Tì vết nơi Tam tông và đạo Phật ngày nay (P.3)
Thiền tông:
Dựa vào pháp Tâm truyền tâm được cho là “của riêng” Sơ Tổ Trung Hoa, ngài Bồ Đề Đạt Ma. Trói người học Phật vào pháp với việc thiền hành, thiền tọa, xa rời ngôn thuyết, giáo lý kinh điển. Mục tiêu của người học Phật theo pháp tu Thiền tông là chứng đắc 1 trong 4 quả vị Thánh, cầu A la hán, tham học pháp xuất thế gian.
Do việc hạn chế tham
khảo giáo lý, kinh điển, không học hỏi sự hiểu biết và ít va chạm nơi pháp thế
gian nên sự chứng ngộ đạo lý giác ngộ, giải thoát ở người tu Thiền tông có phần
giới hạn.
Tuy nhiên, người tu
Thiền Tông quả thật có chứng, có đắc và vì có sự “đột ngột” khai mở trí tuệ nên
người học Phật dễ sinh tâm ngã mạn, nuôi lớn bản ngã.
Có không ít người tu
thiền đã “Coi trời bằng vung”, “Dưới mắt không người”, “Khinh Sư, diệt Phật”.
Cụ thể là có không ít
người tu học một thời gian được khai mở sự hiểu biết đã lập ra tông giáo mới,
phân biệt ra Như Lai thiền, Tổ Sư thiền, thêm nhiều pháp thiền khác nhau và cả
Tối thượng thừa thiền.
Không chỉ vậy, có một
vài Tông phái thiền dõng dạc tuyên bố “Pháp môn tu cao hơn pháp Phật, hoặc là
nếu y pháp môn của Tông phái đó thì sẽ đảm bảo đắc A la hán,…”.
Những người học Phật
này nếu không rơi vào lợi dưỡng, lợi danh thì hẳn là đã dừng nơi Đại ngã. Đành
rằng: Vạn pháp đồng tánh không nhưng cũng đừng quên cụm từ “chẳng thật không”.
Với trí tuệ của Đại
ngã nơi tự thân mà dám tự thị “Pháp môn tu cao hơn pháp Phật” thì không phải là
quá ngông cuồng sao?
Hãy nên nhìn nhận lại
cội nguồn nơi đâu mà đạt pháp, phát khởi trí tuệ lớn. Dù rằng là vì người học
Phật đời sau nói lời hư vọng nhưng không thể “một sớm, một chiều” “tắm máu” Như
Lai.
Rõ thật là việc làm
cuồng ngông đó chỉ ở nơi Đại ngã chưa thực chứng Vô ngã. Nếu dừng lại nơi Đại
ngã thì người học Phật chưa thật sự sống với Chánh vị. Nếu nhận biết phạm lỗi
Đại ngã mạn thì người học Phật nên tự tâm sám hối chí thành nhằm phục hồi giới
thể, tự tìm về bản tâm thanh tịnh, không dính mắc.
Tôi lại kể một câu
chuyện về sự hành trì sai chánh pháp của một người học Phật rơi vào đại ngã.
Đây là một câu chuyện có thật.
Trước đây, có một người học Phật chuyên tâm thiền định.
Sau một thời gian hành trì, người đó khai mở được sự hiểu biết trở nên thông
tuệ. Do chưa phá bỏ hoàn toàn bản ngã và do dục tính huân tập sâu dày chưa được
điều phục rốt ráo, người đó đã hướng sự phát triển tông giáo theo hướng mới
nhằm thỏa mãn tính dục bản thân mà về sau nhân loại tạm gọi tông giáo đó là tà
giáo. Người đứng đầu tông giáo đó được gọi là nhà truyền giáo tình dục. Nguyên
do tông giáo đó hướng con người đến sự tự do tình dục, tổ chức những buổi quan
hệ tình dục nam nữ tập thể, quần hôn,… Kết quả nhà truyền giáo đó đã chết không
minh bạch. Cái chết không minh bạch đó có thể xét đến khía cạnh việc truyền bá
tư tưởng của nhà truyền giáo trên không đúng với lòng người, trái đạo. Trái đạo
tất sẽ mạng vong.
Xét lại vấn đề này,
ta sẽ thấy việc làm của người truyền giáo trên là sai trái, không đúng với
chánh pháp Phật Thích Ca. Nếu chưa sống được chánh vị thì hẳn là người truyền
giáo đó sẽ phải luân hồi trở lại.
Đáng buồn hơn là
những tín đồ của Tông phái tà quái trên sẽ bị dìm sâu hơn trong những nẻo tối
tăm, xấu ác.
Ở đây sẽ có sự khác
biệt giữa pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Với pháp thế gian thì người
“biết luật phạm luật” sẽ bị trừng phạt nặng hơn còn ở pháp xuất thế gian thì
ngược lại, người “biết luật phạm luật” sẽ nhận nghiệp quả nhẹ hơn.
Bởi do mọi việc đều
lưu xuất ngay nơi tâm ý, người học Phật đúng pháp rõ biết nghiệp quả nên việc
làm e dè, thận trọng, không ngừng sửa sai vì thế sẽ dễ dàng hơn trong việc “Cầm
lên được thì buông xuống được” đồng nghĩa với việc không dính mắc, buông bỏ
được việc đã làm.
Tuy nhiên để làm được
điều này đòi hỏi người học Phật có sự hiểu biết sáng rõ và thường sống nơi pháp
Phật, sống với tâm không dính mắc, sáng rõ.
Để rõ hơn về việc
trừng phạt nơi pháp xuất gian giữa người học Phật và người không học Phật tôi
sẽ đưa ra một câu chuyện có trong giáo lý nhà Phật:
Ví như 2 người phạm tội và nhận cùng một hình phạt là
chạm tay vào thanh sắt cực nóng. Người không học Phật, không biết đến pháp xuất
thế gian sẽ không rõ biết thanh sắt cực nóng nên dùng bàn tay nắm cả vào thanh
sắt, còn người học Phật dù vừa mới tiếp xúc đến pháp xuất thế gian nhưng do
nhận biết thanh sắt nóng nên chỉ chạm nhẹ vào thanh sắt và rút tay về.
Hậu quả của việc
trừng phạt ở 2 người, bạn hãy tự nhìn nhận lấy.
Liên quan đến việc
làm trái đạo của nhà truyền giáo trên tôi phải trình bày lại sáng rõ một vấn đề
nhằm tránh tạo ra sự ngộ nhận đáng tiếc và cũng là giải một mối nghi trong tri
thức nhân loại.
Từ lâu, người học
Phật và phần lớn nhân loại lầm lạc tin rằng “Việc học Phật cần phải “cắt ái, ly
gia” vì vậy mà nhân loại đã tạo ra khoảng trống là sự xa rời pháp Phật”.
Nay tôi trình bày
việc xiển dương “tự do tình dục” là việc làm không đúng với chánh pháp của nhà
truyền giáo cũng lại là vấn đề liên quan đến tình dục.
Nếu tôi không trình
bày rõ ràng thì nhân loại lại mặc nhiên tin rằng “Người học Phật phải lìa bỏ
tình yêu, hôn nhân, gia đình”. Nhận thức như thế thì con người sẽ khó thể đồng
thuận dẫn đến việc xa rời pháp Phật và không thể tùy thuận sống theo chánh
pháp.
Thực tế là giáo lý
Phật Thích Ca chưa bao giờ khuyên con người từ bỏ yêu thương.
Vậy sao có thể thừa
nhận người học Phật là nên lấy “cắt ái, ly gia” làm sự chuẩn mực và là thước đo
của việc học Phật?
Người học Phật học gì
nơi Phật?
Việc học đó không gì
khác hơn ngoài việc học hỏi, hành trì theo chánh pháp.
Chánh pháp là gì?
Chánh pháp có ở nơi
đâu?
Chánh pháp có nơi
lòng người, lòng người chứa đựng chánh pháp. Thật vậy, sâu thẳm nơi lòng người
chính thật là việc cầu giải thoát khỏi mọi khổ đau và sinh tử. Chánh pháp là
các pháp giúp con người thực hiện việc thoát ra mọi khổ đau, thoát khỏi sinh
tử.
Để rõ hơn vấn đề này
tôi sẽ xét lại việc ngài A Nan trúng mê dược của cô Ma Đăng Già suýt phạm giới
thể. Phật đã cho người đến nhà cô Ma Đăng Già đưa cả A Nan và cô Ma Đăng Già về
gặp Phật.
Việc làm đó nhằm
“giải cứu” ai?
Từ lâu, người học
Phật cho rằng “Việc làm đó nhằm giải cứu ngài A Nan.
Đây là một sự ngộ
nhận đáng tiếc. Thật ra Phật đã giải cứu cô Ma Đăng Già giúp cô không rơi vào
tận cùng đau khổ và tuyệt vọng.
Lúc bấy giờ, ngài A
Nan đã đạt quả Dự lưu bất thối chuyển. Vạn nhất ngài A Nan phạm sắc giới thì
sinh lòng hổ thẹn, sám hối nơi tự tâm và trước đại chúng nhằm phục hồi giới
thể.
Việc này hoàn toàn
phù hợp với chánh pháp bởi lẽ ngài A Nan không “Tham dâm, túng dục” mà do trúng
phải mê dược và gian kế của mẹ cô Ma Đăng Già.
Hơn nữa, ngài A Nan
đã đạt bậc bất thối chuyển thì sẽ “Cầm lên được và buông xuống được” nên đối
với ngài A Nan mà nói thì đây không phải là kiếp nạn ghê gớm.
Với cô Ma Đăng Già
thì lại khác, vừa nhìn thấy ngài A Nan cô đã đem lòng yêu say đắm. Hiển nhiên
là ngài A Nan từ chối. Nàng Ma Đăng Già “ngày nhớ, đêm mong” dung mạo đẹp đẽ,
khôi ngô của ngài A Nan. Việc yêu đơn phương khiến cô Ma Đăng Già lâm bệnh
nặng, thân hình tàn tạ, đến chẳng còn thiết sống. Mẹ cô vì quá thương con nên
đã dùng mê dược nhằm giữ ngài A Nan làm “của riêng” cho con.
Nếu Phật không kịp
đến giải cứu thì hẳn là trinh tiết của cô Ma Đăng Già không còn.
Nhưng việc đó có giữ
được ngài A Nan ở mãi bên cô Ma Đăng Già không?
Nếu ngài A Nan rời đi
thì cô ta vạn phần đau khổ.
Còn khi ngài A Nan ở
lại và sống trong cảnh “Đồng sàng dị mộng” liệu cô Ma Đăng Già có được mấy ngày
vui?
Rõ thật là ngài A Nan
không hề yêu cô Ma Đăng Già. Khi đi theo Phật ngài A Nan một lòng cầu giải
thoát hoàn toàn, mong chứng quả vị thánh.
Việc hôn nhân của A
Nan hiển nhiên là Phật không thể tùy tiện xen vào. Nếu như ngài A Nan cũng yêu
thương cô Ma Đăng Già bằng tình yêu nam nữ và muốn cưới cô Ma Đăng Già làm vợ
thì hẳn là Phật tác thành mối nhân duyên đó vì thực tế ngài A Nan đã vào bậc
bất thối chuyển cho nên việc giải thoát hoàn toàn về cơ bản sẽ không gặp nhiều
trở ngại. Đây là lý lẽ đúng thật, không hề trái với chánh pháp Phật Thích Ca.
Có một điều rõ thật
là Phật Thích Ca chưa bao giờ khuyên vua cha Tịnh Phạn, vua Tần Bà Sa La, A Xà
Thế, Thái tử Kỳ Đà, vị trưởng giả Cấp Cô Độc, ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên,
y sĩ Kỳ Bà (Jivaka),… “cắt ái, ly gia”.
Nếu việc “cắt ái, ly
gia” là “cứu cánh” của đạo giải thoát thì Phật Thích Ca đã nhất mực khuyên vua
cha Tịnh Phạn xuất gia, cầu pháp. Người học Phật đừng hiểu sai về chánh pháp
của Phật Thích Ca.
Thêm nữa, chánh pháp
của Phật Thích Ca khuyên người học Phật không nên tham Dục. Chữ Dục mà Phật đề
cập đến không chỉ là tình dục - giới Dâm mà gồm rất nhiều thứ khác như tiền
bạc, của báu, địa vị, danh lợi, sắc đẹp,… Vì là khi con người tham đắm dục họ
sẽ không từ bất cứ thủ đoạn nào để chiếm hữu, giành giật, cướp về,… làm những
việc gây ra hàng loạt đau khổ cho con người và chính cả bản thân.
Nếu con người sống
với hành vi chân chính thì không có gì là trái với chánh pháp cả. Đối với giới
Dâm có hai vấn đề người học Phật cần rõ biết. Trong đó, chánh dâm là hoàn toàn
đúng với chánh pháp vì việc này đảm bảo sự tồn vong của nhân loại, là việc quan
hệ tình dục giữa những đôi vợ chồng hợp pháp.
Còn tà dâm là việc
làm sai với chánh pháp, nó thể hiện sự “túng dục, khát ái”, buông thả tà tâm,
vụng trộm, việc làm không đúng chánh pháp này sẽ khiến con người thân hình suy
hoại, héo khô, tâm trí loạn động, chẳng an,… và nơi hành dâm là những nơi được
xem là “vũng lầy xã hội” hoặc là những nơi hoang vắng, tối tăm mà người đời
thường gọi là “mèo mả, gà đồng”. Khi người tham dâm tạo thành thói quen thì đến
lúc chết đi sẽ lai vãng, thọ sinh ở những nơi xấu tối. Cứ thế mà những người
“tham dâm, khát ái” sẽ từng bước rơi vào những nẻo xấu trong 6 đường.
(Còn tiếp)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét