Sự Thật Về Tam Minh, Lục Thông Của Phật Thích Ca_Giải Mã Đạo Phật 2 0
Thứ Sáu, 14 tháng 6, 2019
Theo năm dài, tháng rộng, những giai thoại
về vị Phật Thích Ca được dựng lên và đã có biết bao người mê đắm xưa nay đã bị mê
hoặc, bị trói cột ở những tri kiến lầm lạc, hoang đường.
Truyền thuyết kể rằng Thái tử Tất đạt đa
không hạ sinh như một người bình thường, Thái tử Tất đạt đa được sinh ra ngang
hông, tức là Thái tử đản sinh ở bên hông hoàng hậu Ma da. Trong khi hoàng hậu
Ma da ngã quỵ xuống vì mang nặng, đẻ đau thì Thái tử Tất đạt đa vừa sinh ra đã
có thể thản nhiên bước liền 7 bước, 7 đóa hoa sen hiện ra, nâng từng bước chân
Người, dừng lại ở bước chân thứ 7, Thái tử Tất đạt đa một tay chỉ lên trời, một
tay chỉ xuống đất diễn ngâm với giọng trầm hùng “Thiên Thượng, Thiên Hạ Duy Ngã
Độc Tôn.
Sau khi Thái tử Tất đạt đa hạ sinh có biết
bao thầy tướng số, thầy tử vi tìm đến hoàng cung chỉ với một mục đích là xem số
mệnh của Thái tử Tất đạt đa. Truyền thuyết kể rằng Thái tử Tất đạt đa có 32
tướng tốt, 80 vẻ đẹp, đây là điềm báo nếu Thái tử Tất đạt đa không là một vị
Chuyển Luân Thánh Vương danh tiếng lẫy lừng thì sẽ là một Bậc Thầy Giác Ngộ -
Một người chứng ngộ giải thoát hoàn toàn, là một vị đạo sư thông tuệ, người
giúp chúng sinh 3 cõi tìm về bến bờ giải thoát.
Đỉnh cao của thuật chiêm bốc về số mệnh đã
an bài của Thái tử Tất đạt đa phải kể đến nhà tiên tri, tiên nhân A tư đà (Asita), vị ẩn
sĩ khổ hạnh này đã rời chốn ẩn tu, tìm đến gặp Thái tử Tất đạt đa để rồi òa
khóc xác quyết rằng “Thái tử Tất đạt đa sẽ xuất gia tu hành, đắc đạo và trở
thành Phật – Thế Tôn. Nhà tiên tri A tư đà đã lý giải cho việc òa khóc là vì
không có đủ duyên nghe Thái tử Tất đạt đa thuyết pháp. Là một nhà tiên tri
thông kim, bác cổ biết cả tương lai của Thái tử Tất đạt đa vậy mà ẩn sĩ A tư đà
lại không thể chết rồi tái sinh để và đến tham học giáo lý chánh pháp khi Thái
tử Tất đạt đa thành đạo, đây là sự hi hữu, là một điều thật sự hoang đường.
Phải chăng đây là sự minh chứng, xác thực điều mà dân gian vẫn thường nói “Tử
vi xem số cho người, số thầy thì để cho ruồi nó bâu”?
Thế nào là 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp?
Phải chăng lẽ đẹp kém, tốt xấu sẽ tùy thời, tùy nơi, tùy chốn?
Điển hình là có những bộ tộc căng tai, căng môi, kéo dài cổ, bó chân cho
nhỏ gọn, bó hộp sọ cho thon dài,… được xem là biểu tượng của cái đẹp. Và người
mẫu ở thập niên 80 với tiêu chuẩn “mình hạc, xương mai” đến nay đã không còn
tương hợp, thay vào đó là kiểu hình “ngực nở, eo thon” đang ở thời thịnh thế.
Do đó, dựa vào lá số tử vi cùng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp để nhận diện, tìm
dấu người chứng ngộ e rằng đây là điều hư dối, lọc lừa.
Truyền thuyết lại kể rằng hoàng hậu Ma da có một giấc mơ, trong mơ hoàng
hậu Ma da thấy một con voi trắng 6 ngà với chiếc vòi nắm giữ một đóa sen trắng
đi nhiễu quanh bà 3 lần rồi đi vào trong người bà ở phía hông phải. Hoàng hậu
Ma da thức giấc và biết mình thọ thai.
…
Những câu cổ tích, những câu truyện ngụ ngôn ở Việt Nam cũng như ở khắp
mọi nơi trên thế giới vẫn thường có những điều kỳ lạ, hoang đường và không
thật. Truyện Thánh Gióng, Truyện Sọ Dừa, Truyện Lạc Long Quân Và Âu Cơ, Truyện
Nữ Oa Đội Đá Vá Trời, chuyện bà Maria sinh Chúa Jesu mà vẫn đồng trinh,… là
những câu chuyện mà con người thuở thời kém hiểu biết cách đây vài trăm năm vẫn
tin nhận như có thật.
Ngày nay, tri thức nhân loại ngày càng nâng cao thì những câu chuyện hoang
đường, không thật ngày càng không còn chỗ đứng, mất hẳn điểm tựa. Song người
học Phật vô minh mê huyền, đắm diệu vẫn ấp ủ những điều hoang đường về phép
thuật, thần thông của Phật Thích Ca.
Phật Thích Ca với Tam Minh, Lục Thông bất khả tư nghì sẽ biết tất, biết
tuốt mọi thứ trên trần đời từ cổ chí kim. Có luận thuyết của người học Phật còn
trong lưới vô minh cho rằng người chứng ngộ có cõi giới để nương náu, cụ thể là
Niết bàn, là Cõi Phật, cõi Bồ Tát, Cõi Thanh Văn. Có luận thuyết cho rằng, Phật
- Người chứng ngộ khi nhập diệt sẽ giữ lại Cái Hằng Thấy Hằng Biết trùm khắp để
“mắt xanh xem trần thế”. Và với luận thuyết này thì Phật Thích Ca vẫn đang
giương mắt nhìn vạn pháp và biết tất cả mọi việc từ cổ chí kim đơn cử như việc
đánh bom ngày 11/9/2001 ở Mỹ, Phật sẽ biết cách chế tạo phi thuyền, biết lái
máy bay, biết chat Facebook, biết hát nhạc Rap,… Hiển nhiên đây là những điều
hoang đường, hư dối nhưng vẫn còn biết bao người học Phật si mê vẫn tin rằng
người chứng ngộ sẽ mãi giữ Cái Hằng Thấy Hằng Biết dẫu cho thân xác vật chất tan
rã về tứ đại.
Vì sao lại có rất nhiều người học Phật chấp mê, bất ngộ về những điều
hoang đường như thế?
Vì bởi còn vô minh nên người học Phật cũng như người đời sẽ ham tiếc sinh
tử, sợ chết là mất tất cả, sợ đọa vào rỗng không. Và dựa vào việc tư duy phân
tích, cộng trừ nhân chia chủ quan về giáo lý đạo Phật nên người học Phật còn
trong lưới vô minh mong mỏi sẽ còn mãi và lý thuyết về Cái Hằng Thấy Hằng Biết
đã được dựng lên, mê hoặc người chưa thật sự nhàm chán sinh tử luân hồi.
Sự si mê về những điều không thật đúng về Phật Thích Ca, về người chứng
ngộ đang được người học Phật cả Tăng lẫn tục đang lạm dùng và tái hiện cũng như
ra sức xác thực một cách gượng ép dựa trên nền tảng khoa học một cách chủ quan.
Và hiển nhiên là những lời xác thực ở giới Tăng Bảo sẽ khiến đông đảo người học
Phật sơ cơ tin vội, tin vàng. Đơn cử như việc sư thầy Thích Thanh Từ, tông chủ
Thiền Phái Trúc Lâm đưa ra luận thuyết si mê rơi vào Thường Kiến, Cái Hằng Thấy
Hằng Biết đã khiến muôn người học Phật ngày nay đọa lạc, rơi vào biên kiến Đoạn
- Thường. Và gần đây nhất, ngày 10/5/2019 sư thầy Thích Trúc Thái Minh đăng đàn
thuyết pháp nhằm xác thực việc Phật vừa đản sanh liền bước đi 7 bước và cất lời
rằng “Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Độc Tôn” qua bài pháp thoại “Thực Hư Chuyện
Phật Đản Sinh Bước Đi Bảy Bước”.
Với những tri kiến Phật học thiển cận, ấu trí cùng ngu xuẩn có rất nhiều
vị Tăng Bảo đang biến Phật Thích Ca từ một con người bằng xương, bằng thịt
thành những vị Thần, vị Thánh, thành Yêu, thành Ma. Những sự hoang đường, huyễn
hóa, lừa mị này sẽ khiến tín đồ Phật tử sa ngã, đọa lạc vào những điều mê tín
dị đoan và những vị Tăng Bảo hám danh, tham lợi sẽ dựa vào sự si mê của đàn na
tín thí đoạt vật, hại người. Những điều giả trá, hoang đường, lộng giả thành
chân sẽ từng bước hủy hoại giá trị chánh pháp trong kho tàng Như Lai tạng.
Chính vì sự hiện hữu của giới Tăng Bảo ngu dốt, tham lam, si mê có trong
hàng ngũ sa môn cùng với sự tồn tại của không ít người học Phật vô tri, vô trí
lầm tin tà pháp ngoại đạo len lõi trong kinh sách Phật học nên Ngạo Thuyết sẽ giải
mã đạo Phật, vạch trần ra chân tướng thật sự của Tam Minh, Lục Thông.
Đến với đạo Phật ngày nay, người học đạo dễ
thường choáng ngợp với rất nhiều kinh sách, pháp môn và hệ phái Phật học khác
nhau. Và có một điều khá đặc biệt là gần như bất kỳ người học Phật cả Tăng lẫn
tục nào cũng đều cho rằng pháp môn mà họ đang tham học, đang hành trì là đúng
nhất, mới đúng là chánh tông Phật môn. Một số người học Phật khác tỏ vẻ ôn hòa
hơn với pháp môn nào, đạo nào cũng sẽ mang lại sự giải thoát bởi trăm sông đều đổ
vào biển lớn, song trong lòng họ sẽ vẫn tin rằng pháp môn họ đang hành trì sẽ chuẩn,
là nhanh chóng đắc pháp nhất.
Kinh sách Phật học ngày nay được diễn giải,
dịch giảng ra thành nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau và được lan truyền nhanh chóng
bằng xa lộ thông tin Internet. Điều này giúp cho người học Phật ngày nay dễ
dàng tiếp cận được giáo lý Phật học. Tuy nhiên, có một sự thật là phần đa nếu
không muốn nói rằng tất cả các bản dịch kinh Phật ngày nay đều do những học
giả, những nhà nghiên cứu Phật học cũng như giới sa môn nghĩa học dịch giải. Do
việc dịch kinh sách Phật học được thực hiện bởi môn đồ tri giải nên khó tránh
khỏi việc “Y kinh giải nghĩa Tam thế Phật oan”, do đó, hầu hết các bản dịch
kinh đều rơi vào tình trạng bất liễu nghĩa.
Việc xem kinh Phật không được dịch giải rõ
nghĩa dễ khiến người học Phật mê mờ sự chân ngụy, chánh tà có nơi pho Tam Tạng
kinh. Những giai thoại bay bổng về sự ra đời của vị Phật Thích Ca, những câu
truyện tiền kiếp của Phật và môn đồ đã bị người học Phật ngộ nhận, hiểu biết
sai lạc, lộng giả thành chân.
Đơn cử như việc tiền thân Phật là một vị bồ
tát đã gieo mình xuống vực chết để hổ mẹ có thịt ăn nhằm có sữa nuôi đàn con và
người học Phật tin rằng chuyện đó có thật, điều đó thể hiện tâm từ bi bất khả
tư nghì của Phật.
Hoặc câu truyện tiền thân Phật là một vị bồ
tát xả thí vợ con cho một người hèn hạ và người học Phật đã tin rằng chuyện đó
có thật, điều đó thể hiện sự xả ly bất khả tư nghì của Phật Thích Ca.
Hoặc câu truyện tiền thân khi Phật là con
nai, con chim, cội cây,… Và người học Phật tin nhận những điều huyền hoặc đó,
tin nhận tiền kiếp của Phật và đồ chúng đã từng như thế… như thế.
Ở thế kỷ 21, lẽ ra người học Phật phải sáng
suốt, phải khôn ngoan hơn để nhận ra rằng đấy là những câu truyện ngụ ngôn mà
Phật cùng với những vị trí giả thuở xưa kể ra nhằm truyền tải những thông điệp
mang tính nhân văn.
…
Với đại đa số người học Phật xưa nay, Phật
Thích Ca là người có rất nhiều phép thuật, người chứng ngộ giác ngộ giải thoát
phải có rất nhiều thần thông. Không chỉ vậy, thần thông của Phật còn thuộc vào
hạng vô đối, thần thông của Phật phải là vô biên với khả năng biến hóa ngụy dị,
khôn lường.
Vị Phật gần gũi, chân chất từng bước đi trên
đôi chân trần qua các vùng miền, lãnh thổ ở những nước quanh lưu vực sông Hằng
bị người học Phật ép buộc phải có thần thông, phải có bùa chú, phải có quyền
phép “trảm yêu, trừ ma”.
…
Phim ảnh ngày nay đã dựng lên những câu
chuyện hoàn toàn không thật đúng về hành trạng, cuộc đời Phật Thích Ca, những
câu truyện cổ tích ở khắp mọi nơi đã khắc họa nên ông Bụt (Phật), bà tiên với
nhiều phép lạ, với khả năng hóa hiện mọi lúc, mọi nơi. Và đã có biết bao người
học Phật, người đời mê đắm vào những điều huyền hoặc, huyễn hóa ở phép màu của
Trời, Phật mà tìm đến đạo Phật. Với rất nhiều người học Phật, niềm tin tâm linh
của họ gửi vào quyền năng, thần thông biến hiện bất khả tư nghì của chư Phật,
của Phật Thích Ca.
Giai thoại, truyền thuyết, những câu truyện
cổ tích, những câu truyện ngụ ngôn mà Giác Giả cũng như các vị Trí Giả thông
qua giáo lý chánh pháp truyền tải đến người nghe những thông điệp mang tính
nhân văn, sự từ bi, tâm xả ly,… ngõ hầu giúp người tham đắm, si mê từng bước
nhận diện và bước đi trên con đường giác ngộ giải thoát đã bị người đời, người
học Phật ngộ nhận và lầm tin.
…
Ngày nay, người học đạo có rất nhiều dạng
khác nhau. Và việc tiếp cận giáo lý, pháp hành của rất nhiều hệ thống tôn giáo
khác nhau cũng đã góp phần khiến cho người học Phật cả tin rằng Phật nhất thiết
phải có thần thông, quyền phép vô đối. Song đấy là cái thấy, là định kiến lầm
lạc bởi lẽ người chứng ngộ giải thoát hoàn toàn nhất thiết phải xả ly tất cả,
thoát ra mọi sự ràng buộc. Bùa phép, thần thông, huyễn thuật,… đó là hiện tướng
của sự ràng buộc, đó chẳng phải là chỗ đến, là chỗ chứa giữ của hành nhân rốt
ráo buông xả, chứng ngộ pháp vô sanh.
Hiển nhiên là trên bước đường tìm đạo, hành
đạo, trì chú, thiền định,… hành nhân sẽ chạm đến những điều mầu nhiệm, những
khả năng huyền thuật, điển hình như việc xuất thần thức rời thân thâm nhập các
cõi giới vô hình, việc chúng sinh nẻo không thân tìm đến thử thách,… Chạm đến
những điều đó, quen dần và rồi hành nhân chân chính chốn Phật môn sẽ xả bỏ một
cách không luyến tiếc, xả bỏ một cách dứt khoát ngõ hầu liễu thông “Vạn pháp
duy tâm, Tam giới duy thức” mà rốt ráo vượt thoát nhân quả luân hồi, sinh tử
trả vay. Và thế là người chứng ngộ rốt ráo chưa từng sinh ra nên thâm đạt Vô
Thường, Khổ, Không, Vô Ngã.
Vậy Phật có Tam Minh, Lục Thông như lời đồn
đãi hay không?
Lẽ dĩ nhiên là Phật sẽ có Tam Minh, Lục
Thông nhưng Tam Minh, Lục Thông của Phật quả thật không giống như những lời đồn
đãi. Lời đồn đãi về Tam Minh, Lục Thông của Phật đã bị bóp méo, bị diễn giải
không liễu nghĩa theo lối “Y kinh giải nghĩa Tam Thế Phật oan”.
Từ bấy lâu nay Tam Minh, Lục Thông của Phật
được diễn giải như sau:
Tam Minh với Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh,
Lậu Tận Minh. Túc Mạng Minh là tuệ giác sáng suốt biết rõ diễn biến mọi kiếp
sống từ quá khứ, hiện tại đến vị lai của chính mình và muôn loài chúng sinh.
Thiên Nhãn Minh là tuệ giác sáng suốt thấy rõ tất cả mọi hình sắc ở gần hay ở
xa trong Tam giới, thấy rõ mọi tướng khổ vui của tất cả chúng sinh trong sáu
nẻo luân hồi. Lậu Tận Minh là tuệ giác sáng suốt nhận biết tất cả các phiền não
cũng như các pháp đoạn trừ phiền não của mình cũng như của mọi loài chúng sanh
để được an lạc.
Lục Thông với:
1.
Thân như ý thông còn gọi là Thần túc thông: Khả năng biến hiện tuỳ
theo ý muốn, thân có thể bay lên trời, đi trên biển, chui vào trong núi, một
thân biến nhiều thân... tất cả mọi động tác đều tuỳ theo ý muốn, không hề
chướng ngại.
2.
Thiên nhãn thông: Khả năng nhìn thấy tất cả
mọi hình sắc ở gần hay ở xa trong cả thế gian, nhìn thấy mọi hình tướng khổ vui
của chúng sinh trong sáu
nẻo luân hồi.
3.
Thiên nhĩ thông: Khả năng nghe và hiểu hết
mọi âm thanh trong thế gian, nghe và hiểu hết mọi ngôn ngữ của chúng sinh trong
sáu nẻo luân hồi.
4.
Tha tâm thông: Khả năng biết hết tất cả mọi
ý nghĩ trong tâm của chúng sinh trong lục đạo.
5.
Túc mệnh thông: Đối với bậc toàn giác (Đức
Phật), ngài biết được vô lượng kiếp trước, kiếp sau của chính bản thân mình và
của chúng sinh trong lục đạo, nhớ rõ sinh ra ở đâu, cha mẹ là ai, tên gì, làm
gì... Đối với các bậc A-la-hán khi chứng ngộ cũng chỉ có thể nhớ được 360 kiếp
quá khứ, 360 kiếp vị lai chứ không phải là vô lượng. Giới hạn này tương ứng với
vòng ứng nghiệp của chư vị Tỳ Kheo trong Ta Bà cõi.
6.
Lậu tận thông: Lậu tức là kiến hoặc và tư
hoặc trong ba cõi. Lậu tận thông là dứt trừ
toàn bộ kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi, không còn sinh tử luân hồi trong ba
cõi, được giải thoát hoàn toàn.
Tam Minh, Lục Thông còn được diễn nghĩa với
nhiều dị bản khác nhau song tựu trung lại người tham cứu Tam Minh, Lục Thông sẽ
bị trói vào tri kiến mê lầm với khả năng thần thông biến hóa của Phật là vô
đối, là bất khả tư nghì. Và Phật sẽ biết rõ tất cả mọi kiếp sống của mọi loài
chúng sinh từ cổ chí kim, từ tiền kiếp, hiện kiếp đến hậu kiếp.
Và với Tam Minh, Lục Thông thì việc thành
Phật trở nên rất đáng ước ao, việc thành Phật thật rất mê hoặc đối với những
người mê huyền, đắm diệu. Việc thành Phật với Tam Minh, Lục Thông qua lời đồn
đãi trở nên bất khả tri và bất khả thi.
Thực tế là Tam Minh, Lục Thông của Phật
Thích Ca, của người chứng ngộ giác ngộ giải thoát không hoang đường, huyễn hoặc
như thế.
Thời Phật Thích Ca tại thế, cụm từ Tam Minh,
Lục Thông e rằng người học Phật sẽ không hề nghe đến. Mãi đến 300, 400 năm sau
khi Phật Thích Ca nhập diệt thì việc chứng đắc, khả năng Tam Minh, Lục Thông
mới được người học Phật biết đến và rộng truyền. Sở dĩ việc chứng đắc cùng Tam
Minh, Lục Thông được phổ truyền vào tri kiến người học Phật là do ngoại đạo với
sự canh tân giáo lý cùng sự mê huyền đắm diệu của người đương thời đã phác họa
ra hiện cảnh ngoại đạo đắc pháp có Ngũ Thông với Thần Túc Thông, Thiên Nhãn
Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mệnh Thông. Và người đương thời còn
trong lưới vô minh đã bị Ngũ Thông của ngoại đạo mê hoặc mà xa rời chánh pháp
do Phật Thích Ca trao truyền. Việc người học Phật, hành theo chánh pháp lại bị
chê bai kém cỏi, hạ liệt ở các cuộc biện luận đấu pháp có sự hiện diện của dòng
dõi Sát đế lợi, Bà la môn đã khiến đạo Phật rơi vào hiểm cảnh diệt môn, hủy
giáo.
Thời may thông qua giáo lý giác ngộ giải
thoát của Phật vị Giác Giả thứ hai xuất sinh trong lòng nhân loại với việc
chứng ngộ pháp vô sanh cùng với việc lưu xuất trí tuệ bát nhã. Vị Giác Giả thứ
hai đã dấn thân hoằng pháp, đánh bại các luận thuyết ngoại đạo. Bằng vào nhạo
thuyết biện tài vị Giác Giả thứ hai nhiếp phục ngoại đạo Bà la môn, Sát đế lợi
từng bước khôi phục, chấn hưng đạo Phật đưa đạo Phật phát triển lên một tầm cao
mới. Từ đó, thông qua việc phổ truyền kinh điển Phật giáo phát triển đại thừa,
tính phổ truyền của giáo lý chánh pháp được lan tỏa mạnh mẽ mang tính dấn thân
và việc chứng ngộ, Tam Minh, Lục Thông được xác lập nhằm hóa giải hoàn toàn
quyền phép Ngũ Thông còn trong lưới vô minh của ngoại đạo.
Thực tế là Lục Thông của Phật chỉ hơn Ngũ
Thông của ngoại đạo ở Lậu Tận Thông tức là sự dứt trừ phiền não cũng như việc
sinh tử luân hồi, đạt được sự giải thoát hoàn toàn.
Chi tiết này đã thể hiện điều gì?
Ngoại đạo cho dù ôm giữ, chấp chặt vô minh
với Ngũ Thông biến hóa đa đoan, khôn lường thì cũng chỉ là việc sinh tử trôi
lăn nơi lưới mộng luân hồi. Biết tiền kiếp, hiện kiếp, hậu kiếp của chính mình,
của tất cả mọi loài mà vẫn không thể liễu thoát sinh tử cho chính mình thì đấy
là việc tự “lừa mình, dối người” mà thôi.
Tri thức, sự hiểu biết của người xưa hãy còn
nông cạn, kém cỏi khó tránh khỏi việc tà sư, yêu đạo lừa mị, mê hoặc, dối lừa.
Song ngày nay sự hiểu biết của loài người đã
nâng cao thì lẽ ra người học Phật phải nhận biết việc nói về tiền kiếp, hiện
kiếp, hậu kiếp phần đa chỉ là những lời nói bừa, nói càn, khẩu thuyết vô bằng.
Do đó nên người học Phật chân chính, đúng mực với chánh kiến, chánh tư duy,
chánh nhận thức sẽ rõ biết việc nói về tiền kiếp của ngoại đạo, của những kẻ
“ông ứng, bà hành” là những lời dối lừa, gian dối. Và người hành đạo chân chính
sống với chánh nghiệp, chánh ngữ sẽ không bao giờ đem chuyện tiền kiếp, hậu
kiếp mê hoặc người học đạo cũng như đàn na tín thí.
Có một điều rất thật là dù rằng Tam Minh,
Lục Thông bị diễn giải sai lệch giáo lý chánh pháp đều ám chỉ việc Phật sẽ biết
tất, biết tuốt mọi chi tiết về tiền kiếp, hiện kiếp, hậu kiếp của mọi loài
chúng sinh nhưng trong giáo lý Tam Tạng Kinh Phật không lạm dùng nói về hiện
kiếp, hậu kiếp của bất kỳ chúng sinh nào cả.
Vì sao?
Vì hơn ai hết vị Giác Giả thứ hai, những
người chứng ngộ thật sự đều rõ biết “Nhân Thay, Quả Sẽ Đổi”, thế nên lấy gì để
xác thực, quả quyết rằng chúng sinh đó sẽ thành gì, người hay vật, ở chỗ này
hay nơi kia,… Người chứng ngộ không là những ông thầy bói mù vì miếng cơm, manh
áo, vì danh lợi mà mạnh miệng mê hoặc, dối lừa chúng sinh nơi Tam giới!
Có một điều duy nhất về hậu kiếp của chúng
sinh nơi Tam giới mà Phật khẳng khái xác quyết, đó là “Ta là Phật đã thành,
chúng sanh là Phật sẽ thành”. Phật, Giác Giả sẽ xác thực điều đó bởi vì Phật,
Giác Giả biết rằng sau những năm tháng trôi lăn với mệt nhoài những phiền muộn,
tử sinh nhân vay, quả trả bất kỳ chúng sinh nào rồi cũng sẽ mong muốn sự giải
thoát, tìm về sự giác ngộ và trải qua những gian truân, lao nhọc tất cả mọi
chúng sinh sẽ nhận ra vô minh, nhận ra sự mê lầm của chính mình bằng tánh giác
thường tại mà mọi chúng sinh luôn chấp giữ trong những tấn tuồng luân hồi sinh
tử.
Vậy Tam Minh, Lục Thông của Phật, của vị
Giác Giả thứ hai phải chăng là sự dối lừa?
Phật, Giác Giả đã gian dối khi nói rằng có
tuệ tri sáng suốt rõ biết về tiền kiếp, hiện kiếp, hậu kiếp của mọi loài chúng
sinh chăng?
Không. Phật, Giác Giả không giả trá, dối lừa
chúng sinh nơi Tam Giới. Bằng vào trí tuệ bát nhã Phật, Giác Giả đã thấu suốt
tiền kiếp, hiện kiếp, hậu kiếp của mọi loài chúng sinh. Khi nói về tiền kiếp,
hiện kiếp, hậu kiếp của mọi loài chúng sinh bằng Tam Minh, Lục Thông Phật, Giác
Giả đã trình bày về Báo Thân, Hóa Thân của chính mình cũng đồng thời là của mọi
loài chúng sinh.
Ngày thành đạo, Phật liễu thông vạn pháp,
chứng ngộ pháp vô sanh biết rằng tự thân vì vô minh mà trôi lăn miệt mài nơi
lưới mộng luân hồi sinh tử với nhân vay, quả trả, duyên nghiệp chằng chịt. Phật
biết rằng mình đã trải qua Hóa Sanh, Thấp Sanh, Noãn Sanh, Thai Sanh với vô vàn
việc “thay khuôn, đổi mặt”, “thay hình, đổi dạng, “mang lông, đội vảy”,… Tất cả
các kiếp sống của mọi loài do vô minh mà mình đều phải trải qua không chỉ một
lần mà với hằng hà sa số kiếp nhào lên, lộn xuống. Và Phật rõ biết không chỉ
riêng mình như thế mà là tất cả mọi loài chúng sinh nơi Tam giới đều đã như
thế. Trước đây, bây giờ và sau này chúng sinh nơi Tam giới với nhân vay, quả
trả cùng vô minh mà tiếp tục luân hồi tái diễn những tấn tuồng sinh tử hóa hiện
bất tận. Và rồi sự nhàm chán cùng phiền não sẽ khiến cho chúng sinh bước ra
khỏi mộng ảo luân hồi bằng vào việc chứng nhập pháp vô sanh, tan rã hoàn toàn
như chưa từng sinh ra.
Tam Minh, Lục Thông của Phật mộc mạc, chân
thật như thế đấy. Phật thấy mình trong hạt cát, trong giọt sương, trong hình dáng
con nai, dòng sông, ngọn núi,… và chúng sinh nơi Tam giới cũng hiện diện, trôi
lăn trong dòng chảy luân hồi. Phật biết mình đã từng như thế là do vô minh, là
do chấp thủ vào sinh tử với Tiểu ngã (Atman), Đại ngã (Braham). Thoát ra mọi
tri kiến mê lầm chúng sinh thành Phật.
Bạn hỏi làm thế nào để thành Phật?
Người khác sẽ khuyên bạn rằng hãy tu đi, hãy
hành đi với niệm Phật, trì chú, thiền định, thiền quán với Tứ niệm xứ,
Vipassana, Khán thoại đầu hay thiền luân xa hoặc việc Truyền Tâm Ấn, Đại Thủ
Ấn,…
Ngạo Thuyết sẽ không khuyên bạn cứng nhắc
vào những điều như thế, Ngạo Thuyết sẽ nói với bạn rằng hãy tham khảo sự hiểu
biết đúng mực về chánh pháp, hãy xem kinh sách liễu nghĩa rồi thì việc làm sẽ
tương ưng tức dụng tự lưu xuất, dụng tự lưu xuất là pháp hành khế hợp với bạn
nhất. Và trợ duyên thù thắng giúp bạn “Minh tâm, kiến tánh” là việc thiền định,
lắng lòng, sống chậm lại ngõ hầu “Nước trong, trăng hiện”.
Đạo Phật là đạo của trí tuệ, của sự hiểu
biết. Việc dùng trí tuệ nhìn vào vạn pháp, vào mọi luận thuyết ngõ hầu trạch
pháp, minh định chánh tà, chân ngụy tức là việc tự thắp đuốc mà đi nơi mỗi
người.
Quả thật, ai rồi cũng sẽ thành Phật đã
thành. Vấn đề chỉ là sự chọn lựa của mỗi người và thời gian cũng như phiền não
mà mỗi người phải đối mặt. Và sự hiểu biết sẽ là chìa khóa giúp muôn sinh vượt
thoát sinh tử luân hồi.
Để thấu tỏ thêm về Tam Minh, Lục Thông của
Phật người học Phật hãy nên nhớ Giác Giả từng nói rằng “Trong cái tất cả có cái
một, trong cái một có cái tất cả” và Bồ tát đại thần thông có thể nhét núi Tu
Di vào hạt cải cũng như lấy núi Tu Di ra từ hạt cải. Thế nên Phật Thích Ca, vị
Giác Giả thứ hai đâu cần phải quán chiếu, nhận diện tiền kiếp, hiện kiếp, hậu
kiếp từng loài đến mọi loài chúng sinh nơi Tam Giới, người chứng ngộ chỉ cần rõ
biết chính mình.
…
Hẳn là nếu bỏ xuống tâm hẹp hòi, hoài nghi,
đố kỵ, đặt xuống những định kiến chấp thủ cực đoan, cứng nhắc người học Phật
(nói riêng), người đời (nói chung) sẽ dễ dàng chạm đến những điều mà Ngạo
Thuyết đã đang và sẽ trình bày. Bằng vào tuệ tri khách quan, sáng suốt, thuần
khiết người học đạo sẽ không quá khó để chạm đến giá trị chánh pháp đúng mực ẩn
tàng nơi đạo Phật chân phương, chánh thống.
…
Cách đây 9 năm Ngạo Thuyết đã sáng rõ về Tam
Minh, Lục Thông của Phật và nhiều điều nữa, Ngạo Thuyết biết rằng nếu trình bày
ra những điều như thế là việc làm xô đổ mọi tri thức mà nhân loại đang chấp
thủ. Việc xô đổ tri thức nhân loại hiển nhiên sẽ đụng chạm mọi thành phần, tầng
lớp xã hội, đây là một việc làm có tính “gây thù, chuốc oán”. Và để hóa giải
phần nào những oán thừa Ngạo Thuyết có một lời phát nguyện rằng:
“Ngạo Thuyết không còn cần đến đôi mắt, trái
tim, lá gan, quả thận và 3 lít máu, thế nên bất kỳ ai cần cứ việc đến lấy. Ngạo
Thuyết sẽ dâng tặng mà không đòi hỏi bất cứ một điều gì”.
Đã 9 năm qua rồi, Ngạo Thuyết vẫn còn vẹn
nguyên song cũng không biết lúc nào sẽ có người cần đến. Với lời đã hứa về việc
xả bỏ thân mạng Ngạo Thuyết vẫn sẽ giữ vẹn. Khi những bài viết của Ngạo Thuyết
rộng truyền thì số người biết đến lời hứa của Ngạo Thuyết sẽ nhiều hơn và hẳn
là sẽ có người thật sự cần những thứ mà đến nay Ngạo Thuyết không cần nữa.
Ngạo Thuyết muốn nhắn gửi các bạn điều gì?
Người xưa nói “Không sợ nhất vạn, chỉ e vạn
nhất”, với Ngạo Thuyết không là sự được mất. Chỉ là với các bạn, vậy nên mọi
người hãy nên trân trọng những gì hiện có.
Chớ mê huyền, đắm diệu, sa ngã vào huyễn
thuật, bùa chú. Hãy bước trên đôi chân mình và tự thắp đuốc mà đi!
Vạn nhất 1, 2 năm nữa Ngạo Thuyết vắng bóng
thì hẳn là việc làm đã xong, Ngạo Thuyết xa rời bến mộng.
Có một điều Ngạo Thuyết cần xác thực là
không bao giờ Ngạo Thuyết mượn nick Ngạo Thuyết hay trang Tương Tác Phật Học
Online hay blog Một Thoáng Phương Đông làm phương tiện thu đoạt tài vật, tiền
của từ mọi người. Trân trọng!
Cảm ơn mọi người đã tham khảo bài viết!
Bài viết tiếp theo sẽ là Chân Tướng Oan Gia
Trái Chủ, Cầu Siêu, Giải Hạn...
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét