Sự Thật Về Đạo Phật (P. 1)
Thứ Ba, 16 tháng 2, 2021
Ngạo Thuyết xin thưa cùng mọi người rằng là KHÔNG.
Ở bài viết Ngạo Thuyết Xem Kinh (https://www.facebook.com/vuonthientinhtam/posts/218518529902672), Ngạo Thuyết có đề cập đến con đường trung đạo.
Và dựa vào con đường trung đạo chúng ta sẽ nhận ra một sự thật là Phật Thích Ca không từng lập ra đạo Phật, sa môn Cù Đàm không chủ trương lập ra một thứ tôn giáo gọi là đạo Phật.
Do đó, có thể nói đạo Phật ra đời là do những định chế phân biệt, những quy ước có tính dính mắc ở loài người.
Và hiển nhiên là những người học Phật cả xuất gia, tại gia, ngoại đạo và người đời đã chung tay góp phần tạo ra đạo Phật.
...
Thiền Tông chính thức ra đời ở Trung Quốc. Và để xác thực Thiền Tông là đạo Phật chính danh, là đạo Phật được chân truyền từ Phật Thích Ca thì giai thoại Niêm Hoa Vi Tiếu được dựng lên một cách rất vi diệu.
Tri kiến về 33 vị Tổ Thiền Tông, những bậc Long Tượng có công giữ gìn mạng mạch chánh pháp cũng được góp nhặt và phổ truyền vào sự hiểu biết của người học Phật.
Ngạo Thuyết cùng các các bạn điểm qua chút ít thông tin về 33 vị Tổ:
1- Tổ Ca Diếp gắn liền với tích Niêm Hoa Vi Tiếu, qua tích truyện này Tổ Ca Diếp nghiễm nhiên được đặt để vào vị trí là vị Tổ đầu tiên của đạo Phật. Tổ Ca Diếp thuộc dòng dõi Bà La Môn, cha là Ẩm Trạch, mẹ là Hương Chí. Ngày tháng năm sinh không rõ.
2- Tổ A Nan sinh sau Phật Thích Ca 30 năm, thuộc dòng dõi Sát Đế Lợi, em ruột của Đề Bà Đạt Đa.
3- Tổ Thương Na Hòa Tu thuộc dòng dõi Tỳ Xá Da, cha là Lâm Thắng, mẹ là Kiều Xa Da, ngài ở trong thai mẹ 6 năm rồi mới hạ sinh...
4- Tổ Ưu Ba Cúc Đa, khoảng cuối thế kỷ thứ nhất sau Phật niết bàn, ngài thuộc dòng dõi Thủ Đà La, cha tên là Thiện Ý.
5- Tổ Đề Đa Ca, đầu thế kỷ thứ hai sau Phật niết bàn, ngài tên Hương Chúng ở nước Ma Già Đa,...
6- Tổ Di Dá Ca, đầu thế kỷ thứ ba sau Phật niết bàn, ngài là người Trung Ấn, không rõ họ gì, ngài thọ giáo xuất gia Tổ Đề Đa Ca, tu hành chứng Thánh.
7- Tổ Bà Tu Mật, cuối thế kỷ thứ ba, sau Phật niết bàn, ngài họ Phả La Đọa sinh trưởng ở miền Bắc Ấn.
8- Tổ Phật Đà Nan Đề, đầu thế kỷ thứ tư sau Phật niết bàn, thuở nhỏ trên đỉnh đầu ngài có một cục nổi lên, thường phát hào quang ngũ sắc xen lẫn.
9- Tổ Phục Đà Mật Đa, cuối thế kỷ thứ tư sau Phật niết bàn, ngài họ Tỳ Xá La ở nước Đề Già, từ lúc sinh ra đến 10 tuổi không hề bước một bước, không từng nói một lời...
10- Tổ Hiếp Tôn Giả, tục danh là Nan Sanh, người nước Trung Ấn, mẹ ngài mang thai 60 năm mới sinh ra ngài...
11- Tổ Phú Na Dạ Xa, giữa thế kỷ thứ năm sau Phật niết bàn, ngài thuộc dòng dõi Cù Đàm ở nước Hoa Thị, cha là Bảo Thân,...
12- Tổ Mã Minh, cuối thế kỷ thứ năm sau Phật niết bàn, người nước Ba La Nại, tên hiệu là Mã Minh còn có tên hiệu là Công Thắng,...
13- Tổ Ca tỳ Ma La, đầu thế kỷ thứ sáu sau Phật niết bàn, người nước Hoa-Thị, ban đầu học theo ngoại đạo, giỏi các pháp huyễn thuật, đồ chúng có đến ba ngàn. Khi đến so tài với MãMinh, bị Tổ hàng phục,liền cùng đồ chúng phát tâm xuất gia. Tổ Mã-Minh độ cho Ngài xuất gia, sau truyền tâm pháp.
14- Tổ Long Thọ, giữa thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết bàn. Ngài cũng có tên là Long Thắng, dòng Phạm Chí ở miền Tây Ân.
Thuở nhỏ, Ngài bẩm tánh thông minh;vừa nghe Phạm Chí tụng bốn kinh Phệ Đà là Ngài thuộc lòng văn nghĩa.
Ngài đi chu du khắp các nước tìm học các môn thiên văn, địa lý, toán số, sấm ký và các học thuật của ngoại đạo. Môn nào Ngài học đến đều xuất sắc hơn mọi người. Nhân một cơ duyên chẳng lành. Ngài nhận thức được các pháp là vô thường đau khổ nên vào núi ở ẩn. Số người tìm đến cầu học với Ngài rất đông.
Sau khi gặp Tổ Ca Tỳ Ma La cảm hóa, ngài xin xuất gia được Tổ độ cho và truyền cả tâm ấn.
15- Tổ Ca Na Đề Bà, cuối thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết bàn. Ngài dòng Tỳ Xá Ly ở Nam Ấn. Thuở nhỏ Ngài bẩm tánh thông minh, biện tài vô ngại, Ban sơ Ngài học phong tục trong nước, ưa làm việc phước thiện.
16- Tổ La Hầu La Đa, đầu thế kỷ thứ bảy sau Phật Niết bàn. Ngài dòng Phạm Ma ở nước Ca Tỳ La. Thuở nhỏ đã có sẵn lòng mộ đạo, khi lớn do cơ duyên trong vườn có cây mọc nấm, Tổ Đề Bà giải thích rõ nhân duyên mà ngài được xuất gia.
17- Tổ Tăng Già Nan Đề, giữa thế kỷ thứ bảy sau Phật Niết bàn. Ngài là hoàng tử con vua Bảo Trang Nghiêm ở thành Thất La Phiệt. Ngài sinh chưa bao lâu đã biết nói, mà thường nói việc Phật pháp.
Năm bảy tuổi, Ngài chán thú vui ở đời,cầu xin xuất gia. Ngài nói kệ xin cha mẹ:
Khể thủ đại từ phụ,
Hòa nam cốt huyết mẫu,
Ngã kim dục xuât gia,
Hạnh nguyện ai mẫn cố.
Dịch:
Cúi đầu lễ cha lành,
Nép mình lạy mẹ hiền,
Nay con muốn xuất gia,
Xin thương xót nhận cho.
18- Tổ Già Da Xá Đa, cuối thế kỷ thứ bảy sau Phật Niết bàn.Ngài họ Uất Đầu Lam ở nước Ma Đề, cha hiệu Thiên Cái, mẹ là Phương Thánh.
19- Tổ Cưu Ma La Đa, đầu thế kỷ thứ tám sau Phật Niết bàn.Ngài dòng Bà la môn ở nước Nguyệt Chí. Gia đình ngài trước kia giàu có, song cha ngài vì bệnh tham tiếc chỉ một bề bo bo giữ của. Nhân việc con chó nằm ngoài rèm, gặp Tổ Già Da Xá Đa giải nghi, ngài phát tâm theo đạo Phật, xuất gia thọ giới.
20- Tổ Xà Dạ Đa, giữa thế kỷ thứ tám sau Phật Niết bàn. Ngài người Bắc Ấn, trước đã sẵn lòng mến đạo, thông hiểu đạo lý. Nhân du hý miền Trung Ấn gặp Tổ Cưu Ma La Đa, ngài nhờ giải nghi, rồi phát tâm xuất gia. Sau được truyền tâm ấn.
21- Tổ Bà Tu Bàn Đầu, cuối thế kỷ thứ tám sau Phật Niết bàn. Ngài họ Tỳ Xá Khư ở nước La Duyệt, cha hiệu Quang Cái, mẹ là Nghiêm Nhất.
Nguyên gia đình ông Quang Cái giàu có mà không con. Hai ông bà đồng đi lễ tháp Phật ở phía Bắc thành La Duyệt để cầu con. Sau đó, bà mộng thấy nuốt hai hạt châu, một sáng, một tối. Kế đó, bà biết mình có thai. Một hôm, có vị A La Hán hiệu Hiền Chúng đến nhà. Ông Quang Cái ra đảnh lễ. Đến lượt bà ra lễ, Tôn giả Hiền Chúng liền tránh qua một bên ra vẻ cung kính đáp lại. Ông Quang Cái lấy làm lạ hỏi:
- Tôi là trượng phu đảnh lễ Tôn giả chẳng nhượng, tại sao vợ tôi là phụ nữ mà Tôn giả lại kính nhượng?
Tôn giả Hiền Chúng đáp:
- Bởi ông là phàm phu nên tôi nhận ông lễ, còn vợ ông đang mang thai Bồ Tát là bậc pháp khí thượng thừa nên tôi cố tránh, không phải tôi trọng nữ khinh nam.
22- Tổ Ma Noa La, đầu thế kỷ thứ chín sau Phật Niết bàn.Ngài dòng Sát Đế Lợi ở nước Na Đề, cha là Thường Tự Tại, là vua nước Na Đề. Ngài là con thứ ba của vua, khi sanh ra có nhiều điềm lạ, nên vua không dám lấy việc thế tục ràng buộc.
23- Tổ Hạc Lặc Na, giữa thế kỷ thứ chín sau Phật Niết bàn Ngài dòng Bà la môn sinh tại nước Nguyệt Chi, cha hiệu Thiên Thắng, mẹ là Kim Quang.
Ông Thiên Thắng đã lớn tuổi mà không con. Một hôm, ông đến trước Kim Tràng thờ bảy đức Phật dâng hương lễ bái cầu con. Ít lâu sau, bà Kim Quang nằm mộng thấy một vị thần đứng trên ngọn núi Tu Di tay cầm vòng ngọc... Khi thức giấc, bà biết có thai. Khi Ngài được bảy tuổi đi chơi trong xóm, thấy một ngôi miếu thờ thần, dân gian hằng ngày giết các súc vật đến dâng cúng. Ngài đi thẳng vào miếu quở: - "Khéo bày đặt sự họa phước mà lừa gạt dân chúng, hằng năm làm hao phí của nhân dân, tổn hại sinh mạng loài vật quá nhiều!". Ngài quở xong, ngôi miếu bị sụp đổ. Dân chúng trong làng gọi ngài là ông Thánh con.
24- Tổ Sư Tử, cuối thế kỷ thứ chín sau Phật Niết bàn Ngài dòng Bà la môn người Trung Ấn. Thuở nhỏ Ngài rất thông minh, tài hùng biện xuất chúng.
25- Tổ Bà Xá Tư Đa, đầu thế kỷ thứ mười sau Phật Niết bàn Ngài dòng Bà la môn người nước Kế Tân, cha hiệu Tịch Hạnh , mẹ là Thường An Lạc. Một hôm, bà Thường An Lạc nằm mộng thấy lượm được cây kiếm thần, sau đó có thai ngài.
26- Tổ Bất Như Mật Đa, giữa thế kỷ thứ mười sau Phật Niết bàn. Ngài dòng Sát Đế Lợi ở Nam Ấn, con vua Đức Thắng
Lúc bé, Ngài đã sùng mộ Phật giáo, tánh tình thuần lương, thông minh xuất chúng. Vì can thiệp với vua cha về việc hại Tổ Bà Xá Tư Đa, Ngài bị hạ ngục. Sau khi được thả, ngài lấy cớ bệnh, từ ngôi Thái tử, xin xuất gia với Tổ Bà Xá Tư Đa. Sau đó, ngài được Tổ truyền tâm ấn, đi giáo hóa các nơi.
27- Tổ Bát Nhã Đa La, cuối thế kỷ thứ mười sau Phật Niết bàn. Ngài dòng Bà la môn ở Đông Ấn.
Cha mẹ mất sớm, ngài đi theo xóm, ăn xin qua ngày. Nếu có ai mượn làm việc gì, ngài sẵn sàng làm tận lực mà không cần tiền. Hành động và ngôn ngữ của ngài lạ thường, người đời không lường được. Khi gặp Tổ Bất Như Mật Đa nhắc lại duyên xưa, ngài xin xuất gia, theo hầu Tổ và được truyền tâm pháp.
28- Tổ Bồ Đề Đạt Ma, đầu thế kỷ thứ mười một sau Phật niết bàn
Ngài dòng Sát Đế Lợi ở Nam Ấn, cha là Hương Chí, vua nước này. Vua Hương Chí sanh được ba người con trai, ngài là Vương tử thứ ba. Thưở nhỏ, Ngài đã có trí tuệ siêu việt và đại tài hùng biện. Nhân dịp vua Hương Chí thỉnh Tổ Bát Nhã Đa La vào cung cúng dường, Ngài mới có duyên gặp Tổ. Qua cuộc nghiệm vấn về hạt châu, Tổ đã biết Ngài là người siêu quần bạt tục sẽ kế thừa Tổ vị. Sau khi vua cha mất, ngài quyết chí xuất gia cầu xin Tổ Bát Nhã Đa La được làm đệ tử, Tổ hoan hỷ làm lễ thế phát và truyền giới cụ túc.
29- Tổ Huệ Khả (494 - 601 T.L), Sư họ Cơ quê ở Võ Lao, dòng tôn thất nhà Chu, cha mẹ Sư lớn tuổi không con, lắm phen đến chùa cầu con, sau mẹ có thai sinh ra Sư. Khi Sư lọt lòng mẹ, có hào quang lạ chiếu sáng trong nhà, nên đặt tên Sư là Quang.
30- Tăng Xán (497 - 602 T.L): Không ai biết quê quán và gốc gác Sư thế nào. Chỉ biết Sư với hình thức cư sĩ mắc bệnh ghẻ lở đến lễ Tổ Huệ Khả xin xám tội. Nhân duyên đó mà được ngộ đạo.
31- Tổ Đạo Tín ( 580 - 651 T.L): Sư họ Tư Mã, tổ tiên quê ở Hà Nội, thân phụ Sư dời về Kỳ Châu huyện Quảng Tế mới sinh Sư. Sư xuất gia khi còn để chóp. Tuy tuổi ấu thơ, mà Sư có ý chí siêu việt, ngưỡng mộ Không tông và các môn giải thoát.
32- Hoằng Nhẫn (602 - 675 T.L): Sư họ Châu quê ở Châu Kỳ thuộc huyện Huỳnh Mai.
Năm bảy tuổi, Sư gặp Tổ Đạo Tín độ cho xuất gia. Từ đây về sau, Sư theo hầu Tổ đến khi được truyền tâm ấn. Khi Tổ tịch, Sư kế thừa trụ trì tại núi Phá Đầu, giáo hóa nơi đây rất thịnh hành. Khi ấy, dân chúng kính mộ tông phong dù ở xa nghìn dặm cũng tìm đến tham học. Tại đạo tràng nầy, tăng chúng thường trực không dưới năm trăm người.
33- Tổ Huệ Năng (638 - 713 T.L.)
Sư họ Lư, Tổ tiên quê ở Phạm Dương, cha tên Hành Thao, mẹ là Lý Thị. Đời Võ Đức (618 - 627 T.L) nhà Đường, cha Sư làm quan ở Nam Hải, sau dời về Tân Châu. Sư sinh tại Tân Châu. Sư được ba tuổi, cha mang bệnh rồi mất, mẹ thủ chí nuôi con. Sư lớn lên trong một gia đình rất nghèo túng. Mỗi ngày, Sư phải vào rừng đốn củi đem ra chợ đổi gạo nuôi mẹ.
...
Các bạn có thể tham khảo cuộc đời của 33 vị Tổ Thiền Tông ở sách Sử 33 Vị Tổ Thiền Tông Ấn Hoa.
Có thể nói cuộc đời của 33 vị Tổ là những giai thoại ly kỳ, bí ảo đến hoang đường.
Tuy vậy, người học Phật Thiền Tông xưa nay rất nhiều người tin nhận Thiền Tông được truyền thừa qua 33 đời Tổ y xì như thế, họ không dám không tin nhận sự tồn tại của 33 vị Tổ vì lẽ không tin sự hiện diện của 33 đời Tổ thì Thiền Tông sẽ mất gốc, sẽ không còn chỗ đặt chân.
...
Nhìn chung Phật giáo Bắc Tông thừa nhận sự tồn tại của Thiền Tông, việc thừa nhận sự có thật của 33 vị Tổ Thiền Tông nhằm làm đối trọng thể hiện sự chính danh đạo Phật của Phật giáo Bắc Truyền.
Tuy nhiên, trên thực tế khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến đất nước Trung Hoa thì Phật giáo ở Trung Hoa đã phát triển sâu rộng, dẫu rằng chỉ là "Hữu danh, vô thực" - Người tu thời nhiều, kẻ chứng ngộ lại hiếm hoi đến mức không có và điều đó đã dẫn đến một nhận định rất đanh thép là Phật giáo Trung Hoa mang danh nghĩa đại thừa nhưng hành vi chỉ dừng lại ở tiểu thừa.
Tổ Đạt Ma thấy hiện trạng Phật giáo Trung Hoa lấy làm ngao ngán, tương truyền ngài đã trải qua 9 năm ngồi ngó vách núi khơi khơi. Thời may người học Phật có đạo tâm biết sư là người xuất gia đến từ đất Phật nên lần lượt đến tham bái, thỉnh cầu pháp vị cam lồ. Do hội đủ nhân duyên Tổ Bồ Đề Đạt Ma phương tiện lập nên pháp môn Thiền Tông.
Lúc bấy giờ, nền văn hóa Trung Hoa vốn coi trọng thuyết Chính Danh vì thế nên đồ chúng Thiền Tông kiến tạo nên 28 đời Tổ Thiền Tông Ấn Độ để làm điểm tựa, đây là nền tảng cho 33 Vị Tổ Thiền Tông Ấn Hoa về sau.
Cá nhân Ngạo Thuyết cạn nghĩ không hẳn là giai thoại về 33 vị Tổ là hư cấu hoàn toàn, hẳn nhiên là sẽ có nhiều chi tiết thật. Song việc truyền thừa chánh pháp theo đúng mạng mạch sợi chỉ đỏ như thế thì sẽ không hoàn toàn là sự thật.
Tuy nhiên, qua những thông tin ít ỏi về gốc tích, dòng dõi, hành trạng của các vị Tổ sư Thiền Tông chúng ta có thể nhận diện được rằng những vị Tổ sư đều xuất thân từ ngoại đạo, rất nhiều vị đã từng là những vị Luận sư danh tiếng, có tài hùng biện bách chiến, bách thắng trước khi trở thành một vị sa môn quy y đạo Phật.
Từ đó, chúng ta sẽ hiểu biết và chấp nhận rằng Kinh Phật đã tồn tại và phát triển dựa trên nền tảng đạo Phật ban sơ và cả sự tiếp thu những tinh hoa trí tuệ của ngoại đạo cũng như của nhân loại.
Và người học Phật sáng mắt qua các thời kỳ lịch sử sẽ luôn gìn giữ, hộ trì tâm yếu giác ngộ giải thoát hoàn toàn mà Phật Thích Ca đã ra sức phổ truyền.
...
Tương tự như sự chính danh cần có ở Thiền Tông, đạo Phật thời kỳ tượng hình cũng cần có một điểm tựa và Đại hội kết tập kinh điển Phật học lần thứ nhất được ghi nhận vào lịch sử đạo Phật để làm nền móng cho đạo Phật.
Và nếu không có dấu tích về cuộc kết tập kinh Phật lần thứ nhất thì những lần kết tập kinh Phật về sau đều trở nên vô nghĩa và xáo rỗng. Do đó người học Phật sẽ ra sức bảo vệ Đại hội kết tập kinh Phật lần thứ nhất đã từng có tồn tại.
Tương truyền sau khi Phật Thích Ca nhập diệt khoảng 3 tháng, ngài Ca Diếp đã đứng ra chủ trì cuộc kết tập kinh Phật lần đầu tiên. Cuộc kết tập kinh Phật lần đầu được ghi nhận do 500 vị đệ tử Phật đã đắc quả A la hán ra sức, cuộc kết tập diễn ra trên núi Linh Thứu, trong động Kỳ Xà Quật (Grdhrakuta).
Giai thoại kể rằng sau khi tuyển chọn khắt khe ngài Ca Diếp cùng 498 vị A la hán vào động Kỳ Xà Quật rồi đóng cửa hang động. Sau một đêm trước ngày kết tập kinh Phật ngài A Nan đã nỗ lực hành trì chứng liên tiếp 3 quả vị Thánh còn lại. Trời tản sáng, ngài A Nan liền đến bên ngoài cửa động Kỳ Xà Quật đánh tiếng. Ngài Ca Diếp biết rằng ngài A Nan đã chứng quả A la hán nên bảo với đại ý rằng "Sao còn không vào?", ngài A Nan liền xuyên không vào trong động hội ngộ và rồi trước đại chúng khai khẩu "Như thị ngã văn... ".
Liên quan đến động Kỳ Xà Quật còn có một giai thoại khác được người học Phật lưu giữ, đó là sau khi cùng 499 vị A la hán kết tập xong Kinh Phật, ngài Ca Diếp xả báo thân, nhập định ở động Kỳ Xà Quật chờ đến khi Phật Di Lạc hạ sinh sẽ xuất định trao chánh pháp Nhãn Tạng Như Lai cho Phật Di Lặc rồi mới chính thức niết bàn.
Ngày nay, thông qua những cuộc nghiên cứu và cả việc vá lỗi những lỗ hổng tri kiến về lịch sử đạo Phật, các nhà học giả và người học Phật tạm thời ghi nhận về Đại hội kết tập kinh Phật lần thứ nhất như sau:
Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất, thời điểm kết tập vào khoảng 3 tháng sau khi Phật Thích Ca nhập diệt.
Lần kiết tập nầy, ngài Đại Ca Diếp chủ tọa, ngài Ưu Bà Ly lập lại giới luật đã được Phật đặt ra, ngài A Nan nhắc lại giáo pháp đã được Phật giảng dạy cho những ai, ở tại đâu, vào lúc nào, mọi người được tham gia bổ túc những thiếu sót cho được đầy đủ, ghi nhớ để truyền khẩu.
Lần kiết tập nầy kéo dài trong 7 tháng, được mệnh danh là ''Vương Xá Thành Kết Tập'' hay ''Ngũ Bách Kết Tập''. Hệ phái Phật giáo Bắc Truyền thì cho rằng đại hội kết tập lần thứ nhất chỉ kéo dài có 3 tháng.
Ở kỳ đại hội này có một sự việc đáng chú ý đó là việc trưởng lão Ma ha Ca diếp khiển trách ngài A Nan.
Theo đó trưởng lão Ca Diếp nêu các tội (trong Phật giáo các tội này gọi là Đột cát la, Skt. Duskrïta, Pali. Dukkata) yêu cầu A Nan phải sám hối, ngài A Nan có thanh minh cho lý do tại sao hành động như vậy và ông không thừa nhận mình có tội nhưng sau đó vẫn sám hối do tôn trọng trưởng lão Ma ha Ca diếp[5].
Những lỗi ngài A Nan bị khiển trách là:
- Không hỏi Phật những giới luật nào là nhỏ nhặt để có thể thay đổi
Lý do: Ngài A Nan sợ làm phiền Phật vì Phật sắp nhập Niết bàn
- Khi vá y Tăng già lê cho Phật, ngài A Nan đã dùng chân đạp lên y
Lý do: Không có ai cầm y trong khi trời có gió nên phải dùng chân để giữ lại
- Xin Phật cho nữ giới xuất gia
Lý do: bà Ma ha Ba xà ba đề Cồ đàm di từng nuôi dưỡng Thế Tôn đến trưởng thành, rồi Ngài đi xuất gia mà thành Chánh giác, do vậy không thể quên công ơn của bà.
- Không cung thỉnh Phật tại thế lâu dài hơn mặc dù biết rằng Phật có khả năng kéo dài đời sống ở thế gian.
Lý do: Không phải vì không muốn thỉnh Phật tại thế lâu dài mà vì ác ma Ba Tuần che mờ tâm trí.
- Không lấy nước cho Phật dù rằng Phật đã 3 lần yêu cầu.
Lý do: Có 500 chiếc xe qua sông làm cho nước rất bẩn, không thể uống được
Chúng ta biết rằng Ma ha Ca diếp là người tu hạnh đầu đà tức là lối tu khổ hạnh, ông là người chấp hành giới luật rất nghiêm cẩn. Về vấn đề trưởng lão không muốn cho phụ nữ gia nhập Tăng đoàn thì chính Phật cũng đã từng từ chối vì e Tăng đoàn sẽ khó tiến tu, phải đến lần thứ ba A Nan khẩn cầu Phật mới đồng ý.
...
Theo Phật giáo Nam truyền, sau khi hội nghị đã bế mạc, ngài Phú Lâu Na dẫn 500 tỳ kheo khất thực ở Nam sơn về tới, giáo hội cho ngài biết nội dung đã kết tập, ngài Phú Lâu Na tuyên bố ''Chư đức đã kết tập xong Phật Pháp như vậy rồi, nhưng những pháp mà tôi đã được riêng nghe từ kim ngôn của Phật, cũng nên thọ trì''. Câu chuyện nầy về sau biến thành giai thoại ''Giới ngoại kiết tập'', truyền tụng ở Bắc Phương Phật Giáo như sau: Trong khi 500 vị La Hán họp ở Vương Xá thành, có một số tỳ kheo khác do Bà Sư Ba (Baspa) làm Thượng thủ, họp tại một nơi gần đó để kết tập, gọi là ''Đại chúng bộ kết tập'' hay ''Giới ngoại kết tập'' Kết quả là khai sinh ra Kinh, Luật, Luận (theo Chân Đế Bộ Chấp Dị Luận Sớ '' hoặc năm tạng Kinh, Luật, Luận, Tạp và Cấm Chú (theo Tây Vức Ký).
...
Và qua nhiều lần hiệu đính, chỉnh sửa bổ sung giới học giả và các nhà nghiên cứu Phật học xác định đại hội kết tập kinh Phật lần thứ nhất diễn ra ở động Satiapanni (Thất Diệp) trên núi Vibhara.
...
Nhìn vào những thông tin được ghi nhận ở Đại hội kết tập kinh Phật lần thứ nhất chúng ta sẽ thấy có khá nhiều những thông tin mang tính cảm tính, chủ quan. Địa điểm kết tập Kinh Phật bị chỉnh sửa theo lối vá lỗi, phán đoán chứ không có một cơ sở chuẩn mực nào cả.
Và con số được xác định chuẩn không cần chỉnh là chỉ có 500 vị A la hán được ngài Ca Diếp tuyển chọn nghiêm ngặt đã tham gia đại hội kết tập kinh Phật lần thứ nhất.
Song vai trò của gần 500 vị A la hán không có một giá trị rõ ràng và có ý nghĩa. Họ chỉ ngồi đấy lắng nghe ngài A Nan kết tập Tạng Kinh, ngài Ưu Ba Ly kết tập Tạng Luật, họ chỉ lắng nghe và cứ thế gật đầu.
Thật ra thì con số 500 vị A la hán tham dự buổi kết tập kinh Phật là con số không có ý nghĩa. Chúng ta đều được nghe nói rằng người chứng đắc quả vị A la hán đều sẽ thành tựu Tam Minh, Lục Thông. Trên cơ sở đó chúng ta có thể xem sự hiểu biết của các vị A la hán gần như là tương đồng. Vậy nên 500 vị A la hán hay 1 vị A la hán nào có khác biệt gì.
Ngạo Thuyết tin rằng thông tin về Đại hội kết tập kinh Phật lần thứ nhất mà chúng ta được nghe ngày nay chủ yếu dựa trên cơ sở truyền thống, truyền thuyết chứ hoàn toàn không có một chứng cứ lịch sử nào khả dĩ đáng tin cậy cả.
Chúng ta lại được nghe vua A Xà Thế là người bảo trợ chính cho cuộc kết tập kinh Phật. Một việc làm rất thiêng liêng, nói theo lối dính mắc Công Đức, Phước Báu ngày nay thì đấy là việc làm tạo Công Đức vô lượng. Vậy lẽ nào vua A Xà Thế lại bỏ qua việc được nghe lại trọn vẹn những lời Phật thuyết.
Chúng ta lại được biết 500 vị A la hán tiến hành kết tập kinh Phật trong khoảng thời gian 3 - 7 tháng và lẽ dĩ nhiên họ phải uống ăn, ngủ nghỉ. Hẳn nhiên là sẽ phải có người cúng dường y áo, vật thực, thuốc men,... hàng ngày.
Sẽ không có một hang động nào đủ lớn để chứa 500 vị Khất sĩ cả ngày lẫn đêm nên chắc chắn rằng việc kết tập Phật lần thứ nhất (nếu có) sẽ diễn ra ở một không gian mở. Điều đó có nghĩa là không giới hạn ở số lượng 500 vị A la hán.
Thật ra việc kết tập kinh Phật có sự tham gia của Tứ chúng học Phật cùng ngoại đạo thì việc kết tập kinh Phật mới có ý nghĩa và có tính Chính Danh. Phật Thích Ca thuyết pháp với bàn tay mở nên việc kết tập kinh Phật không cần thiết phải giấu kín như bưng.
Do đó, nếu việc kết tập kinh Phật chẳng có ai biết ngoài 500 vị A la hán thì Ngạo Thuyết không tin rằng có một cuộc kết tập kinh Phật như thế đã từng diễn ra.
Vậy nên nếu cuộc kết tập kinh Phật lần thứ nhất có diễn ra thì sẽ không chỉ giới hạn ở con số 500 vị A la hán tham dự và có cả Tứ chúng học Phật cùng ngoại đạo góp mặt. Nếu vua A Xà Thế là người bảo trợ chính thì vị vua A Xà Thế chí ít cũng ngồi dự khán vài lần.
Và có một giả thuyết khác đặt ra là không từng có cuộc kết tập kinh Phật lần thứ nhất theo lối truyền thuyết mà người học Phật xưa nay đang cố gắng tin nhận.
Hẳn nhiên là người học Phật theo trường lớp sẽ không dám tin nhận đã không từng có Đại hội kết tập kinh Phật lần thứ nhất.
...
Ngạo Thuyết đang trình bày một thái độ học Phật rất nghiêm túc, rất lý tính và có trách nhiệm với sự hiểu biết của chính mình. Đáng tiếc thay! Đây lại chính là những điều mà người học Phật ngày nay đang thiếu sót.
Tất nhiên là nếu chỉ học Phật bằng lý trí thì Ngạo Thuyết sẽ chẳng dễ sáng mắt ra.
Thú thật là khi tìm đến đạo Phật, Ngạo Thuyết không cần phải suy xét nhiều đến thế. Song do duyên giải mã đạo Phật nên Ngạo Thuyết sẽ vén mở những tầng tầng lớp lớp vô minh.
Mời các bạn tiếp tục theo dõi Phần 2 bài viết có cùng tiêu đề để nhận ra Đại hội kết tập kinh Phật lần thứ nhất chứa rất nhiều sự hư cấu và cả dấu vết tiểu thừa của người học Phật xưa nay.
...
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét