Hiển Bày Sự Chân Thật Con Đường Phật Thích Ca Đã Đi
Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2019
Hiển
Bày Sự Chân Thật Con Đường Phật Thích Ca Đã Đi
Tóm lược lại con đường
tìm đạo và hành đạo của Đức Phật Thích Ca:
Sau khi nhận biết vòng
tròn sinh lão bệnh tử của một đời người và sự hiểu biết về luân hồi có trong bộ
kinh Vệ Đà thuộc đạo Bà La Môn, thái tử Tất đạt đa nhận ra sự vô lý khi chúng
sinh trong 3 cõi phải lăn lên, lộn xuống trong 6 đường chịu muôn điều khổ não.
Đấng quyền năng là ai?
Tại sao phải trói buộc
con người trong cái vòng lẩn quẩn không có lối ra?
...
Người nhận định hẳn là
phải có một con đường nào đó để con người thoát ra khỏi vòng quay luân hồi.
Người học hỏi, tham cứu phần lớn giáo lý, kinh điển các tôn giáo khác nhưng vẫn
không tìm thấy lối thoát. Người đã thật sự bất an.
Tại sao con người phải
sống trong tám sự khổ - Sinh khổ, bệnh khổ, già khổ, chết khổ, khổ vì yêu
thương nhau mà phải chia lìa, khổ vì ghét nhau mà phải sống chung cùng, khổ vì
cầu mong mà không được, khổ vì ngũ ấm - sắc thọ tưởng hành thức xung đột, chống
trái lẫn nhau trong thân tâm gây bệnh tật, phiền muộn và khổ đau?
Con người phải chăng
chết là hết?
Sự bất an nung nấu mãnh
liệt trong tâm thái tử Tất đạt đa. Người
nghĩ Người cần phải tìm cho ra con đường giải thoát cho bản thân và cho nhân
loại. Nhưng Người chưa thể đi tìm đạo vì nàng Da du đà la đang mang thai đứa
con của chàng. Người nhận ra Người rất yêu thương vợ và cả đứa con còn nằm
trong bụng. Người mơ hồ nhận ra chính tình yêu thương đã trói chân Người và có
thể chính tình yêu thương đã trói con người vào luân hồi.
Ngày Da du đà la hạ
sinh La hầu la, trái tim Người như muốn vỡ tung. Người thật sự cảm nhận được sự
mong manh của một đời người. Người đã tự nghĩ “Cái chết có thể đến với con
chàng, vợ chàng và ngay cả chàng bất cứ lúc nào”.
Sở dĩ Thái tử Tất đạt
đa có những ý nghĩ “đáng sợ” như vậy bởi vì ngày xưa vì sinh chàng mà mẹ chàng,
hoàng hậu Ma da đã phải chết.
Từ những hình ảnh,
những suy nghĩ đó,… có một sự thôi thúc mãnh liệt Người hiểu rằng “Đã đến lúc
Người phải ra đi”.
Sự rời bỏ hoàng cung ra
đi cho thấy Thái tử là một con người bình thường. Sự từ bỏ gia đình thể hiện
sự ích kỷ của thái tử. Thái tử mong muốn được thoát ra khỏi quy luật sinh
lão bệnh tử, thoát ra mọi khổ đau trong cuộc sống. Thái tử có niềm tin rằng
“Người sẽ tìm ra con đường giải thoát hoàn toàn cho chính mình”.
Với niềm tin, định lực
hùng mạnh, Người đã dũng mãnh xuất ly và tìm đến học hỏi những vị thầy danh
tiếng.
Sau khi tham cứu giáo
lý, Người hành trì thiền định tinh tấn và mau chóng đạt được trạng thái thiền
vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ. Người đạt được trạng thái an lạc,
tự tại khi nhập thiền.
Trong quá trình hành
trì, những trạng thái thiền định giúp Người biết rằng “Con người không phải
chết là hết”.
Khi xả thiền, Người vẫn
thấy tâm không an vì Người vẫn nghĩ, vẫn nhớ, vẫn lo lắng cho những người thân
và Người vẫn chưa có giải pháp đối trị những phiền não đó. Người cũng nhận biết
“Người sẽ không học được gì thêm ở những người thầy”.
Người quyết định ra đi,
Người ra đi nhưng lại không biết là sẽ đi về đâu?
Người hoài nghi chính
sự hiểu biết của tự thân vì điều đó không giúp Người thoát ra những khổ não.
Kết quả của sự hoài
nghi đã khiến Người thực hành pháp tu khổ hạnh với ý nghĩ “Việc chối bỏ sự tồn
tại của xác thân, giải thoát khỏi xác thân có thể sẽ giúp con người giải thoát
khỏi tinh thần, tâm linh”.
Sự sai lầm về nhận thức
khiến Người phải trả giá bằng xác thân gầy ốm, tàn hoại và suýt chết. Thoát
chết sau khi thực hành pháp tu khổ hạnh giúp Người nhận định rõ vấn đề - Sẽ không
có việc giải thoát hoàn toàn tâm ý bằng việc hủy hoại thân thể. Một tấm thân
tàn hoại khó thể chứa đựng tâm trạng an lạc, tự tại.
Người từ bỏ việc tu khổ
hạnh và Người nhớ đã không ít lần Người đạt được sự an lạc, tự tại. Đó là những
lúc Người dừng lặng, buông bỏ mọi vướng bận,… Người nhận ra có một tia hy vọng.
Dường như đây là cánh cửa của sự giải thoát. Người tìm đến cội bồ đề để thiền
định.
Sau khi giữ tâm tĩnh
lặng một thời gian dài lâu, tất cả những sự hiểu biết về cuộc sống, giáo lý
kinh điển các tôn giáo, mục đích của việc rời bỏ gia đình,… lần lượt tái hiện
trong tâm trí của thái tử.
Những câu hỏi lớn được
đặt ra và nhanh chóng có câu trả lời hợp lý.
Đấng quyền năng là ai?
Có thật sự con người
phải cầu nguyện họ thì mới có được đời sống ấm no, hạnh phúc?
Phải chăng con người là
một món đồ chơi, là con rối của các Đấng quyền năng?
Việc buồn vui, được mất
của con người là nguồn vui của Đấng quyền năng. Nếu điều đó là đúng thì Đấng
quyền năng thật sự rất tầm thường.
Đấng quyền năng phán
quyết tội phước của con người thì ai sẽ là người phán quyết những việc đúng sai
của các Đấng quyền năng?
Nếu không có loài người
thì ai sẽ lễ lạy, cúng bái, nguyện cầu,… các Đấng quyền năng?
Phải chăng con người
không còn thì các Đấng quyền năng diệt mất?
Thật sự việc cầu nguyện
có giúp ích được con người không?
Người rõ biết Người đã
cầu nguyện các Đấng quyền năng với mong muốn được thoát khổ, tìm được con đường
giải thoát hoàn toàn.
Nhưng thực tế những khổ
đau vẫn đeo đuổi tâm trí Người, Người đã hóa giải chúng bằng những phương pháp
đối trị, bằng niềm tin sẽ tìm ra được con đường giải thoát hoàn toàn.
Qua quá trình quán
chiếu Người nhận ra các Đấng quyền năng không thể tạo ra loài người và vạn vật.
Khi con người diệt mất thì cũng sẽ không còn ai thừa nhận sự tồn tại của các
Đấng quyền năng. Điều này cho thấy sự tồn tại mối quan hệ nhân duyên chằng chịt
giữa các sự vật hiện tượng là tiền đề cho thuyết duyên sinh. Niềm tin kiên định
và sự hiểu biết giúp Người nhận ra “Người đã tìm được chiếc chìa khóa dùng để
mở cánh cửa giải thoát”.
Người tiếp tục quán
chiếu và nhận ra mọi sự vật hiện tượng đều do muôn duyên hợp và biến chuyển
liên tục. Nền móng cho sự tồn tại của vạn vật là do bốn đại - đất nước gió lửa
hợp thành.
Không có bất kỳ sự vật
nào rời bốn đại mà có mặt được. Xác thân của chính Người cũng có từ bốn đại và
sự luân chuyển bốn đại trong thân thể chưa bao giờ dừng nghỉ. Người thấy xác
thân có trong đất nước gió lửa, có trong hoa sen, cây sứ, trong chiếc lá bồ đề
và trong vạn vật. Không dừng lại, Người tiếp tục quán chiếu:
- Tại sao con người
phải luân hồi trong sinh tử?
- Tại sao từ nền tảng
đất nước gió lửa lại tạo ra vạn vật với muôn ngàn sai khác?
- Cái gì đã kết hợp bốn
đại thành muôn vật và con người?
- Có phải cái thấy nghe
hay biết đã kết hợp bốn đại?”...
Những câu hỏi trên làm
tiền đề cho thuyết Thập nhị nhân duyên.
Qua công trình quán
chiếu vĩ đại Người đã nhận rõ cái thấy nghe hay biết không hình không tướng đã
tạo nên sự khác biệt giữa sự sống và xác chết, trạng thái dừng lặng của tâm và
thể của Không đại là không khác nhau.
Cái thấy nghe hay biết
chính là nguyên nhân hình thành nên cái tôi trong con người và mọi loài, là hạt
nhân khiến mọi chúng sinh luân hồi trong 3 cõi.
Người nhận rõ được sự
không hai của bản tâm và Không đại. Thái tử Tất đạt đa hòa vào Không đại và bốn
đại để nhận biết tiền kiếp, hiện kiếp và hậu kiếp. Tất cả là một, một là tất
cả. Ngay đó Người đạt được sự giải thoát hoàn toàn. Cùng với sự hiểu biết được
khai mở cao tột Người thành Phật. Là người giác ngộ giải thoát hoàn toàn, thoát
ra khỏi mọi khổ não.
Vì Phật không giam hãm
bản tâm trong cái tôi nhỏ bé và tấm thân máu thịt nên Người thành Phật.
Còn sở dĩ con người vẫn
là chúng sinh vì bởi vọng tưởng về cái tôi có trong tấm thân máu thịt, nhốt bản
tâm vào cái tôi không thật nên chìm nổi trong luân hồi.
Con đường tìm đạo giải
thoát của các vị Phật từ quá khứ, hiện tại và tương lai đều khởi nguồn từ ý
định thoát ly, xa rời sự khổ.
Vì thế bất kỳ một vị
Phật nào cũng đều phải trải qua cuộc sống của con người bình thường để nhận rõ
sự khổ hiện diện ở mọi chúng sinh trong 3 cõi 6 đường. Từ đó vị Bồ tát mới dũng
mãnh thoát ly, tinh tấn hành trì theo chánh pháp mà đạt được sự tỏ ngộ.
Muốn đạt được quả vị
Phật đòi hỏi người tu học phải có sự hiểu biết sâu rộng và không vướng vào cái
biết đó. Cả ba thời quá khứ, hiện tại và tương lai không bao giờ có sự xuất
hiện hai vị Phật cùng một lúc. Bởi vì những bậc giác ngộ giải thoát hoàn toàn
đã thoát khỏi sự ràng buộc của lợi danh, hơn thua, được mất,... Một khi đã có
người tỏ ngộ về sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn và đang rộng truyền chánh pháp
thì người giác ngộ còn lại sẽ tùy thuận sống an lạc, tự tại giữa đời thường.
Những người đạt được sự
giác ngộ, giải thoát hoàn toàn sẽ không bao giờ vì chứng tỏ sự hiểu biết cùng
tột và danh vị giáo chủ, Thánh, Phật mà nhập thế thuyết pháp.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét