Thành Phật Chưa Bao Giờ Dễ Dàng Đến Thế
Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2019
Thành Phật Chưa Bao Giờ Dễ
Dàng Đến Thế
Xin chào
các bạn!
Về lý lẽ ra
người học Phật ngày nay sẽ dễ dàng thành Phật hơn người thời xưa rất nhiều.
Tại sao tôi
nói người học Phật ngày nay dễ thành Phật hơn người xưa?
Bởi lẽ về
trình độ nhận thức, khả năng tư duy, sự hiểu biết tổng thể, khách quan của con
người ngày nay vượt trội hơn kiến thức người xưa hoàn toàn.
Và thời Phật Thích Ca chưa
nhập thế trao truyền chánh pháp, chiếc bè lau vượt dòng sinh tử thì người xưa
đâu thể biết đến những phương tiện vượt thoát luân hồi.
Phật Thích Ca ra đời, ra sức
thắp lên ngọn đuốc chánh pháp, loài người mới dần biết đến chánh pháp nhưng do
sự hiểu biết giới hạn, phương tiện đi lại và phương tiện truyền thông hạn chế
nên số người tiếp cận được những lời Phật thuyết là rất ít ỏi, chỉ giới hạn một
vài nước quanh lưu vực sông Hằng.
Biết đến Phật, biết đến giáo
đoàn khất sĩ là một chuyện, tiếp cận trọn vẹn giáo lý, lời Phật nói lại là một
chuyện khác. Để được cùng Phật hỏi đáp gạn đục, khơi trong, để thỉnh thuốc, trị
bệnh mê, để hỏi pháp thoát khổ, thoát ly sinh tử là điều mà không phải ai cũng
hội đủ được cơ duyên đó.
Thế mà người xưa lại dễ dàng
chạm đến sự giải thoát hoàn toàn trong khi đó người học Phật ngày nay gần như
không thể chạm đến sự đúng mực của chánh pháp, việc thành Phật vì thế trở nên
hoang đường, viễn vông.
Về lý việc thành Phật ở người
học Phật ngày nay lẽ ra sẽ dễ dàng hơn người xưa nhưng sự thật là người học
Phật ngày nay lại rất khó thành Phật. Tại sao lại như vậy?
Bởi do người xưa tâm tư đơn
thuần, tâm hồn trong sáng, lắng đọng còn con người thời nay tâm tư phức tạp,
đời sống hướng ngoại, cầu huyền.
Và do sự hiểu biết vài trăm
năm, vài ngàn năm trước thô mộc, giản đơn, ngược lại ngày nay khối lượng thông
tin truyền thừa là tuyệt đối lớn, định lượng thông tin tạp loạn lại rất nhiều.
Cứ lấy định mức thời gian sau
ngày Phật Thích Ca nhập diệt, từ bấy đến nay nhân loại và muôn loài góp nhặt thêm
hơn 2550 năm tri thức vô minh. Tri thức vô minh không hẳn là những nguồn tri
thức tuyệt đối xấu, tri thức vô minh chỉ là tri thức không mang lại sự giác ngộ
giải thoát hoàn toàn.
Có một sự thật là sự hiểu biết
của con người ngày nay vượt trội hơn người xưa. Chính do sự hiểu biết nâng cao
nên tâm phân biệt của loài người ngày nay cũng phức tạp, tính dính mắc theo đó
cũng vượt mức.
Bởi do nền tảng phân biệt dựa
trên tri thức vô minh nên con người ngày dính mắc sự hiểu biết chủ quan, phiến
diện và cục bộ. Đây là những kiến chấp, kiến thủ khiến người học Phật rất khó
tiếp cận sự khách quan, trong sáng, đúng mực của giáo lý giác ngộ giải thoát.
Thành Phật là gì?
Thành Phật là sự hiểu biết
chạm đến việc giải thoát hoàn toàn, hành trì, sống và hòa nhập vào sự hiểu biết
đó, từng bước giải phóng những tri kiến mê lầm, sau cùng giải thoát luôn cả cái
tri kiến giác ngộ hoàn toàn.
Với người học Phật xưa việc
thành Phật đơn thuần chỉ là như thế. Người học đạo xưa tâm tư thuần khiết, đạm
bạc khi biết đến giáo lý giác ngộ giải thoát và quay về nương tựa Phật, họ sẽ
thành tâm mong mỏi Phật và thiện tri thức chỉ lối giúp họ thoát khổ, thoát khỏi
việc sinh tử luân hồi.
Trong khi đó, người học đạo
ngày nay tìm đến đạo Phật bị vướng nhiều kiến chấp sở tri bùa phép, thần thông,
tiến hóa tâm linh nên tâm tư chất chứa việc thành Phật ở góc độ sẽ có Tam Minh,
Lục Thông, quyền năng vô thượng, biến hóa ảo diệu,… Những việc huyễn hoặc,
hoang đường như thế vô hình chung đã khiến người học Phật lạc lối chánh pháp,
sa vào ma đạo, việc giải thoát hoàn toàn khỏi khổ, thoát ly luân hồi từ đó trở
nên bất khả thi.
Do chất chứa rất nhiều những
tri kiến lầm lạc, ngộ nhận sự đúng mực của chánh pháp nên người học Phật không
thể liễu nghĩa pho Tam Tạng kinh, từ đó hiểu sai việc thành Phật và không thể
chứng ngộ giải thoát hoàn toàn.
Giá như người học Phật ngày
nay đặt xuống cái ta biết, ta hiểu khi học Phật.
Thực tế là đích đến mà Thái tử
Tất đạt đa dấn thân đi tìm là việc thoát khổ và thoát ly luân hồi sinh tử. Và giáo
lý mà Phật Thích Ca trao truyền cũng là giúp muôn sinh thoát khổ, thoát khỏi việc
luân hồi.
Giáo lý Phật Thích Ca và chư
Tổ trao truyền chưa bao giờ là việc chứng ngộ để trở thành Đấng quyền năng,
thành Thánh – Chúa, thành Thần Tiên,…
Giáo lý của Phật Thích Ca cũng
không từng là việc tăng trưởng tiến hóa tầng bậc tâm linh bởi lẽ còn sinh tất
sẽ còn diệt, có lúc tiến hóa thì sẽ có lúc lui sụt. Đó là quy luật vận hành của
luân hồi.
Và bất kỳ chúng sinh nào còn
lưu chuyển trong quy luật luân hồi thì chúng sinh đó nhất thiết phải có phiền
não, phải có sinh tử.
Do đó, việc thành Phật cũng
chỉ là một pháp phương tiện khéo, là tùy bệnh cho thuốc. Thực tế là người chứng
ngộ giải thoát hoàn toàn chính là là chứng đắc pháp vô sanh.
Chứng đắc pháp vô sanh cũng
không phải là chứng đắc một cái gì đó rất ghê gớm, bất khả thi.
Thực ra chứng đắc pháp vô sanh
chỉ là nhận biết rõ thật là Ta Chưa Từng Sinh Ra và sống được với điều đó. Sau
khi hết kiếp mạng chung thì xả bỏ luôn cả ý niệm sự hiểu biết Ta Chưa Từng Sinh
Ra đó.
Và thực tế là Ta Chưa Từng
Sinh Ra, giáo lý giác ngộ giải thoát ra đời cũng chỉ nhằm mục đích chỉ cho muôn
sinh thấy rõ điều đó. Ý niệm có Ta Sinh Ra là một ý niệm dính mắc sai lầm và
một khi chấp thủ ý niệm sai lầm đó thì bất kỳ chúng sinh nào cũng phải phiền
não, cũng phải sinh tử chuyển dời.
Chỉ khi xả bỏ rốt ráo ý niệm
sai lầm có Ta, thông đạt sự rốt ráo Ta Chưa Từng Sinh Ra tức là giải thoát hoàn
toàn.
Hơn 2550 năm trước dẫu Phật
Thích Ca có nói những lời này cho những người tham vấn cùng môn đồ, đệ tử thì
liệu có mấy ai hiểu được sự chân thật bất hư đó.
Thế nên gặp người chấp Thường,
Phật nói Vô Thường; gặp người nói đời là sướng vui, Phật nói đời là bể khổ bởi
muôn duyên, bởi sinh tử luân hồi; gặp người chấp hơn thua, được mất,… Phật
thuyết Không; gặp người nói ta được, ta có,… Phật nói Vô Ngã.
Và mọi người thời đó tâm tư
đơn thuần, trong sáng đã nhận ra quả thật là đời sống luân hồi Vô Thường, Khổ,
Không, Vô Ngã và nếu con người chẳng thoát ra đời sống luân hồi thì nhất thiết
sẽ phiền não cùng sinh tử xoay vòng.
…
Phật Thích Ca đã thuyết Bát
chánh đạo, Tứ diệu đế để người đương thời tùy thuận sống ngõ hầu xả bỏ dần
những Tham Sân Si Mạn Nghi, dần sáng rõ sự chân thật của chánh pháp, tập sống
buông bỏ và sau cùng buông bỏ cả việc Ham Tiếc Sinh Tử, trả tứ đại về cho tứ
đại, vắng lặng muôn duyên.
Lúc bấy giờ, sự sinh tử không
đoạn mà đoạn, việc luân hồi không lìa mà lìa và vắng bặt cả ý niệm đoạn lìa,
rốt ráo giải thoát.
…
Người học Phật ngày nay nếu
tâm trong sáng, tấm lòng như tờ giấy trắng, vứt đi niềm tự phụ Ta biết, ta hiểu
quả thật là rất dễ dàng thông đạt, thâm nhập giáo nghĩa chánh pháp mà Phật
Thích Ca trao truyền.
Và nếu một lòng thoát ly sinh
tử, nhàm chán luân hồi thì người học Phật tùy thuận hành trì, sống theo chánh
pháp. Sau một khoảng thời gian hạ thủ công phu hành nhân sẽ tự chủ hơn trong
việc chọn lựa giải thoát hoàn toàn hay tiếp tục luân hồi.
Khi công phu buông xả tùy
thuận thành khối hành nhân tự khắc thâm đạt sự bất thoái chuyển, việc giải thoát
hoàn toàn tự thành tựu.
Đáng tiếc là người học Phật
ngày nay tự trói cột mình vào những tri kiến mê lầm, ngộ nhận tri kiến Phật. Do
nội tâm thiếu hàm dưỡng, tâm hồn không lắng động nên khi học Phật thường mang
theo cái Ta biết, Ta hiểu, tự phụ kiến thức hơn người, lại chấp thủ điều huyền
hoặc, huyễn hóa, ham ngộ, hám đắc để có thần thông, huyền thuật, tăng trưởng
tầng bậc tâm linh,…
Lẽ ra người học Phật nên mang
cái ta không biết, ta không hiểu đi học Phật thì may ra mới góp nhặt được sự
giác ngộ giải thoát hoàn toàn chân thật.
Có người học Phật mang theo
chấp thủ phải Bát chánh đạo, phải Tứ diệu đế mới đắc một trong tứ quả Thánh –
Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán. Nhưng họ chỉ có thể nói suông vì
thực tế là họ chưa dự vào hàng bất thoái chuyển và họ cũng không biết ai là
hành nhân đương thời đắc thánh quả vị Thánh.
Tất cả người học Phật cả Tăng
lẫn tục ngày nay đều là khẩu thuyết vô bằng, là y kinh giải nghĩa Tam Thế Phật
Oan.
Và nếu họ hiểu đúng Bát chánh
đạo, tùy thuận hành trì đúng mực thì sự đã khác. Họ đã thông tuệ, sáng suốt,
hiểu biết đúng hơn về chánh pháp.
Thật ra đến với đạo Phật chỉ
cần biết đến một câu, một từ và hành trì tương ưng là đủ. Ví như biết câu Phàm
sở hữu tướng giai thị hư vọng, vô ngã, bản tâm, tự tánh,… khi thông đạt thì
pháp hành tùy thuận lưu xuất, đúng thời hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh.
Chữ đúng thời ở đây không đồng
nghĩa là chờ thời mà là hành nhân phải hạ thủ công phu, lý sự song hành chứ
không phải tựa nơi khẩu thuyết vô bằng, lý sự chẳng đồng, tâm hành sai biệt.
Nếu chỉ một câu, một từ không
dễ lĩnh hội, thông đạt chánh pháp thì người học Phật hãy nên nghiền ngẫm Tứ
Tướng - Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã -thường tùy thuận sống, bảo nhậm, chẳng
buông Tứ Tướng, đúng thời sẽ đắc ngộ Vô Sanh. Rốt ráo Vô Sanh là chân nghĩa
Niết bàn.
Mọi phương tiện, pháp môn,
kinh sách Phật học, Thiền ngữ xưa nay vốn không ngoài sự giải thoát hoàn toàn. Và
tùy thời mà những vị đạo sư diễn nói diệu pháp phương tiện khác nhau ngõ hầu
dẫn dắt quần mê.
Đến nay, sự hiểu biết của con
người đã chạm điểm mốc trực nhận Vô Sanh nên muôn pháp phương tiện tùy theo
kiến chấp mỗi người mà tùy thời rơi rụng. Bát Nhã Tâm Kinh viết “Viễn ly điên
đảo mộng tưởng cứu cánh Niết bàn”.
…
Tóm lại, người học Phật ngày
nay chỉ cần lắng lòng lại, trực nhận vạn pháp, giữ tâm trong sáng, như tờ giấy
trắng tiến nhập Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã hoặc tham khảo những điều Ngạo
Thuyết đã trình bày mà rơi rụng những kiến chấp, sở tri thì việc thành Phật
chưa bao giờ dễ dàng đến thế.
Vấn đề chỉ còn là việc chọn
lựa, sự quyết tâm của người học đạo, tầm đạo giác ngộ giải thoát.
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét