Đạo Phật Đương Đại Lộng Chân Thành Giả
Thứ Năm, 11 tháng 7, 2019
Phật Giáo Đương Đại Lộng Chân Thành Giả
Phật giáo đương đại cũng tồn tại và phát triển
trong sự tùy thuận nhưng với những bước đi lệch lạc.
Vì lẽ con người ngày nay đã có nhiều hiểu biết,
người tu học thông qua giáo lý kinh điển rồi sinh hiểu, chấp lấy cái hiểu đó và
cho rằng - Đó là chân lý.
Người học vướng vào sở tri chướng, bị cái thấy
nghe hay biết của bản thân làm chướng ngại đường tu.
Nhưng trên thực tế kinh Phật không phải là chân
lý. Kinh Phật chỉ là phương tiện. Kinh Phật là ngón tay chỉ mặt trăng. Do vướng
vào kiến chấp, người tu học đã ngộ nhận ngón tay là mặt trăng từ đó không nhìn
thấy mặt trăng và mê lầm không nhận ra ngón tay chính là phương tiện mà Đức
Phật đã dùng nhằm giúp chúng sinh trong 3 cõi nhận rõ mặt trăng - là sự giác
ngộ, giải thoát hoàn toàn.
Nói cách khác, kinh Phật chỉ là chiếc bè giúp mọi
chúng sinh sang bờ giải thoát nhưng con người đã nhầm lẫn khi mơ hồ nhìn thấy
chiếc bè thì vội khởi nghĩ đã sang đến bờ bên kia. Số khác lại ôm ảo tưởng ngồi
giữ chặt lấy chiếc bè. Như Lai gọi những chúng sinh mê mờ kia là “Thật đáng
thương xót! Là điên đảo thêm điên đảo”.
Phật sớm nhận ra nhân loại sẽ rơi vào việc chấp pháp.
Trước khi nhập diệt, Phật rốt ráo giải trừ bệnh chấp pháp ở người học Phật
thông qua lập ngôn “Bốn mươi chín năm ta chưa từng nói một lời”.
Hiện nay, Phật giáo đã phát triển rộng khắp trên
phạm vi thế giới nhưng lại đánh mất đi giá trị thực tiễn. Khi Phật tại thế, mọi
người tìm đến tu học nhằm mục đích thoát ra khỏi bể khổ luân hồi.
Ngày nay, có lẽ do thiếu chân sư chỉ dẫn nên con
người đến với Phật giáo qua việc cúng bái, cầu nguyện, lễ lạy,… Con người chỉ
chú tâm làm việc phước đức, gieo nhân tốt ở cõi Trời, cõi Người.
Chí hướng xuất trần, cứu khổ chúng sinh trong 3
cõi chỉ là những lời nói “đầu môi chót lưỡi”. Và ngay cả những người xuất gia
cũng không còn tin vào con đường giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
Một số lượng không ít những người xuất gia đã không
còn nhận ra giá trị chân thật của pho Tam Tạng kinh.
Số người học Phật khác thì nhận biết rằng “Chỉ cần
học thuộc vài quyển kinh Phật thì lo gì không có “Cái ăn cái mặc””.
Họ đã đúng - Việc gìn giữ truyền trao Pháp bảo đã
tạo cho ngôi thứ ba trong Tam bảo có
được phước báu vô cùng lớn. Vì phước báu rất lớn khiến cho số đông Tăng bảo đã
không còn nhớ được mục đích việc học Phật của bản thân, rơi vào lợi dưỡng. Thật
đáng tiếc!
Trải qua thời gian lâu xa, sự tùy thuận của đạo
Phật và sự không thực chứng của những người học Phật đã khiến nhân loại không
nhận ra được sự chân thật của con đường giải thoát hoàn toàn và tính ứng dụng
thực tiễn của đạo Phật.
Thêm vào đó, việc phạm giới và cả việc rơi vào lợi
dưỡng, lợi danh,… của không ít vị Tăng bảo đã khiến nhân loại đang hoài nghi
giáo lý, kinh điển của đạo Phật.
Từ sự hoài nghi giáo lý nhà Phật nhân loại đã hoài
nghi cả chánh pháp dẫn đến việc bài bác đạo Phật.
Chủ nghĩa duy vật đã từng cố xóa bỏ chủ nghĩa duy
tâm. Việc này đã góp phần làm mai một sự hiểu biết của tri thức nhân loại về
thế giới tâm linh. Chánh pháp ẩn tàng trong kinh Phật vì thế cũng bị diễn giải
sai lạc.
Đạo Phật từ lâu đã trở thành một cái bình cổ được
trang trí hoa văn trang nhã, bóng bẩy,… bên ngoài với nắp đậy kín và dường như
thiếu đi cái cốt lõi tinh túy ở bên trong.
Tri thức nhân loại cũng đã cố công dùng nhận thức,
tư duy,… nhằm nhận biết bên trong chiếc bình cổ chứa đựng “vật gì” hay không?
Nhưng do dựa trên góc nhìn sai lệch và chủ quan,…
nên đã không thể nhận rõ được bên trong đạo Phật có hay không có “vật gì”?
Ngày nay, sự bùng nổ dân số toàn cầu, lối sống
thực dụng, ích kỷ, sự không hiểu biết về
sự tồn tại của thế giới tâm linh một cách khoa học,… Nhân loại đang lầm lạc não
hại nhau trong sự đau khổ, thù hận và chiến tranh. Điều này khiến cho trái đất
đứng trước nguy cơ hoại diệt.
Chỉ có chánh pháp mới có thể bảo đảm sự tồn vong
của nhân loại và trái đất.
Tôi rõ biết trong chiếc bình cổ có chứa đựng chánh
pháp. Cách duy nhất để giúp nhân loại nhận ra chánh pháp là tôi sẽ mở cái nắp
đậy kín của chiếc bình cổ quý giá nhằm giúp nhân loại nhìn rõ “vật” được chứa
đựng ở bên trong - Chánh pháp.
Khi người học Phật tìm hiểu, tham cứu kinh điển
Phật. Nhất là kinh Đại thừa. Nếu người tu học thiếu sự khách quan và sự hiểu
biết thì sẽ hiểu sai ý kinh. Điều này sẽ khiến người học Phật sẽ tin nhận thần
thông của Phật là cùng tột, khôn lường,… Phần lớn người học Phật tin rằng “Mỗi
khi Phật thuyết pháp là có hằng hà sa Bồ tát, A la hán, chư thiên, long thần hộ
pháp,… Đại diện cho chúng sinh trong 3 cõi 6 đường hội tụ về”...
Tôi không nói chúng sinh nẻo không thân là không
có. Thậm chí tôi đang chứng thực những chúng sinh đó thật sự có tồn tại.
Nhưng trong trường hợp này, người học Phật đã dùng
góc nhìn lệch lạc để nhìn nhận vấn đề. Trong khi những vị Tổ kết tập kinh điển
dùng đại diện của chúng sinh trong 6 nẻo và cả những vị Bồ tát, A la hán nhằm
chứng thực như là một phương tiện để khẳng định những điều trong kinh là lời
nói đúng thật do Phật thuyết nhằm giúp người học Phật sơ cơ, ít hiểu biết thời
xa xưa tin sâu, hành trì theo chánh pháp.
Ngày nay, sự hiểu biết nâng cao, những người theo
chủ nghĩa duy vật và khoa học đã hoài nghi tính chân thật của thần thông, cõi
giới vô hình nên không thể tin nhận kinh Phật.
Ngược lại, phần lớn người học Phật lầm lạc lại ngộ
nhận thần thông, thiên nhãn, bùa chú,… là chánh pháp, dẫn đến lạc lối đường tu.
Hình ảnh Phật hạ sinh ở bên hông mẹ, vừa sinh ra
đã bước bảy bước hiện ra bảy đóa sen cũng là do người đời sau thêu dệt. Đây là
sự tùy thuận truyền đạo của những người học Phật chưa đạt được sự tỏ ngộ cao
tột. Riêng câu nói “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” chính thật là lời
Phật nói sau ngày thành đạo.
Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp
cũng chỉ là do người đời sau dùng tâm phân biệt thần tượng hóa, thần thánh hóa
Đức Phật.
Trong kinh Kim Cang, Phật đã dùng một câu nói cảnh
tỉnh người học Phật. Câu nói “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” được diễn
dịch với hàm nghĩa “Bất kỳ vật gì có hình
tướng đều không thật vì chúng sẽ hư hoại, chuyển dịch do tự tánh vô thường của
vạn pháp”.
Về sau Phật giáo được truyền sang Trung Quốc, nhằm
hoằng dương Phật pháp một số người học Phật đã chuyển nơi tu tập, hóa thân của
những người đệ tử Phật từ Ấn Độ sang Trung Quốc.
Cụ thể, Phổ Hiền Bồ tát dời về Nga Mi Sơn thuộc
tỉnh Tứ Xuyên, Văn Thù Sư Lợi Bồ tát hóa thân tại Ngũ Đài Sơn thuộc tỉnh Sơn
Tây, Quan Thế Âm Bồ tát thị hiện ở Phổ Đà Sơn, nằm trên một đảo nhỏ gần Thượng
Hải, thuộc tỉnh Triết Giang, Địa Tạng Vương Bồ tát hóa thân ở Cửu Hoa Sơn thuộc
tỉnh An Huy,…
Người học Phật ngày nay ngộ nhận tâm Phật dẫn đến
việc tham học kinh điển sai lạc. Lẽ ra người học Phật tham cứu, hành trì chuyển
kinh Thủ lăng nghiêm về tự tâm.
Vì lẽ người học Phật mà lại không rõ biết - Tâm là
gì? Tâm ở đâu? - thì làm sao có thể hành trì chạm đến sự giác ngộ giải thoát.
Việc trì tụng kinh ở các chùa, các tự viện,… theo
khuynh hướng “Lấy ngọn bỏ gốc” khiến người học Phật càng thêm mê mờ, lầm lạc,…
không thể nhận biết chân ngụy.
Tịnh độ tông, Phật giáo Bắc Tông chú trọng đọc
tụng Kinh A Di Đà, kinh Vu Lan, kinh Địa Tạng,… đã dẫn đến việc ngộ nhận cho
người học Phật. Người học Phật tin rằng người đã khuất có thể vãng sinh tịnh độ
khi được người sống cầu siêu, cầu vãng sinh,... Vậy thì người học Phật chỉ cần
siêng năng cầu vãng sinh cho người chết và việc làm đó sẽ giúp cõi Tây Phương
mở cánh cửa đón họ khi họ không còn.
Ngoài ra, nhằm để gieo duyên tốt người tu học sẽ
không ngừng cầu nguyện, lễ lạy, cúng bái,… với rất nhiều nghi thức, đồ cúng lễ:
Quần áo, nhà cửa, tiền bạc, ti vi, xe máy,… gửi cho Trời Phật, người đã khuất
sử dụng.
Khi khách quan nhận xét, tri thức nhân loại sẽ
nhận thấy Phật giáo đã tùy thuận tiêm nhiễm lễ nghi của Nho giáo và tục lệ thờ
cúng ông bà, tổ tiên của truyền thống văn hóa phương Đông.
...
Do việc “Lấy ngọn bỏ gốc” và tiêm nhiễm những hủ
tục, nghi lễ rườm rà,… Phật giáo đương đại đã khiến cho nhân loại ngộ nhận Phật
giáo đã gieo rắc sự mê tín, dị đoan vào xã hội loài người.
Thiền tông tách pháp môn tâm truyền tâm, rời ngôn
ngữ, lời nói, tạo tông giáo riêng. Chú trọng thiền tọa, thiền hành.
Mặt khác, do ảnh hưởng qua lại với đạo Lão khiến
người học Phật thiếu hiểu biết đời sau ngộ nhận. Người học Phật là phải tạo
“thánh thai” trong thân huyễn - huyễn thân, rồi xuất huyễn thân ra khỏi thân,…
Một số người học Phật khác lại xa rời giáo lý,
chuyên tâm thiền định đạt được chút ít tỏ ngộ, đã vội nghĩ tưởng thông hiểu
pháp Phật. Do chưa buông bỏ được cái tôi người học Phật đã vội nhập thế, tự lập
tông giáo, khinh sư diệt Phật, gây thêm nhiều lầm lạc, ngộ nhận cho người đời
sau.
Mật tông thì rơi vào bùa chú, ấn quyết,… Việc tiếp
xúc với thế giới tâm linh, khiến người học Phật sơ cơ rơi vào đường rẽ thần
thông, độ vong, thiên nhãn,… Việc này góp phần làm người học Phật đời sau xa
rời chánh pháp. Việc cầu nguyện, cúng bái, lễ lạy,… bị lạm dụng thái quá khiến
nhân loại không còn nhận ra chân giá trị Tam Tạng Kinh và chánh pháp.
Ở góc nhìn tổng thể, nhân loại hiện nay có rất
nhiều truyền thống tín ngưỡng tâm linh, cũng có không ít người theo chủ nghĩa
vô thần. Nếu việc cầu nguyện, cúng bái,… của người sống giúp những người đã
khuất có tín ngưỡng tâm linh siêu sinh thì những người đã mất không có tín
ngưỡng tâm linh sẽ không được luân hồi trở lại. Việc này đồng nghĩa với sự tịch
diệt.
Phải chăng những người đã khuất đó được thể nhập
Niết bàn tịch diệt?
Thêm nữa, đạo Thiên Chúa, Tin Lành,… không nhang
đèn, không có tục lệ thờ cúng ông bà, tổ tiên và người thân thì những người
thân đã mất của họ sẽ vĩnh viễn ở trên thiên đàng hoặc mãi mãi chịu hành hạ ở
địa ngục hoặc chịu cảnh đói khát, không cơm ăn, áo mặc,...
Thật không có lý lẽ đó. Bất kỳ chúng sinh nào
trong 6 đường đều phải siêu sinh, luân hồi chỉ có những người hành trì hòa cái
tôi vào không đại thì mới đạt được sự thoát khỏi luân hồi.
Việc chia chẻ đạo Phật ra thành nhiều tông giáo,
sự không thực chứng của những người học Phật đã khiến kinh Phật trở nên mập mờ,
thật giả khó phân định.
Trong khi Phật và các vị Tổ dùng các phương tiện
giả lập nhằm hiển bày chánh pháp chân thật - Lộng giả thành chân - thì người
học Phật ngày nay lại nhận lấy những phương tiện giả lập làm thật và xa rời,
quên bỏ chánh pháp - Lộng chân thành giả.
Việc không ít Tăng bảo rơi vào lợi dưỡng, lợi
danh, tài vật,… và việc phạm những giới cấm của các vị Tăng bảo. Sự không rõ
tâm Phật của người học Phật, đệ tử Phật đã gom góp tiền của, đất đai, … nhằm
xây dựng chùa to, Phật lớn. Là nguyên nhân gây ra sự tranh giành địa vị, quyền
lợi,… của các vị Tăng bảo ở các ngôi chùa.
Những việc “Trái tai, gai mắt” trên làm chướng
ngại cho những người học Phật sơ cơ và cả những người tu học chân chính.
Cụ thể, giả như tôi chưa từng có sự hiểu biết về
đạo Phật. Chẳng may tôi gặp một biến cố rất khổ đau. Những thiện tri thức đoái
thương chỉ bày cho tôi biết về đạo Phật và khuyên tôi muốn thoát khổ thì hãy
quy y Tam bảo. Tôi thật lòng muốn thoát khổ, vượt khỏi 6 đường.
Tôi sẽ xin về chùa phụng sự Tam bảo nhưng khi tôi
tận mắt chứng kiến sự tranh danh, đoạt lợi và việc phạm giới của các vị Tăng
bảo thì tôi sẽ có tâm trạng ra sao?
Mặc dù mới là người học Phật sơ cơ thì tôi vẫn
phải nhận biết - Đó không phải là chánh pháp.
Niềm tin về đạo lý giải thoát của tôi lúc đó còn
không?
Tôi trốn chạy khổ não ở đời, lánh vào đạo tìm con
đường giải thoát mà lại bị cướp mất niềm tin. Sự hụt hẫng sẽ khiến tôi chơi vơi
không thể sống ở đời và cả trong đạo. Có lẽ khi đó tôi thật sự rất đáng thương
và tuyệt vọng.
Việc lạm dụng cầu nguyện, cúng bái, bùa chú,… sẽ
khiến những người có sự hiểu biết nhất định về khoa học, chủ nghĩa duy vật hoài
nghi giá trị của chánh pháp.
Ngược lại, số người theo chủ thuyết duy tâm nhưng
có sự hiểu biết sai lạc lại tin nhận thần thông, pháp thuật huyễn hoặc,… là
chánh pháp, sống nhờ việc độ vong, cầu siêu, cầu vãng sanh,… hoặc là tạo duyên chờ trông Phật Di Lặc hiện thân thọ
ký Phật quả,...
Tại sao Phật Thích Ca và các vị Tổ lại thuyết pháp
và truyền trao kinh Phật chứa đựng rất nhiều điều huyễn hoặc, thần thông biến
hóa khôn lường,…?
Sự khác biệt bối cảnh xã hội giữa quá khứ và hiện
tại: Tri thức của phần lớn người xưa là không sâu rộng. Người xưa tin nhận chú
thuật, pháp lực,… của giáo chủ các tôn giáo khác, tin nhận thần thông của các
Đấng quyền năng,… Nhưng thần thông chân chính và cao tột nhất lại là chánh định
và sự hiểu biết.
Vì vậy Phật đã nhiếp phục những chủ thuyết, kiến
chấp,… sai lầm của các tôn giáo khác nhằm chỉ bày chánh pháp.
Bùa chú, huyễn thuật,… của các tôn giáo khác không
thể làm tổn hại Phật vì Phật có chánh định vững vàng.
Thực tế, bùa chú và thế giới vô hình không thể làm
hại những người có định tâm vững vàng. Thế nên, Phật đã dùng sự thật đó giả lập
làm phương tiện giúp người xưa tin nhận, hành trì chánh pháp.
Hiện tại, tri thức của nhân loại đã được nâng cao.
Bùa chú, thần thông, thế giới người đã khuất là những thứ huyễn hóa, không dễ
nhìn thấy, nhận biết khi không có sự nghiên cứu, tìm hiểu chuyên sâu.
Thêm vào là sự sai lầm cơ bản, ngớ ngẩn của chủ
nghĩa vô thần, việc bị ngôn ngữ đánh lừa và trói buộc, tri thức nhân loại đã
hoài nghi bùa chú, huyễn thuật, kinh Phật, hoài nghi chánh pháp dẫn đến lầm lạc
chất chồng, trói con người vào trong khổ đau, trong vòng luân hồi sinh tử.
Tất cả sự lầm lạc trên sẽ hủy hoại chánh pháp, vùi
chôn đạo Phật. Tôi sẽ vì nhân loại chỉ ra những sự ngộ nhận, sai lầm,… đang tồn
tại trong đạo Phật và tri thức nhân loại. Hy vọng nhân loại sẽ sớm nhận rõ
chánh pháp và tin nhận con đường giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
Chánh pháp không thuộc về đạo Phật. Từ lâu, tri
thức nhân loại đã “cất giấu” chánh pháp vào đạo Phật. Về sau tri thức nhân loại
lại ngộ nhận đạo Phật là chiếc bình cổ, chánh pháp được cất trong chiếc bình
cổ. Ngày nay nhân loại đã không sống với chánh pháp gây não hại, đau khổ cho
nhau. Người biết thời không nói, người nói thời không biết khiến cho tri thức
nhân loại ngộ nhận, mê lầm.
Sống với tri thức, nhận thức sai lầm, nhân loại sẽ
bị hủy diệt trong khổ đau, thù hận.
Trái đất nổ tung, con người sẽ không còn nhưng
chết không phải là hết. Sự sống luôn tồn tại cho dù nhân loại không nhìn thấy
và nhận biết. Tôi đã cất công mở cái nắp của chiếc bình cổ hiển bày chánh pháp
chân thật, gần gũi.
Việc cần làm của nhân loại bây giờ là chọn lựa
sống với chánh pháp, giải thoát hoàn toàn hay chọn lựa sống với khổ đau, thù
hận và luân hồi trong 3 cõi 6 đường?
Bài liên quan
Home
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét