu nghĩa là những kinh nào, kinh bất liễu nghĩa là những
kinh nào? Tại sao lại có kinh liễu nghĩa, kinh bất liễu nghĩa?
…
Những câu hỏi có tính minh
định nhận diện con đường giác ngộ giải thoát hoàn toàn từ xưa đến nay đã bị
người học Phật luống qua biết bao lần và hẳn là vì lẽ đó mà phần đa người học
Phật xưa nay vẫn cứ cắm cúi, lầm lũi bước đi cùng với mớ tri kiến Phật học u
mê, tăm tối.
Do hiểu biết lệch lạc, ngộ
nhận tri kiến Phật người học Phật càng dấn thân càng xa rời chánh đạo và trượt
dài vào những nỗi thống khổ tiềm ẩn của tệ nạn mê tín dị đoan, gây ra sự hỗn
độn âm dương bày ra hiện tướng âm thịnh, dương suy nơi Tam giới.
…
Đã lâu rồi, có vẻ như là già
trước tuổi nên bè bạn của Ngạo Thuyết đa phần là những người bạn vong niên.
Ngạo Thuyết có bạn là giáo viên Nga văn, giảng viên đại học, bác sĩ, kiến trúc
sư,… một số là Bôn sê vích (rặt vô thần).
Do những người bạn này phần đa
chịu sự ảnh hưởng rất lớn của khoa học và chủ nghĩa duy vật nên trước những
thông tin về thế giới tâm linh họ luôn có sự thận trọng xem xét, đánh giá mọi
vấn đề và họ thường âm thầm dùng một vài phép thử để nhận diện sự thực hư, chân
ngụy.
Trong số những người bạn đó,
có một người mất mẹ (người gốc bắc) và do nhớ mẹ người bạn ấy đã tìm đến thầy
bà nhờ “gọi vong” mẹ về. Khi “mẹ” mượn xác thầy bà về nói chuyện, người bạn chú
ý giọng nói, xét nét cử chỉ điệu bộ và vờ hỏi những câu chuyện mà chỉ riêng hai
mẹ con biết. Và kết luận sau cùng là người bạn đó thừa nhận “Chính xác là mẹ”.
Và người bạn này đã thực hiện
việc mời thỉnh mẹ khá nhiều lần, càng về sau việc mời thỉnh càng khó và sau
cùng người bạn này nhận được yêu cầu từ mẹ là đừng mời gọi nữa, hãy để bà yên.
…
Ngạo Thuyết muốn nhấn mạnh vấn
đề gì?
Những người bạn vong niên của
Ngạo Thuyết vốn là những nhà tri thức chuẩn theo đường lối Bôn sê vích nên họ
không phải là những người cả tin, cạn nghĩ. Trước những vấn đề huyền hoặc tâm
linh họ luôn khéo léo sử dụng sự hiểu biết của khoa học và phép biện chứng để
nắm bắt, xác thực vấn đề theo hướng có thể khách quan nhất.
…
Và do tuổi tác họ cũng đã khá
cao, họ nhận thức được cái chết và đem nhận thức về cái chết ướm hỏi những
người cao tuổi.
Câu hỏi họ thường đặt ra cho
những vị lão niên là “Cụ có sợ chết không?”. Kết quả là phần đa câu trả lời đều
là “Có sợ chết”. Trong số những người cao tuổi được vấn hỏi có cả chư Tăng lẫn
giới văn nghĩ sĩ nổi tiếng, những người có những thành tựu to lớn cả về công
danh, về gia đình lẫn sự nghiệp.
Người bạn của Ngạo Thuyết còn
vấn thêm một câu hỏi khó là “Cụ có cả công danh, sự nghiệp và gia đình hưng
thịnh thì việc nhắm mắt, hẳn xuôi tay cớ sao phải luyến tiếc việc sống chết?”.
Và câu trả lời nhận được là “Tôi còn nhiều việc chưa làm xong, tôi muốn trẻ
lại, tôi muốn có sức khỏe,…”.
Sau cùng những người bạn vong
niên của Ngạo Thuyết có chung nhận định rằng “Người càng giàu có, càng thành
đạt càng ham sống, sợ chết; Người càng cao tuổi càng sợ chết nhiều hơn”, cho dù
thuở tráng niên họ có thể hiện rằng “Chẳng biết sợ chết là gì” hoặc ở chốn đông
người họ khẳng khái quả quyết “Chết không có gì đáng sợ! Chỉ mong chết sớm cho
đỡ khổ con cháu”. Nhưng đằng sau những lời nói kiên định đó thông thường là một
nỗi sợ khôn cùng “Ta không muốn chết; Chết có đau không? Chết rồi sẽ ra
sao?...”.
Thật vậy! Loài người cho đến
muôn loài đều không bao giờ muốn chết. Chỉ có những người rơi vào bối cảnh khốn
cùng, quẩn bách, sống không bằng chết mới muốn tìm đến cái chết. Song thực tế
là trong lòng họ không từng mong đợi cái chết, họ mong có một đời sống tốt hơn.
Ngay cả những người bi tráng
thốt lên rằng “Hai mươi năm sau ta vẫn là một trang hảo hán”, họ cũng không
muốn chết. Trước giờ phút sinh tử họ sẽ khắc khoải sầu lo việc “Chết rồi sẽ về
đâu?”.
…
Ngạo Thuyết đang cố diễn giải,
cố trình bày cho mọi người nắm bắt điều gì?
Đó là vấn đề Ham Tiếc Sinh Tử.
Con người, muôn loài hay nói cách khác là mọi tâm ý sự sống hiện tồn trong vũ
trụ đều Ham Tiếc Sinh Tử.
Chính việc Ham Tiếc Sinh Tử
này đã gắn kết với nghiệp báo nhân quả mà chúng sinh trôi lăn, chìm nổi nơi
lưới mộng luân hồi.
Và cũng chính việc Ham Tiếc
Sinh Tử mà giới Tăng bảo, người học Phật ngày nay đã si mê móng cầu có cõi
Phật, có niết bàn để người chứng ngộ giải thoát hoàn toàn thọ dụng. Sự hiểu
biết sai lạc này đã khiến tri kiến Phật bị ngộ nhận và trở thành tà kiến, trở
thành sự vô minh che mờ tuệ tri của người học Phật.
Và cũng chính việc Ham Tiếc
Sinh Tử này mà người học Phật không thể liễu thoát sinh tử. Người chứng ngộ
giác ngộ giải thoát hoàn toàn cũng vì thế mà bặt dấu.
…
Ở bài viết Luân Hồi và Giải
Thoát, Ngạo Thuyết đã kể những câu chuyện tiền kiếp của Ngạo Thuyết đồng thời
cũng là của mọi chúng sinh hãy còn trong lưới mộng luân hồi.
Ngạo Thuyết đã nói rằng chính
do chấp giữ mầm sống giản đơn từ khởi thủy mà Ngạo Thuyết trầm luân nơi biển
khổ sinh tử không biết đến ngày thoát ra. Sự chấp giữ mầm sống khởi thủy chính
là việc Ham Tiếc Sinh Tử ở Ngạo Thuyết.
Và sự Ham Tiếc Sinh Tử này
dính mắc vào đâu mà tồn tại?
Việc Ham Tiếc Sinh Tử dính mắc
vào bản ngã – cái tôi nơi mỗi mầm mống sự sống, mỗi người, mỗi loài.
Do chấp thủ chút đất nước gió
lửa, chút tâm ý sự sống nương gá ở hai dạng Vật Chất Có – Vật Chất Không cùng
với tùy duyên nghiệp trả vay mà chúng sinh trôi lăn nơi lưới mộng luân hồi với
vô vàn phiền não vui buồn, hơn thua, được mất, tử rồi sinh, sinh rồi tử.
Do chấp thủ việc sống còn mà
muôn loài và Thái tử Tất đạt đa nhào lên, lộn xuống trong lục đạo. Rồi thì việc
thiền định cùng quán chiếu giúp Thái tử Tất đạt đa nhận diện được sự vô minh
chấp ngã nơi chính mình.
Thái tử Tất đạt đa nhận ra “Sự
chấp ngã thật tai hại! Chấp ngã đã khiến ta bị cuốn trôi vào vòng sinh diệt
luân hồi tương tục nhân vay, quả trả với muôn điều phiền não đa đoan”.
Thái tử Tất đạt đa nhận ra
rằng dù có sinh ra trong bất kỳ nẻo giới nào thì cũng chỉ là sự sinh diệt tương
tục. Thái tử Tất đạt đa biết rằng cho dù thọ hưởng kiếp sống phước báo vô lượng
thì cũng không ngoài Tham Sân Si Mạn Nghi, đã dính mắc đến Tham Sân Si Mạn Nghi
tức là đã có sự phiền não ràng buộc, có thể ngay hiện đời hoặc ở những kiếp về
sau.
Chán ngán và nhàm mõi việc
luân hồi tương tục, Thái tử Tất đạt đa truy nguyên gốc tích sự sống, nhận ra
mầm móng vô minh khởi thủy, nhận diện được gốc rễ của việc luân hồi, Thái tử
Tất đạt đa xác quyết việc rời xa sinh tử luân hồi khi hòa tan vào vô ngã. Cái
bản ngã chấp thủ sau khi phá ngã thành công gượng nói là trở về vô ngã, Thái tử
Tất đạt đa chạm đến sự giải thoát hoàn toàn và đi nốt đoạn đường còn lại của
kiếp chúng sinh đời cuối.
…
Đó là sự chân thật của việc
giải thoát hoàn toàn. Chấp ngã tức luân hồi. Phá ngã thành công, trở về vô ngã
tức giải thoát hoàn toàn.
Hay nói một cách khác là nếu
người học Phật (nói riêng) hay mọi chúng sinh nơi Tam giới (nói chung) còn Ham
Tiếc Sinh Tử thì hãy tin rằng chúng sinh đó sẽ tiếp tục trôi lăn nơi lưới mộng
luân hồi.
Và chỉ khi sự hiểu biết hành
nhân chạm đến tận cùng của việc luân hồi, sự giải thoát hoàn toàn và rốt ráo
hành hạnh xả ly tùy thời phá ngã, phá vỡ hoàn toàn ý niệm Ham Tiếc Sinh Tử thì
việc giải thoát hoàn toàn mới có cơ may thành tựu.
…
Khi Thái tử Tất đạt đa thâm
nhập, chứng ngộ pháp vô sanh tức là đã nhập cảnh giới hữu dư y niết bàn. Thân
Thái tử Tất đạt đa tại nơi biển khổ sinh tử nhưng tâm đã hoàn toàn vắng lặng,
tịch diệt của bản thể chưa từng sinh ra. Lúc bấy giờ mọi ngôn từ, mọi tri kiến
đạo đời đều rơi rụng hoàn toàn.
Sau khi chứng nghiệm sự tịch
diệt, an tịnh vi diệu của sự giải thoát hoàn toàn, Thái tử Tất đạt đa đã nhớ
nghĩ, thương tưởng bạn đồng tu, người học đạo và chúng sinh vô minh trầm luân
nơi Tam giới nên đã dũng mãnh xuất Đại định niết bàn và dấn thân trao truyền
chánh pháp giác ngộ giải thoát.
Mượn ngôn từ giả lập Thái tử
Tất đạt đa bày phương tiện Phật ra đời. Bởi do tri kiến người đương thời đâu dễ
thông đạt, chứng nghiệm, nhận diện việc chứng ngộ pháp vô sanh nên Phật Thích
Ca đã phương tiện diễn nói Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã. Đây là pháp đối trị
với xu hướng vô minh đương thời là Thường Lạc Ngã Tịnh.
Thường Lạc Ngã Tịnh luôn là
chỗ móng cầu của mọi chúng sinh nơi Tam giới, những chúng sinh Ham Tiếc Sinh
Tử. Và để chạm đến Thường Lạc Ngã Tịnh móng cầu mọi chúng sinh nơi Tam giới sẽ
lao vào Tham Sân Si Mạn Nghi và vun bồi phiền não, được mất, hơn thua, nhân
vay, quả trả cùng với những dòng sông luân hồi bất tận.
…
Tóm lại, chúng ta, tôi và bạn,
con người và muôn loài, nếu vẫn chấp giữ bản ngã tức Ham Tiếc Sinh Tử thì nhất
thiết sẽ tiếp tục trôi lăn nơi lưới mộng luân hồi vay trả, trả vay và đôi khi
sẽ phải nhặt lại hình hài từ bụi vũ trụ khi trái đất nổ tung do lòng tham không
đáy của con người.
Trái đất đang nóng lên, băng
tan chảy, thiên tai ngày càng khốc liệt và có không việc những quả bom hạt nhân
được kích nổ hàng loạt.
Vả lại, do lòng tham bởi thiếu
sự hiểu biết khách quan, sáng rõ về quy luật luân hồi nhân vay, quả trả con
người đang chìm sâu vào vòng xoáy thực dụng, ở nơi đó phiền não, hận thù, yêu
ghét, hơn thua,… sẽ vượt mức.
Một xã hội lắm bon chen, giành
giật, con người đánh mất nhân cách, phẩm hạnh của loài người. Đây là hệ quả của
ngành giáo dục lầm lạc, hướng con người đến sự tham đắm, tranh đoạt vị kỵ và cả
sự mê tín, cuồng tín cùng với những tệ nạn ma túy, thuốc lắc, những chất kích
thích,… hủy hoại thần kinh,…
Một xã hội tương lai tiềm ẩn
quá nhiều mối nguy, nhiều họa hoại,… có lẽ đây sẽ là một thời kỳ quá độ ở xã
hội loài người. Máu, nước mắt, mạng sống và phiền não của con người hẳn sẽ đổ
xuống rất nhiều để trả giá cho việc chọn lựa sai lầm khi xây dựng xã hội con
người theo sự định hướng chủ quan với rất nhiều điều lầm lạc.
…
Và nếu đã thật sự nhàm mỏi,
thật sự chán ngán việc luân hồi thì mỗi người đều có thể chọn lựa cho mình việc
liễu thoát sinh tử, giải thoát hoàn toàn. Việc nhận diện vô minh, phá vỡ những
định kiến sai lạc, những ngộ nhận về tri kiến Phật, giải trừ việc mê huyền, đắm
diệu, ham thích thần thông, dần chạm đến sự vô ngã nơi vạn pháp, sống tùy
thuận, tùy thời hành trì việc buông bỏ. Cho đến khi chánh kiến khai thông hành
nhân sẽ thành tựu sự bất thoái chuyển, cánh cửa giải thoát hoàn toàn đã hé mở.
Sự giải thoát hoàn toàn sau
rốt cũng chỉ là việc buông bỏ mọi tri kiến mê lầm, buông cả cái tôi được kiến
tạo bằng những vọng chấp, buông hoàn toàn việc Ham Tiếc Sinh Tử thường ẩn tàng
nơi tiềm thức của mọi tâm ý sự sống.
…
Nếu không hiểu đúng, biết đủ
về quy luật luân hồi, sự giải thoát hoàn toàn mà nói rằng đã hành trì đúng
chánh pháp, đã chứng ngộ pháp vô sanh thì đấy chỉ là việc “nằm mơ, nói mộng”,
là việc “dối mình, lừa người” để che giấu sự tham danh, hám lợi, dính mắc sự
chứng ngộ.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét