Việc Hoằng Pháp Ở Chốn Phật Môn Qua Các Thời kỳ…_Giải Mã Đạo Phật 2 0
Thứ Tư, 3 tháng 7, 2019
Việc Hoằng Pháp Ở Chốn Phật Môn Qua Các Thời kỳ…
Giải Mã Đạo Phật 2.0
Trong Truyền Tâm Pháp Yếu có
đoạn:
Một hôm Hoằng Bá thiền sư nắm
bàn tay lại và giơ lên cho đại chúng cùng được thấy rồi nói:
- Lão hòa thượng trong khắp thiên hạ đều ở
trong này. Nếu ta buông thả một đường chỉ thì tùy ý các
ngươi tung hoành bốn phương. Nếu ta chẳng buông thả thì luôn cả cái nắm
tay cũng không còn.
Nghe vậy có vị Tăng hỏi:
- Khi buông thả một đường chỉ là thế nào?
Sư Hoằng Bá nói :
- Tung hoành bốn phương.
Hỏi:
- Lúc chẳng buông thả thì luôn cả cái nắm tay cũng không còn là thế
nào?
Đáp:
- Phổ (nghĩa là cùng khắp mọi nơi).
…
Một hôm thượng
đường, đại chúng tụ tập chờ nghe pháp yếu, Sư Hoằng Bá nói:
- Các ngươi muốn cầu cái gì?
Nói xong, rồi dùng cây gậy
đuổi ra. Đại chúng không chịu giải tán. Sư Hoằng Bá ngồi lại nói:
- Các ngươi đều là những kẻ say rượu. Học Phật như thế
này sẽ bị người ta cười. Các ngươi học Phật lề thói gì mà hễ thấy nơi có chúng
đông tám trăm, một ngàn thì chui vào, như thế chẳng phải là ham chỗ náo nhiệt
hay sao? Thuở trước, khi ta tầm đạo lao nhọc kiếm tìm, một khi gặp
trong đám cỏ có một vị nào liền cho một dùi trên đỉnh đầu xem họ nếu biết đau
ngứa thì cung kính đem gạo cúng dường, đâu phải như các
ngươi cầu đạo lại dễ dàng như thế, làm sao được việc ngày nay (kiến
tánh)? Các ngươi nếu đã xưng là hành nhân, là người học Phật cũng phải phấn
khởi tinh thần một chút. Các ngươi có biết trong nước Đại Đường không
có thiền sư chăng?
Khi ấy, có vị Tăng hỏi:
- Các nơi đều có các bậc tôn túc, trưởng lão tụ tập đồ chúng
khai thị giáo hóa. Tại sao ngài lại nói không có Thiền Sư?
Hoằng Bá đáp:
- Chẳng phải nói là không có thiền, chỉ nói là không có Sư. Các
ông tham thiền không nhìn thẳng chỗ hầm sâu vô minh, chỉ biết học
theo ngôn ngữ để ghi nhớ chất đầy trong bụng, rồi đi khắp nơi tự xưng
ta hiểu thiền. Hiểu thiền như thế có giải quyết được việc sanh tử của
các ông chăng? Các ông cần phải nỗ lực tham cứu chớ nên uổng
qua một đời, bị người ta cười. Nếu ngộ thì ngay đó ngộ, nếu
không ngộ thì cứ tham đi.
…
Hôm nay, trời
nhiều mây, gió giật liên hồi, mưa như là ăn trộm vụt qua và rồi mất hút.
Hôm nay
Ngạo Thuyết gửi đến các bạn đôi dòng tự sự. Chuyện kể rằng cách đây 9 năm, khi
Ngạo Thuyết một phen hoát nhiên rõ biết bản lai diện mục của đạo lý giác ngộ giải
thoát.
Lúc bấy giờ,
Ngạo Thuyết nhận diện được sự hư vọng, điên đảo với trùng trùng ngộ nhận tri
kiến Phật hiện tồn nơi đạo Phật, những tăm tối, u mê ở cách thức tác pháp và
hoằng pháp mà giới Tăng Bảo ngày nay đang lưu truyền.
Ngạo Thuyết rõ
biết phần đa giới Tăng Bảo ngày nay đều là hạng sa môn nghĩa học, một số ít là
hành giả chốn Tòng lâm nhưng hầu hết tâm lượng lại hẹp kém, chí chỉ dừng lại ở
việc lấy thìa con mà đong lường nước ở biển. Do vậy, họ thật đâu thể giải quyết
được việc sinh tử nơi mình, vì thế càng không thể là người đưa đò sáng mắt.
Do bởi người
hướng đạo chân truyền nơi chốn Phật môn – giới Tăng bảo không rõ Phật tâm tông
đã góp phần kiến tạo ra một lực lượng đại chúng học Phật mê lầm chánh pháp.
Bởi do đa số
người học Phật chỉ dừng lại ở tầng bậc môn đồ tri giải, việc học Phật, hành
pháp chỉ ở đầu môi, chót lưỡi nên vô hình chung đã khiến đạo Phật rơi sâu vào
thời mạt pháp.
Việc học Phật
theo lối như két tập nói ở số đông tín đồ Phật tử đã khiến cho đạo Phật ngày
càng đánh mất tính khả dụng, tính thiết thực. Và chính điều này đã khiến nhân
loại hoài nghi giá trị thật có của chánh pháp lưu giữ nơi đạo Phật
…
Ngạo Thuyết đã
nhiều lần xét lại nên chăng xé toạc chiếc áo khoác đạo Phật, giải phóng chánh
pháp, trả chánh pháp về cho nhân loại. Chiếc áo khoác đạo Phật ngày càng trở
nên nhỏ bé trước sự lớn lao, kỳ vĩ của chánh pháp.
Và trên tất cả,
nhân loại do thiếu khuyết sự hiểu biết tổng thể, khách quan về con người, về sự
sống đã xây dựng và phát triển với những định hướng lầm lạc. Kết quả là xã hội
loài người đang tiến vào, chìm sâu vào một kỷ nguyên đổ nát, tang thương, không
lối thoát – hiện tướng của sự diệt vong. Tri thức nhân loại thật sự đang rất
cần đến một chánh pháp khách quan, sáng rõ ngõ hầu mở ra lối thoát sống còn cho
xã hội loài người.
…
Nhiều năm về
trước, Ngạo Thuyết vì trân quý Tam Bảo nên gìn giữ niềm tin, sự hy vọng rằng
rồi thì giới Tăng Bảo sẽ khác. Và Ngạo Thuyết cũng biết rằng niềm tin đó rất
mong manh, giới Tăng Bảo từ lâu đã rơi vào biên kiến nẻo đạo, do đó khó mong
việc có bậc Long Tượng thoát thai từ giới xuất gia học Phật.
Bên cạnh đó, giới
cư sĩ tại gia ngày nay phần đa bận rộn trong cuộc mưu sinh cơm áo gạo tiền đâu
dễ có cơ may tầm đạo, hành đạo chạm đến sự rốt ráo giác ngộ giải thoát.
Số người học
Phật tại gia khác có điều kiện hơn, họ không phải bươn chải, tất tả kiếm cái
ăn, cái mặc. Mặc dù họ có nhiều điều kiện tham cứu kinh Phật cùng với hành trì
Phật pháp. Song do có điều kiện, cuộc sống có phần nhởn nhơ nên họ thiếu mất
một điều kiện có tính quyết định, đó là phiền não. Do có phần thảnh thơi trên
bước đường tìm đạo, hành đạo những người học Phật này khó thể vượt thoát khỏi
tầng bậc tạm gọi là “Ta biết, ta hiểu…”. Và kết quả là dù có cố gắng đến mấy họ
cũng không dễ vượt thoát khỏi vị trí là những môn đồ tri giải chốn Phật môn,
trừ khi họ được bậc Long Tượng xuất cách điểm hóa.
…
Những năm gần
đây, hiện tướng của giới Tăng Bảo bị quốc hữu hóa ngày càng tệ hại, kém cỏi. Và
bên cạnh những Tà Tăng là một đại chúng đông đảo Tà Thí Chủ, đây là một lực
lượng người mang danh nghĩa học Phật nhưng lại góp phần biến đạo Phật thành một
tôn giáo thần quyền với rất nhiều hủ tục mê tín dị đoan.
Trước những rối
ren, hỗn độn nơi xã hội loài người và cả nơi đạo Phật, Ngạo Thuyết đã nhớ đến
bối cảnh thời Thiền Tông hưng thịnh ở Trung Hoa. Ngay nơi đỉnh cao của sự hưng
thịnh bao giờ cũng ẩn tàng mầm mống của sự suy tàn.
Sau thời Lục Tổ
Huệ Năng, Thiền Tông phát triển mạnh mẽ. Và thời buổi nào cũng vậy xu hướng
chung của con người và muôn loài là theo về số đông. Người học Phật lúc bấy giờ
nghe thấy Thiền Tông phát triển mạnh mẽ với chiêu bài “Minh tâm, kiến tánh”,
“Kiến tánh thành Phật” nên đã đổ xô tìm đến Thiền tông, lề thói học Phật theo
phong trào khi sự hiểu biết của con người nâng lên xưa nay vốn chẳng khác.
Tiếc rằng người
tìm về Thiền Tông ngày càng đông nhưng chỉ tăng về lượng, nhưng lại không ngừng
giảm về chất. Lúc bấy giờ, việc học Phật ngày càng dựa trên sách vở, việc học
Phật chỉ dừng nơi lý, thiếu sự hành trì hạ thủ công phu.
Thuở ấy, quy
thuận dưới chân các danh gia hành giả Thiền tông có rất nhiều Tăng sĩ xuất gia
lẫn cư sĩ tại gia và họ đều bày ra hiện tướng là sa môn nghĩa học, là môn đồ
tri giải với tâm tham đắm thể hiện việc chứng ngộ, đắc pháp.
Và hiển nhiên
là những bậc hành giả xuất cách như Thiền sư Bá Trượng, Hoằng Bá, Lâm Tế,… sẽ
dễ dàng nhận ra việc dối lòng học Phật, hành pháp ở đám môn sinh lẫn giới Tăng
Bảo hữu danh đương thời. Danh gia hành giả sớm nhận ra trào lưu học Phật theo
phong trào ở môn sinh khi sự hiểu biết của con người nâng cao và danh gia hành
giả cảm thấy ngán ngẫm về điều đó.
Việc sư Hoằng
Bá nắm bàn tay lại và nói “Lão hòa thượng trong khắp thiên hạ đều ở
trong này” là Thiền ngữ ám thị rằng “vận mệnh của chư Tăng đương thời đều nằm
trong lòng bàn tay của Hoằng Bá và Hoằng Bá có toàn quyền “sinh sát” đối với
đám sa môn nghĩa học đó”.
Câu nói “Nếu ta buông thả một đường chỉ
thì tùy ý các ngươi tung hoành bốn phương” với ngụ ý rằng
chỉ cần Hoằng Bá truyền tâm yếu thì môn hạ của Hoằng Bá thừa sức tung hoành bốn
phương, nhiếp phục tất cả đám sa môn nghĩa học cùng bọn môn đồ tri giải”.
Tiếc rằng, môn hạ của Hoằng Bá
đa phần cũng là đám bị thịt, thiếu khuyết người có pháp khí đại thừa nên không
có người thâu đoạt thiền cơ trong công án “Nắm – Buông”.
Lại thêm có kẻ nông nổi, vọng
hỏi “Nếu chẳng buông thả thì luôn cả cái nắm tay cũng không còn là thế nào?”.
Thuận duyên cùng ngao ngán, Hoằng Bá buông ra một chữ “Phổ - cùng khắp”.
Quả thật đúng là “Chưa gặp Chân Long Sư ra đời oan uổng pháp thuốc đại thừa”.
…
Về bối cảnh xã hội thời sư
Hoằng Bá và ngày nay hiển nhiên có rất nhiều sự khác biệt. Về đạo Phật ngày nay
thì giới Tăng Bảo vẫn tiếp tục dấn thân vào lối mòn sa môn nghĩa học và bị quốc
hữu hóa nên ngày càng xa rời chánh đạo, hiểu lệch lạc chánh pháp và ngộ nhận
tri kiến Phật.
Thế nên hiển nhiên là thế hệ
Tăng bảo tương lai ở khắp mọi nơi trên thế giới sẽ tiếp tục bị giới chính trị
cùng thành phần Tà Thí Chủ thao túng, lũng đoạn. Việc quy y ngoại đạo, nhốt
thân vào pháp, rơi vào biên kiến nẻo đạo cùng với việc tiếp nhận tri kiến Phật
học lầm lạc giới Tăng Bảo tương lai sẽ trượt dài hố sâu tà kiến và vô minh cứ
thế thêm chất chồng.
…
Ngạo Thuyết vốn không là Tăng
Bảo, đồng thời cũng không là người học Phật hữu danh nên việc chiêu sinh và rồi
truyền tâm yếu cho môn hạ tung hoành bốn phương, nhiếp phục tất cả đám sa môn
nghĩa học cùng các nhóm môn đồ tri giải ít nhiều cũng có sự chướng ngại.
Vả lại dẫu rằng việc buông thả
một đường chỉ có thành tựu cũng chỉ có tác dụng giới hạn nơi đạo Phật. Với chọn
lựa này từ lâu Ngạo Thuyết biết rằng không thật sự tối ưu cho sự phát triển của
chánh pháp.
Và nhất là khi xã hội loài
người đang rơi vào kỷ nguyên đổ nát, tan hoang do cơn bão của lòng tham và chủ
nghĩa thực dụng.
Phổ là chọn lựa mà Ngạo Thuyết
xác lập cho việc hoằng dương chánh pháp. Việc xé bỏ chiếc áo đã chằng chịt sắc
màu đạo Phật, giải phóng chánh pháp là điều cần thiết. Ngạo Thuyết âm thầm thi
triển diệu pháp Di Lặc thiên bá ức hóa thân.
Đã 8, 9 năm trôi qua, hoa rơi
hữu ý, nước chảy cứ vô tình. Dẫu rằng qua blog Một Thoáng Phương Đông, trang
Tương Tác Phật Học Onlne,… những điều Ngạo Thuyết trình bày đã từng bước chạm
đến trái tim của không ít người bạn.
Tuy nhiên, ở những bài viết
trước đây do Ngạo Thuyết đao hạ lưu nhân đối với giới Tăng Bảo nên việc trình
bày về chánh pháp của Ngạo Thuyết có phần giơ cao, đánh khẽ, nói gần, nói xa. Hẳn
do vì lẽ đó mọi người không dễ dàng tiếp cận được giá trị chánh pháp khách quan
và sáng rõ ẩn tàng nơi đạo Phật.
Đến nay, hiện tướng tệ hại,
đáng xấu hổ của giới Tăng bảo bị quốc hữu hóa cũng như tính chất sống còn của
sự tồn tại, phát triển của nhân loại đã khiến Ngạo Thuyết ý thức được rằng Ngạo
Thuyết cần phơi bày rốt ráo giá trị chánh pháp, sự hiểu biết khách quan, đúng
mực và sáng rõ của nhân loại.
Và nhân loại ngày nay thật sự
rất cần đến sự hiểu biết đúng mực, khách quan, sáng rõ về nguồn gốc sự sống,
quy luật luân hồi và sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
Ngạo Thuyết những mong rằng
những người bạn, tất cả mọi người hãy đặt xuống sự tự ti bé nhỏ, hãy nhận diện
một thực tế là xã hội loài người ngày nay đang nặng oằn đau khổ, hành tinh xanh
đang thét gào tìm một lối thoát tránh xa sự diệt vong. Mỗi người hãy nâng tầm
vóc, trái tim mình hòa vào trái tim nhân loại, trái tim sự sống.
Và những người bạn hãy dùng sự
hiểu biết, trí tuệ của chính mình nhìn nhận nội dung những điều Ngạo Thuyết đã
đang và sẽ trình bày, nếu các bạn nhận ra rằng bài viết có chứa đựng giá trị
chánh pháp, chứa đựng sự hiểu biết khách quan, sáng rõ thì hãy bỏ chút ít thời
gian giúp nguồn tri thức đó lan tỏa.
Việc làm này đồng thời cũng sẽ
góp phần nâng cao tầm vóc, trí tuệ con người Việt Nam và bạn sẽ chính là một
hóa thân của Phật Di Lặc, là Phật Di Lặc với Thiên Bá Ức Hóa Thân.
…
Có người nói với Ngạo Thuyết
rằng “Hữu xạ tự nhiên hương”.
Đúng vậy! Song xa lộ thông tin
internet dẫu rất rộng lớn nhưng đồng thời cũng có vô vàn thông tin, do đó những
thông tin trước sẽ mau chóng bị đẩy lùi vào dĩ vãng và khi con người muốn tìm
lại sẽ gặp không ít điều chướng ngại.
Vì thế khởi từ tâm bi mẫn vay
mượn từ Phật Thích Ca, từ những vị Giác Giả chân chính cùng nỗi khốn cùng của
một xã hội loài người đang khắc khoải, muộn phiền Ngạo Thuyết sẽ một phen gửi
gió cho mây ngàn bay và rất mong những người bạn cùng chung tay góp sức.
Nội dung bài viết hôm nay sẽ
là Việc Hoằng Pháp Ở Chốn Phật Môn Qua
Các Thời kỳ…, Ngạo Thuyết đã đi một vòng khá lớn để dẫn dắt mọi người vào
chính đề ngõ hầu mở ra một cái nhìn mới khách quan hơn, đúng mực hơn và sáng rõ
hơn về đạo Phật.
Ngay khi Phật Thích Ca chứng
ngộ pháp vô sanh, sáng rõ quy luật nhân quả luân hồi và sự giải thoát mầu
nhiệm, Phật sớm biết rằng thật rất khó để trình bày cho người đương thời lĩnh
hội, thông đạt, chứng ngộ giáo lý giác ngộ giải thoát thậm thâm, vi diệu.
Phật đã từng đắn đo, từng suy
tư về việc trao truyền giáo lý chánh pháp vào trong lòng nhân loại. Phật nhận
biết người đương thời rất nhiều vọng chấp, lại dính mắc vào Tham Sân Si Mạn
Nghi, sự hiểu biết về thế giới tâm linh rất chủ quan, phiến diện và gần như đã
quy thuận hoàn toàn các Đấng quyền năng siêu hình đồng thời cũng là vô hình. Sự
giác ngộ, việc giải thoát một cách tự chủ là một khái niệm hoàn toàn mới và
chưa từng tồn tại trong ý thức, nhận thức, tư duy của người đương thời.
Việc trao truyền giáo lý chánh
pháp sẽ rất cam go, lao nhọc, là một việc làm hao tâm, tổn trí rất nhiều. Đã
nhiều lúc Giác Giả Thích Ca muốn từ bỏ việc dấn thân lưu bố và hoằng dương
chánh pháp. Tuy nhiên, tâm từ bi của một người chứng ngộ pháp vô sanh và tuệ
tri sáng suốt Phật biết rằng muôn chúng sinh đang rất đau khổ, tâm thức của họ đã
gào thét kiếm tìm một lối thoát ra khỏi mọi bế tắc tâm linh. Giác Giả Thích Ca
nhận thức được rằng “Ta không vào địa ngục thì ai sẽ vào địa ngục” và rồi Phật
Thích Ca xác quyết việc dấn thân…
Phật Thích Ca biết rằng muốn
giáo lý chánh pháp nhanh chóng phổ truyền sẽ rất cần đến những người học đạo,
hành đạo danh tiếng thừa nhận. Và cũng chỉ có những người học đạo tận tụy mới
có khả năng tiếp nhận rốt ráo giáo lý chánh pháp thậm thâm, vi diệu vượt lên
mọi nhận thức, tư duy đương thời. Đây là một nhận định rất tinh tế, sáng suốt
của Phật.
Tương truyền rằng Phật đã nhớ
đến hai vị đạo sư danh tiếng là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Sau khi dò
hỏi Phật được biết hai vị thầy đáng kính của mình đều đã qua đời.
Theo y kinh là vậy nhưng thật
ra trên bước đường tìm đến trú xứ của hai vị đạo sư danh tiếng đấy, Phật đã
tiếp cận những người học đạo, hành đạo diễn nói giáo lý chánh pháp mà người
chứng ngộ nhưng mọi việc đã không hề dễ dàng. Những người mà Phật có duyên trao
đổi với nặng oằn kiến thủ, sở tri tông giáo đã không thể tiếp nhận giáo lý
chánh pháp.
Không hề nao núng, Phật cứ
bước đi và gieo duyên. Song kết quả hoàn toàn không như mong đợi, Phật nhớ nghĩ
đến 5 người bạn đồng tu, 5 anh em Kiều Trần Như, những người đã từng có niềm
tin sâu sắc về sở học, sở hành của mình.
Lần tìm và rồi Phật cũng gặp
được 5 anh em Kiều Trần Như ở vườn Lộc Uyển. Và cuối cùng Phật đã nhiếp phục
được năm người bạn đồng tu, những người bạn qua một cuộc trò chuyện trao đổi
thẳng thắn đã nhận ra Phật là người đã chứng ngộ giác ngộ giải thoát hoàn toàn,
là người đủ sức chỉ bày giúp họ giải quyết vấn đề nan giải, việc giải thoát
khỏi sinh tử. Cả 5 người bạn đồng lòng khẩn cầu Phật làm vị đạo sư cho mình.
(Để rõ thêm về cuộc gặp gỡ và thâu nhận 5 vị môn đồ đầu tiên của Phật mời các
bạn tham khảo bài viết Khai Quan Điểm Nhãn ở trang blog Một Thoáng Phương Đông
và kênh Youtube Tương Tác Phật Học Online).
Việc 5 người bạn đồng tu tiếp
nhận và lĩnh hội giáo lý chánh pháp giúp Phật có thêm động lực và niềm tin giáo
lý chánh pháp sẽ được lưu bố và truyền thừa. Phật biết rõ là không khả thi khi
tìm lấy từng người, từng người một vào giáo đoàn giác ngộ giải thoát.
Phật cần kích nổ một quả bom hoặc
một khối thuốc nổ cực lớn để thức tỉnh một lượng rất lớn, rất đông đảo người
học đạo si mê, mờ mịt lối đi và Phật chọn lựa việc nhiếp phục những vị giáo chủ
của các hệ thống tôn giáo.
Hiển nhiên là Phật sẽ nhắm đến
những vị hành giả đạo cao, đức trọng, khao khát việc giải thoát sinh tử. Việc
nhiếp phục vị giáo chủ một chi nhánh của đạo thờ Thần Lửa, hành giả Ưu Lâu Tần
Loa Ca Diếp đã vô hình chung giúp giáo đoàn giác ngộ giải thoát tiếp nhận được
tín chúng của cả 3 chi nhánh của đạo thờ Thần Lửa do 3 anh em nhà Ca Diếp dẫn
dắt.
Bằng vào việc hoằng pháp có
tâm và có tầm của Phật, giáo đoàn khất sĩ mau chóng lớn mạnh và gây ra tiếng
vang rền khắp các nước quanh lưu vực sông Hằng. Dòng dõi Sát đế lợi đã tìm đến
khảo vấn và hoàn toàn kính phục Phật, tín nhiệm giáo lý giác ngộ giải thoát. Người
dân ở các nước quanh lưu vực sông Hằng với đủ mọi thành phần, tầng lớp xã hội
gồm cả những người trí thức ưu tú của dòng dõi Sát đế lợi, Bà la môn tìm đến
quy y Phật.
Các vị giáo chủ của các dòng
Bà la môn, Kì na giáo ngày càng trở nên kinh sợ trước sự lớn mạnh của giáo đoàn
khất sĩ, họ ra sức bài xích, tẩy chay, triệt hạ uy tín Phật cũng như giáo đoàn
khất sĩ.
…
Khi giáo đoàn khất sĩ lớn
mạnh, Phật chú trọng việc trao truyền giáo lý giác ngộ giải thoát thông qua các
buổi thuyết pháp và trùng tuyên.
Giáo lý giác ngộ giải thoát
ngày càng trở nên hoàn chỉnh, phù hợp với trình độ nhận thức, sự hiểu biết của
người đương thời.
Do sự hiểu biết nền của người
đương thời mộc mạc, chân phương cùng với phương pháp truyền thừa giáo lý ở các
tôn giáo lúc bấy giờ chủ yếu là truyền miệng nên việc thuyết pháp của Phật và
môn đồ sẽ là những bài pháp thoại ngắn gọn, đơn giản, bám sát đối tượng tham
vấn và vấn đề được đặt ra.
Và nội dung chính của giáo lý
chánh pháp thời Phật Thích Ca tại thế chỉ xoay quanh vấn đề luân hồi, giác ngộ
và giải thoát.
Ngoài ra, để giáo lý chánh
pháp dễ dàng truyền thừa theo lối truyền miệng Phật và môn đệ đã chú trọng thi
kệ hóa giáo lý giác ngộ giải thoát.
Và để gìn giữ, truyền thừa
chánh pháp cũng như giúp người học Phật có cơ duyên thâm nhập lĩnh hội giáo lý
giác ngộ giải thoát việc đọc tụng đã được Phật khuyên dùng và dần trở thành chế
định.
Mục đích cuối cùng của việc
đọc tụng kinh Phật ban đầu chính là việc gieo duyên thâm ngộ, liễu thông chánh
pháp cho người học Phật chứ không phải là để trả bài cho Phật, những vị đạo sư
nghe hay là việc trả nợ quỷ thần, độ người khuất mày, khuất mặt.
Giáo lý Phật đà do Phật Thích
Ca đích thân phổ truyền chú trọng sự chân phương, gần gũi, sáng rõ để người
tham học hoàn toàn có thể nắm bắt, lĩnh hội, hành trì tùy thuận và có thể thành
tựu viên mãn việc giải thoát hoàn toàn.
…
Càng về sau, khi giáo đoàn
khất sĩ trở nên đông đảo, nhiều dễ thường sẽ trở nên loạn. Có rất nhiều người
học Phật trí thức tìm đến đạo Phật chỉ nhằm vào việc giải tỏa, phóng thích sự
hiểu biết chứ không nhằm vào việc giải thoát sinh tử, đoạn dứt luân hồi.
Những vấn đề siêu hình, trừu
tượng được những người tìm đến Phật đặt ra. Phật biết những vấn đề đó hiện thời
không hữu ích đối với việc giác ngộ giải thoát, Phật đã từ chối trả lời.
Và những người học Phật trí
thức, ham muốn rộng cầu hiểu biết đã chất vấn Phật. Để người học Phật thức tỉnh
quay về với Bát chánh đạo, chuyên tâm tâm hành trì việc giải thoát hoàn toàn Phật
đã nhiều lần im lặng hoặc từ chối trả lời. Sau cùng Phật đã xác quyết trước
đông đảo môn đồ, tín chúng rằng những vấn đề trừu tượng siêu hình đối với việc
lớn giải thoát sinh tử chỉ là việc lạm bàn, hý luận. Do đó, hành giả chân chính
của đạo Phật nhất thiết phải tránh xa việc hý luận, lạm bàn nếu muốn tìm về sự
giác ngộ giải thoát.
Tóm lại, giáo lý giác ngộ giải
thoát hoàn toàn mà Phật Thích Ca đích thân trao truyền vốn rất gần gũi, mộc
mạc, chân phương. Và người học Phật chân chính hoàn toàn có thể thẩm thấu được,
do đó hành giả chốn Phật môn lúc bấy giờ hoàn toàn có thể chạm đến sự giải
thoát hoàn toàn chỉ bằng vào sự hiểu biết trong sáng, đơn thuần.
Việc hoằng pháp thời Phật tại
thế cũng chân phương, giản dị và không hề màu mè, hoa lá cành như lối truyền
pháp của ngoại đạo.
…
Rồi thì Phật Thích Ca nhập
diệt. Việc hoằng pháp của giáo đoàn khất sĩ ban đầu cũng giữ được sự trong
sáng, chân phương.
Tuy nhiên, càng về sau giáo lý
chánh pháp nguyên bản ngày càng trở nên tụt hậu so với tri thức của người đương
thời.
Và tầm mức chứng ngộ cũng như
uy tín của những người lãnh đạo giáo đoàn khất sĩ không đủ sức nhiếp phục ngoại
đạo và tín chúng.
Bằng vào những luận chứng vô
minh thuộc 62 kiến chấp, ngoại đạo ra sức trả lời những vấn đề trừu tượng, siêu
hình. Do việc biện giải dựa trên nền tảng vô minh ngoại đạo đã bày vẽ, điểm tô
những vấn đề siêu hình, trừu tượng ngày càng trở nên huyền hoặc, hoang đường và
mê muội.
Dù vậy, do giáo lý giác ngộ
giải thoát bị đóng khuôn không thể lý giải những vấn đề vô hình mà tín chúng
giáo đoàn khất sĩ suy giảm nghiêm trọng, việc hoằng pháp cũng như truyền thừa
giáo lý giác ngộ giải thoát vấp phải rất nhiều chướng ngại.
Đứng trước tình hình mới,
những vị thượng thủ nơi giáo đoàn giác ngộ giải thoát biết rằng đã đến lúc phải
trả lời cho những câu hỏi về vấn đề siêu hình trừu tượng dựa trên nền tảng giáo
lý giác ngộ và trình độ nhận thức của người đương thời. Tạng Vi Diệu Pháp ra
đời và dần hoàn thiện.
Kế thừa Tạng Vi Diệu Pháp kéo
theo những Tạng Luận về Phật học đồ sộ, điển hình là triết lý Tánh Không và Duy
Thức Luận.
Sự xuất hiện của những Tạng
Luận dựa trên nền tảng chánh pháp khế hợp với người đương thời đã vãn hồi, vực
dậy đạo Phật giúp đạo Phật vượt lên một tầm cao mới.
Tuy nhiên, những Tạng Luận đồ
sộ của Vi Diệu Pháp, Tánh Không, Duy Thức,… đã khiến người học đạo rơi vào
những cuộc luận giải cao siêu, trừu tượng và đánh mất tính thực tiễn cùng sự
thiết thực.
Sa đà vào khối kiến thức của
Vi Diệu Pháp, Tánh Không, Thế Giới Duy Thức,… người học đạo trở nên là những
nhà nghiên cứu Phật học hàn lâm. Người học Phật trở nên là những học giả với
khối kiến thức Tưởng Tri, Thức Tri đồ sộ, nặng oằn những luận giải. Vấn đề học
Phật trở nên là một gánh nặng, là một khối phiền não chập chùng.
Việc hoằng pháp ở đạo Phật thêm
một lần lạc bước, người học Phật cứ thế lao vào việc biện giải, tranh luận
không hồi kết, không lối thoát. Và nguyên nhân chung cùng vẫn là thiếu khuyết
hành giả chân chính, sự vắng bóng Giác Giả.
Việc hý luận, lạm bàn, những
lời nói suông bền bỉ ở người học Phật thời kỳ hậu Duy Thức Luận đã khiến đạo
Phật lâm nguy, giá trị chánh pháp trở nên nhạt nhòa đánh mất tính thực tiễn,
tính khả dụng. Và đây là cái cớ không thể tốt hơn để ngoại đạo triệt hạ đạo
Phật.
Đạo Phật lại rơi vào nguy cơ
diệt môn, hủy giáo. Và vị Giác Giả chốn Phật môn thứ hai đã kịp thời xuất thế, vị
Giác Giả thứ hai ra sức phổ truyền giáo lý kinh Phật phát triển mang tính chất
đại thừa để vá lại lỗ hổng tri kiến Phật do giới học giả Phật học bày ra.
Có rất nhiều bộ kinh Phật phát
triển có nội dung tương ưng với những Tạng Luận, điển hình như Kinh Hoa Nghiêm,
Kinh Lăng Già,…Thật ra đây chính là những Tạng Luận được Giác Giả vá lỗi.
…
Và để khắc phục, hạn chế những
mối nguy tiềm ẩn dẫn đến việc hủy môn, diệt giáo vị Giác Giả thứ hai đã nương
theo những kiến chấp, kiến thủ của người đương thời tạo ra rất nhiều những pháp
môn khác nhau.
Có thể nói rằng đến thời kỳ
của vị Giác Giả thứ hai hộ pháp đạo Phật đã thiên biến, vạn hóa. Giáo lý đạo
Phật được canh tân, hoàn thiện chạm đến sự bất khả tư nghì.
Khác với tính chân phương, mộc
mạc, gần gũi, trong sáng ở giáo lý giác ngộ giải thoát mà Phật Thích Ca truyền
thừa, giáo lý kinh Phật phát triển do vị Giác Giả thứ hai phổ truyền biến hóa,
đa thù, thậm thâm, vi diệu.
Trí tuệ bát nhã, pháp môn
không hai, gươm báu Kim Cang,… ở kinh Phật phát triển đã giúp đạo Phật nghiễm
nhiên ngự trị nơi đỉnh cao trí tuệ loài người từ xưa đến nay.
Mặc dù biến hóa ảo diệu nhưng
nền tảng của giáo lý kinh Phật phát triển vẫn là Bát chánh đạo, Tứ diệu đế. Mọi
pháp môn, mọi con đường giúp người học đạo tìm đến đạo Phật ở kinh Phật phát
triển đều dẫn dắt con người đến sự giải thoát bằng hình thức gián tiếp hay trực
tiếp.
Đạo Phật do Phật Thích Ca trao
truyền có tính chân phương nên có khuynh hướng kém thích nghi và dễ bị hủy môn,
diệt giáo khi không có người chứng ngộ hộ pháp.
Và để vá lỗi hủy môn, diệt
giáo thường tiềm ẩn vị Giác Giả thứ hai đã phát triển đạo Phật theo hướng phổ
truyền trùm khắp, nhiều pháp môn dựa trên nền tảng canh tân giáo lý ngoại đạo
và vạch ra một đường dẫn giúp tín đồ học đạo có nhiều cơ may biết đến bát chánh
đạo, giáo lý giải thoát. Điển hình là pháp môn niệm Phật A di đà, niệm Phật
Dược Sư Lưu Ly Quang, pháp môn Phật Di Lặc Hạ Sanh,… tất cả các pháp môn này
đều có đường dẫn đến Bát chánh đạo, Tứ diệu đế.
Khuynh hướng gìn giữ, truyền
thừa, hoằng pháp của vị Giác Giả thứ hai có thể nói nôm na như việc “Lọt sàng,
xuống nia”. Và tạm xác lập sau 500 năm kể từ ngày Phật Thích Ca nhập diệt, giáo
lý kinh Phật phát triển được phổ truyền giúp đạo Phật phát triển và lan tỏa
rộng khắp nhân loại.
…
Và có thể nói rằng sự vực dậy
và phát triển trên diện rộng của Phật giáo Nam truyền ngày nay có một sự đóng
góp không hề nhỏ của việc ra đời giáo lý kinh Phật phát triển.
Tuy nhiên, người học Phật Nam
truyền cả Tăng lẫn tục với tâm hẹp lượng, lòng đố kỵ cố hữu được truyền đời đã
không ý thức, nhận thức được điều đó. Chính vì vậy người học Phật Nam Tông luôn
chấp giữ việc triệt hạ, bài xích, đả phá giáo lý kinh Phật phát triển. Đây là
điều mà người học Phật Nam truyền nên lưu tâm, nhìn nhận lại để giải thoát tri
kiến, tâm chấp thủ hẹp hòi, lòng đố kỵ,… đấy là những chướng duyên ngăn trở sự
giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
…
Mặc dù vị Giác Giả thứ hai đã
thổi một luồng sinh khí mới vào đạo Phật, giúp đạo Phật phát triển vượt bậc. Chánh
pháp vốn dĩ là một bất định pháp. Song khi giáo lý đạo giác ngộ bị nhốt vào đạo
Phật, giáo lý đạo giác ngộ trở nên là một định pháp. Vạn pháp vẫn xoay vần với
vòng tròn sinh trụ dị diệt, đạo Phật là một định pháp vì thế cũng mau chóng là
những con nước lớn, nước ròng.
Khi giáo lý giác ngộ giải
thoát lan tỏa ra phạm vi thế giới cũng đồng thời là lúc đạo Phật đã tàn lụi ở
các nước quanh lưu vực sông Hằng (diện tích chủ yếu của Ấn Độ ngày nay).
Tương truyền Tổ Bồ Đề Đạt Ma y
chỉ di ngôn của vị thầy Bát Nhã Đa La mà xuôi thuyền sang đất nước Trung Hoa
hoằng pháp. Sự thật việc tương truyền đó chỉ là giai thoại, đó chỉ là ngụy thư
mà người Trung Hoa đã dựng lên để thể hiện tính Chính Danh mạng mạch chánh pháp
Phật môn đơn truyền đến từ đất Phật. Nguyên nhân của việc ngụy tạo lược sử 33
vị Tổ là do người Trung Hoa lúc bấy giờ rất coi trọng Thuyết Chính Danh.
Thực ra Tổ Bồ Đề Đạt Ma tiến
nhập Trung Nguyên là vì cơ duyên giáo hóa đạo Phật ở Ấn Độ không còn nữa, ngoại
đạo đã ra sức triệt sát đạo Phật từ con người đến cơ sở hạ tầng của đạo Phật.
Và dựa vào con đường tơ lụa Tổ
Bồ Đề Đạt Ma biết Phật pháp có cơ may phát triển ở Trung Hoa. Tổ Bồ Đề Đạt Ma
là một hành giả có đạo tâm nên rất xem trọng cơ duyên hoằng pháp, vì thế Tổ Bồ
Đề Đạt Ma đã không quản ngại gian khó, lao nhọc tiến nhập Trung Nguyên.
Có câu “Trời xanh không phụ
người có lòng”, Tổ Bồ Đề Đạt Ma sau khi trải qua bao phen lao nhọc cũng đã đặt
được nền móng vững chải cho Thiền Tông phát dương quang đại ở đất nước Trung
Hoa và lan truyền sang các nước kế cận như Hàn Quốc, Nhật Bản,...
Và cũng theo quy luật sinh trụ
dị diệt Thiền Tông nở hoa hưng thịnh rồi tàn lụi ở đất nước Trung Hoa. Song
những giá trị về chánh pháp có ở pháp ngữ Thiền Tông cũng như sự chứng ngộ ở
hành giả chân chính nơi đất nước Trung Hoa là có thật.
Đúng vậy! Sau khi Tổ Đạt Ma
dựng lập Thiền Tông Đông Độ, đạo Phật Trung Hoa đã phát triển huy hoàng trải
qua một quãng thời gian lâu xa và rồi tàn lụi dần.
Nguyên nhân cũng chỉ vì người
học Phật tìm đến đạo Phật nhưng lại không có tâm thành cầu đạo giác ngộ giải
thoát. Khi người học Phật tìm đến Thiền Tông đông đảo cũng là lúc người học
Phật đánh mất chánh tâm cầu sự giải thoát hoàn toàn. Phần đa người học Phật tìm
đến Thiền Tông về sau chỉ rộng cầu tri kiến nên chỉ dừng lại ở vị trí sa môn
nghĩa học, môn đồ tri giải. Hành giả chân chính hiếm hoi, thậm chí bặt dấu.
Đến thời Lục Tổ Huệ Năng hộ
pháp, số người tìm đến đạo Phật đã dính mắc rất nhiều ở văn tự, kinh Phật, việc
chứng ngộ, sự ấn chứng,... Do tâm thông muôn pháp thông, triệt ngộ Phật tâm
tông nên Lục Tổ Huệ Năng tùy thời điểm hóa những người học Phật chân chính,
khai mở pháp môn đốn ngộ, con đường ngắn nhất giúp người học Phật “Minh tâm,
kiến tánh”, “Kiến tánh, thành Phật”.
Rồi thì pháp đốn ngộ cũng
nhanh chóng bị môn đồ tri giải, sa môn lạm dùng. Người học Phật theo lối thiền
tông về sau tham cứu kinh sách, chấp lấy cái hiểu của người xưa cho rằng “Ta
chứng ngộ, ta hiểu thiền, hiểu đạo” nhưng thực chất chỉ là những chiếc thùng
rỗng kêu to.
Và để điểm hóa người học Phật
các vị Tổ sư Thiền Tông lần lượt bày ra những pháp phương tiện khéo để giáo hóa
đồ chúng, giúp người chứng ngộ.
Khi thấy người học Phật ôm
khối sở tri Phật học đồ sộ nhưng lại chẳng liễu thông chánh pháp, các vị danh
gia hành giả đã cảnh tỉnh “Tri kiến lập tri tức vô minh bổn, tri kiến vô tri
tức Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn”, người đến tham bái nghe hiểu nhưng cũng chẳng
thể buông bỏ khối sở tri đồ sộ.
Thế là lại nhọc công danh gia
hành giả bày ra phương tiện “Buông”, phương tiện đoạn lìa kinh sách với những
người nặng oằn kiến thức Phật học mênh mang, pháp Quay Vào Bên Trong, pháp khán
thoại đầu, Thiền công án,…
Tất cả các pháp phương tiện
khéo lần lượt được xác lập song cả thảy đều mau chóng bị vô hiệu hóa bởi tri
kiến người học Phật nâng cao nên đã khiến việc lĩnh hội các pháp phương tiện dễ
dàng và các pháp phương tiện nhanh chóng bị lạm dùng.
Từ đó chốn Tòng lâm đầy dẫy
hàng sa môn nghĩa học, môn đồ tri giải với việc ham tu chứng, tham đắc ngộ. Thiền
Tông từng bước bị tàn lụi. Và cùng với nhiều lý do khác nhau như chiến tranh ly
loạn, việc đánh mất tính thiết thực, niềm tin của người đương thời đối với tôn
giáo và sự truất phế đạo Phật ở các vị hoàng đế chuyên quyền, tàn bạo Phật giáo
đã suy vong nơi đất nước Trung Hoa.
Về sau Phật giáo Trung Hoa
phát triển trở lại với pháp môn Tịnh Độ Tông, khi niềm tin con chim không còn
đặt ở đôi cánh, con người đã trông đợi vào phép màu, vào Thần linh, vào Trời
Phật.
…
Đạo Phật từ đó trở nên là một
tôn giáo hữu thần, quy thuận các cõi giới vô hình, quy thuận chính quyền và
từng bước sa ngã vào các tệ nạn mê tín dị đoan của ngoại đạo.
…
Người học Phật ngày nay do
tiếp cận giáo lý Phật học dễ dàng và cũng nhanh chóng bị chi phối bởi những tri
kiến Phật học lệch lạc nên đã ngộ nhận tri kiến Phật.
Kết quả là người học Phật ngày
nay cả Tăng lẫn tục, cả hệ phái Nam Tông lẫn Bắc Tông càng hành trì, càng tham
học Phật pháp lại càng xa rời chánh đạo, việc nhiễm ô tà pháp mê tín dị đoan đã
khiến người học Phật lạc lối chánh pháp. Việc giác ngộ giải thoát sáng rõ, chân
phương ngày càng trở nên mông lung, huyễn hoặc, bất khả thi.
Và cũng do có duyên tiếp cận
giáo lý, Pháp ngữ Thiền Tông rất nhiều người học Phật rơi vào chấp thủ đoạn lìa
kinh sách, quay vào bên trong, hoặc chỉ cần niệm lục tự Di Đà là đủ. Nhưng
chung cùng chính họ cũng không thể xác định đích đến của chính mình khi tìm về
đạo Phật.
Có một sự thật trước đây, bây
giờ và sau này vẫn vậy. Đạo giác ngộ giải thoát là đạo của sự hiểu biết khách
quan, sáng rõ, là đạo của trí tuệ. Thế nên người học Phật mà chối bỏ sự hiểu
biết đấy là một nhận thức sai lầm, một tư duy nông nổi.
Người học Phật ngày nay muốn
tìm về sự giải thoát hoàn toàn nhất thiết phải dùng trí tuệ của chính mình để
minh định sự chân ngụy, chánh tà hiện tồn nơi đạo Phật.
Và người học Phật có đạo tâm
hãy nên ra sức trao truyền giáo lý giác ngộ giải thoát khách quan, đúng mực và
sáng rõ. Đây là một việc làm tích lũy thiện duyên, phát khởi bồ đề tâm, tăng
trưởng pháp khí đại thừa,… Đấy là những pháp phương tiện thù thắng giúp người
học Phật thâm nhập kho tàng Như Lai Tạng, chứng ngộ pháp vô sanh, làm chủ việc
luân hồi. Chính vì vậy mà người học Phật rất nên ra sức phổ truyền chánh pháp
sáng rõ, minh bạch.
…
Riêng phần Ngạo Thuyết, Ngạo
Thuyết sẽ vì sự mê lầm của giới Tăng Bảo cũng như người học Phật ngày nay mà ra
sức khêu sáng lại ngọn đuốc chánh pháp ở phạm vi nhân loại.
Ngạo Thuyết sẽ phá vỡ chiếc
bình cổ đạo Phật, giải phóng chánh pháp giác ngộ giải thoát trả về cho nhân
loại. Và nhân loại ngày nay, quả địa cầu này thật sự đang rất cần sự hiểu biết
khách quan, sáng rõ mà Phật Thích Ca và vị Giác Giả thứ hai đã tận tụy trao
truyền.
Với lòng bi thiết Ngạo Thuyết
hy vọng mọi người, những người bạn hãy dùng trí tuệ nhìn nhận, xét lại những điều
Ngạo Thuyết đã đang và sẽ trình bày mà nhận diện sự chánh tà, chân ngụy hiện
tồn nơi đạo Phật.
Mọi người, những người bạn hãy
vì sự tồn vong của sự sống, sự tiến bộ của nhân loại mà chung tay lan tỏa sự
đúng mực, khách quan, sáng rõ của chánh pháp, của quy luật luân hồi và giải
thoát hoàn toàn – Lối Thoát Cho Tương Lai Nhân Loại.
Rất cảm ơn mọi người! Cảm ơn
những người bạn, những vị Phật Di Lặc đã vì nỗi thống khổ của muôn chúng sinh
mà hạ sanh!
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét