Tâm là gì?
Chủ Nhật, 13 tháng 12, 2015
III. Tâm Là
Gì?
“Tu tại tâm” mà
không rõ biết “Tâm là gì?” thì có khác nào người bị mù mà lại khẳng định “Tôi sẽ
đi tìm và hái lấy vài ngôi sao trên trời”.
Đã không nhận
biết được “Tâm ở đâu?” thì làm sao rõ biết “Tâm là gì?”. Những câu hỏi dường như
đơn giản mà nhân loại mê mờ không thể cho những câu trả lời thỏa đáng. Đó cũng
chính là đầu mối dẫn đến sự rối ren của xã hội loài người, sự bất ổn trong nội
tâm con người trong cuộc sống hiện đại về vật chất nhưng lại thiếu đi sự hiểu
biết về nguyên nhân có được sự tồn tại của loài người và muôn vật trong vũ trụ.
Tâm có hình trạng
gì? Có màu sắc gì? Là xanh đỏ hay tím vàng? Là nhỏ bé hay to lớn? Là tròn đầy
hay rỗng không? Tâm có chứa đựng vật gì hay không có vật gì? Làm cách nào để nhận
biết được tâm?
Tất cả những câu
hỏi gợi ý trên có giúp bạn nhận ra hay suy lường được “Tâm là gì?” hay không?
Quả thật con người không dễ nhận biết tâm mặc dù họ cảm nhận “Tâm rất gần gũi”,
“Không một ai có thể tách rời tâm mà tồn tại”.
Trở lại cuộc
tranh luận của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm:
Chủ nghĩa duy tâm
cho rằng con người không phải chết là hết. Tùy theo sự hiểu biết của các vị giáo
chủ mà những tôn giáo khác nhau có những giả thuyết khác nhau về “Điểm đến” của
con người sau khi chết. Một số tôn giáo cho rằng con người sống lương thiện sẽ
lên thiên đàng ở mãi mãi trên đó. Người có lối sống xấu xa, gian ác, ích kỷ,…
thì sẽ vĩnh viễn xuống địa ngục chịu đựng sự hành hạ, giày vò,… Số tôn giáo khác
tin rằng con người chết rồi sẽ luân hồi trở lại, làm người ở kiếp sau. Loài vật
như chó mèo, gà vịt,… chết rồi sẽ lại luân chuyển trở lại hình dạng chủng loài
mà chúng đã hiện diện trước đó,…
Nếu những giả
thuyết trên là chuẩn xác thì con người đâu cần phải cầu nguyện, cúng bái mà làm
gì? Một khi con người vấp phải sai lầm, làm chuyện xấu ác thì vĩnh viễn chịu đọa
đày ở địa ngục. Đấng quyền năng tạo ra con người và muôn loài sẽ dõi mắt xem
con người chịu đựng sự hành hạ trong địa ngục với tâm trạng ra sao? Vui hay buồn?
Ý nghĩa của việc tạo ra loài người và muôn loài sao lại tầm thường đến vậy. Còn
nếu con người và mọi loài chết rồi lại quay trở lại mang hình hài của kiếp trước.
Vậy tại sao con người phải chết đi? Chết hay không chết có gì khác biệt? Riêng
giả thuyết về “Điểm đến” cho mọi chúng sinh sau khi chết của đạo Phật là luân
chuyển trong 3 cõi 6 đường tùy theo việc làm tội phước mà tự mỗi chúng sinh có
sự thọ lãnh nghiệp quả khác nhau và có một con đường giải thoát hoàn toàn, thoát
khỏi luân hồi.
Ngay thời Phật
tại thế, Ấn Độ đã có rất nhiều tôn giáo. Điều này thể hiện rõ việc con người
tin rằng: Con người không phải chết là hết. Mặc dù vậy giáo lý, kinh điển các tôn
giáo lại chứa đựng ít nhiều sự khiếm khuyết dẫn đến những cuộc tranh luận giữa
các tôn giáo khiến cho lòng người rối ren không biết tin vào chủ thuyết của tôn
giáo nào. Việc phần lớn tôn giáo cho rằng Đấng quyền năng đã tạo ra con người,
trói buộc con người tin vào số phận; Việc cầu nguyện, cúng bái bị lợi dụng,… Phật
thành đạo, nhìn rõ vạn pháp, thấu rõ nỗi khổ đau trong nhân loại - Con người muốn
được giải thoát khỏi bể khổ, khỏi sự luân hồi, khỏi địa ngục tối tăm,… Phật đã
nhập thế thuyết pháp giúp muôn người thoát khổ, được về Niết bàn.
Lúc bấy giờ, Ấn
Độ cũng có vài chủ thuyết cho rằng con người chết là hết. Nếu chết là hết thì cần
gì phải sống thiện lương? Cần gì phải học hỏi sự hiểu biết? Cần gì phải xây dựng
phát triển xã hội loài người? Vì lẽ dù là người thông minh, tài giỏi hay ngu ngốc,
hạ tiện, xấu xa,… thì chết là hết. Với sự hiểu biết con người dễ dàng nhận ra:
Những con người sống nhẫn nhịn, hiền lành thường bị những người tham lam, gian
xảo,… giành giật lấy những phần hơn về vật chất và quyền lợi. Khi mà những người
thuộc giai cấp lãnh đạo rõ biết “Chết là hết” thì họ cần gì phải bảo vệ quyền lợi
những người khốn khó, họ tiếp tay với những thành phần cơ hội, xấu ác nhằm thu đoạt
của cải, tài sản nhằm có được cuộc sống sung túc, giàu sang. Trách nhiệm, lương
tâm, danh tiếng - Chết đều không thể mang theo. Khi ý thức, nhận thức loài người
dựa trên nền tảng “Chết là hết” thì phải chăng lòng tham và sự hiểu biết vượt
trội sẽ biến loài người thành chủng loài sinh vật hiểm độc, hung ác bậc nhất? Xã
hội loài người sẽ là nơi chứa đựng đầy máu, nước mắt và sự khổ đau, thù hận sẽ
huỷ hoại loài người cùng trái đất. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân
Phật đã phải rời bỏ lối sống tĩnh lặng, tự do và đi rộng truyền chánh pháp.
Nhưng nếu thật
chết là hết thì con người và muôn loài sao phải sinh ra rồi chết đi? Ai đã tạo
ra việc làm vô nghĩa đó? Có chủ thuyết tự nhiên sinh cho rằng con người và vạn
vật do tự nhiên sinh. Nếu chấp chặt vào thuyết tự nhiên sinh thì từ thuở đất trời
còn sơ khai tự nhiên đã có loài người và muôn vật. Tự nhiên là cái gì mà lại có
thể làm được điều không tưởng đó. Và nếu thật là tự nhiên sinh thì con người và
mọi loài ngày nay tại sao phải cần có
cha mẹ mới nhào nặn nên hình hài. Lẽ ra con người ngày nay phải tự nhiên có mặt
như là người xưa đã từng tự nhiên có mặt,...
Tóm lại, tất cả
những chủ thuyết dựa vào bằng tư duy, lý luận,… của các vị giáo chủ đương thời đều
vướng vào nhận thức, tư duy chủ quan, lầm lạc, phiến diện,... Vì thế tri thức
con người không tìm ra được nguyên nhân hình thành loài người cùng muôn vật và
cũng không tìm ra được “Điểm đến” của con người cùng muôn loài sau khi chết.
Con người một khi bị trói vào những kiến chấp, những chủ thuyết sai lạc thì không
ngừng tranh luận, công kích lẫn nhau. Kết quả của những cuộc tranh luận đó là
không đi đến đâu, không giải quyết được vấn đề về nguồn gốc con người. Phật Thích
Ca đã ví những cuộc tranh luận của các chủ thuyết trên như là hình ảnh con kiến
bò quanh miệng một cái bát. Con kiến bò mãi, bò mãi,… dù trải qua hàng vạn kiếp
thì cũng chỉ là quanh quẩn ở miệng cái bát mà thôi. Do vướng vào những hiểu biết
sai lạc con người sẽ luân hồi trong 3 cõi cũng giống như là con kiến bò quanh
miệng bát.
Chủ nghĩa duy vật
cũng cho rằng con người chết là hết. Qua giáo lý kinh điển, những người theo chủ
nghĩa duy vật nhận ra các tôn giáo cho rằng con người chết ở nơi này sẽ đi thọ
sinh ở nơi khác. Điều này thể hiện có sự đến và đi, đồng nghĩa với việc có “Cái
gì” để đến và đi. Dựa vào khoa học, chủ nghĩa duy vật đã tiến hành hàng loạt những
cuộc nghiên cứu tìm hiểu nhằm chứng minh con người chết sẽ không còn gì, không
có sự luân hồi, không thiên đàng, địa ngục,… Kết quả những nhà khoa học đã thu được
qua các máy quay, các máy kiểm tra hiện đại là không có “Cái gì” cho thấy có sự
đi ra hay đi vào ở cơ thể con người ngay thời điểm con người chết. Từ đó tri thức
nhân loại khẳng định: Chết là hết. Mục đích của chủ nghĩa duy vật nhằm khẳng định
thế giới tâm linh là sự sai lầm của tri thức con người, là sự mê tín cần phải
xóa bỏ.
Không chỉ có những
người theo chủ thuyết duy vật vướng vào việc dò tìm “Cái gì” sẽ đi ra khỏi cơ
thể người chết mà ngay cả những người tin vào sự hiện diện của thế giới tâm
linh cũng rơi vào tà kiến đó. Mỗi khi có người trút hơi thở sau cùng họ cố tìm
xem hơi ấm cơ thể người chết dịch chuyển theo hướng nào. Cụ thể là từ chân lên đầu
hay từ đầu xuống chân. Cuối cùng họ sẽ cố cảm nhận xem “Cái gì” thoát ra khỏi cơ
thể ở vị trí nào nhằm ước đoán cõi giới mà người chết phải thọ lãnh. Đây là việc
làm “Lừa người dối mình”. Vì thực tế sẽ không có “Cái gì” đi ra hay đi vào cơ
thể người chết cả.
Do dựa trên góc
nhìn, tư duy hạn hẹp, phiến diện,… tri thức nhân loại đã phạm sai lầm cơ bản và
ngớ ngẩn - Bị ngôn ngữ đánh lừa.
Tại sao tôi nói
"Tri thức nhân loại bị ngôn ngữ đánh lừa?”
Thật vậy tri thức
nhân loại đang bị trói vào ngôn ngữ. Khi nhân loại nói có thì phải là có “Cái gì”?
Khi nói không thì sẽ là không có “Cái gì”? Vì thế khi nói có đến có đi thì phải
có “Cái gì” đến đi. Nếu không nhận biết, nhìn thấy “Cái gì” thì sẽ không có sự đến
đi. Việc này đồng nghĩa với việc “Cái gì” đó phải có thể nhìn thấy, tiếp xúc,
nhận biết được,… Đây là sự ngớ ngẩn do tâm trí, nhận thức u mê gây ra và con người
đã tự trói buộc vào tri thức lầm lạc đó. Chính vì sự lầm lạc mà con người có
quan niệm chỉ tin vào những gì mắt có thể thấy, tai có thể nghe, miệng có thể nếm,
mũi có thể ngửi, tay có thể chạm đến,… và những gì nằm ngoài những quan niệm trên
thì sẽ không tồn tại.
Nhưng thật sự
không phải vậy. Bởi vì khoa học vẫn thường nói về không gian, chân không, hư không,
không khí,… Trong không gian, chân không, không khí có “Cái gì”? “Cái gì” đó có
thể nhìn thấy được, nắm bắt,… được không? Nếu không thể nhận biết, chỉ rõ thì
phải chăng “Cái gì” đó không có. Nếu đã không có “Cái gì” sao lại có tên gọi là
chân không, không khí, hư không, không gian,… Nếu thật không có không khí, không
gian thì có sự sống, có tồn tại mọi sự vật, đất nước, núi sông không? Chủ nghĩa
duy vật và khoa học nên chăng xét lại góc nhìn của tri thức nhân loại ở thời điểm
hiện tại?
Hơn nữa, sự khác
biệt nào giữa người sống và xác chết? Xác chết thì nằm im, bất động và hư hoại.
Còn người sống thì có thể đi đứng, nằm ngồi, thấy nghe và hay biết. Con người
khi ở trạng thái thiền định - dừng lặng cái thấy nghe hay biết thì có khác với
cái xác chết không? “Cái gì” đã tạo nên sự khác biệt đó. “Cái gì” đó - nhân loại có thể nhận biết, cầm nắm, nếm ngửi,…
không?
Vấn đề có phần
hơi sáng rõ - Ngay cả thời điểm con người còn sống mà nhân loại vẫn không thể
nhận biết “Cái gì” đó có hình dạng, màu sắc ra sao? Đến khi con người thành xác
chết thì làm sao có thể nhận biết được “Cái gì” đó có đến, có đi hay không được?
Dựa vào cơ sở không nhìn thấy “Cái gì” để khẳng định - Chết là hết - có còn hợp
lý nữa không?
Tâm là gì?
Sẽ không ít người
cho rằng cái thấy nghe hay biết, vui buồn,… chính là tâm. Vậy khi dừng lặng không
suy nghĩ, hoặc là khi ngủ thì con người sẽ “Đánh mất” tâm - như là xác chết?
Khi thức dậy, suy nghĩ thì tâm sẽ hiện diện - con người sống lại. Sự việc lại
trở nên điên đảo vì lẽ con người lúc thì sống, lúc thì chết rất khó phân biệt.
Chính việc lầm
lạc nhận định cái thấy nghe hay biết, sự vui buồn, hơi thở,… làm tâm mà Phật Thích
Ca đã khẳng định: Chúng sinh trong 3 cõi 6 đường u mê, điên đảo “Nhận giặc làm
con”. Từ đó mê loạn trôi lăn trong luân hồi sinh tử, không biết được ngày ra.
Hẳn là bất kỳ
ai trong nhân loại đều có những giây phút dừng lặng không nghĩ suy hơn thua, được
mất, không cảm giác vui buồn, yêu ghét,… Một trạng thái tĩnh tại, lặng yên. Từ
trạng thái tĩnh lặng đó, mắt thấy cảnh đẹp, người đẹp sinh lòng ưa thích rồi
tham đắm mong muốn được gần gũi chiếm làm vật sở hữu, dùng những toan tính, những
thủ đoạn,… để giành về. Nếu việc thành công thì vui sướng, mừng rỡ,… còn việc
không thành thì lo lắng, sầu khổ,… Ngược lại, cũng từ trạng thái tĩnh lặng đó
con người gặp những cảnh trái ý nghịch lòng rồi dính mắc, chất chứa muộn phiền,
oán thù, ganh ghét, tị hiềm,… Sự tham đắm, si mê, sân hận,… sẽ não hại con người.
Với tinh thần, tâm trí lầm lạc con người sẽ lại dễ dàng làm những việc sai trái
- Những việc làm thiếu sự tỉnh táo, sáng suốt,… sẽ gây thêm khổ đau cho họ và mọi
người xung quanh.
Có một thực tế,
cảm giác của con người là không thật. Khi con người vui sướng cùng cực thì cũng
chính là lúc cảm giác vui đó giảm và mất dần. Cũng lại như vậy khi cảm giác buồn
bã, tuyệt vọng đạt mức cao nhất thì cũng chính là lúc những đau đớn trên chuyển
sang một trạng thái cảm giác khác. Đó chính là tính chất vô thường của cảm giác.
Dù cho con người thường sống trong sự vui buồn, yêu ghét, tranh giành hơn
thua,… thì cũng có lúc cảm giác dừng lặng, không nghĩ suy toan tính,… sẽ làm chủ
tâm trí của con người. Chỉ cần khách quan tư duy, lắng lòng suy nghĩ con người
sẽ nhận ra trạng thái dừng lặng mới chính thật sự là “Ông chủ” của ngôi nhà thân
xác.
Từ một “Ông chủ”
tự tại, lặng yên con người đã để tâm dính mắc vào cảnh rồi tham đắm, si mê chất
chứa muộn phiền, đau khổ. Cụ thể, mắt thấy hình, tai nghe tiếng, mũi nhận biết
mùi hương, miệng nếm món ăn, tay chân và thân thể cầm nắm, xúc chạm,… rồi sinh
lòng ưa ghét dẫn đến hàng loạt cảm giác không thật xâm chiếm lấy tâm trí như
vui buồn, hờn giận, ghét thương,… đánh mất dần sự an lạc, tự tại, tĩnh lặng. Nhưng
các sự vật cũng không thật, cũng vô thường. Ví như con người thường rất yêu thích
mùa xuân vì xuân về có trăm hoa đua nở, khí trời dịu mát, lễ hội vui chơi,...
Nhưng mùa xuân không thường tại, xuân sẽ qua đi nhường lại cho những cơn mưa “Như
trút nước” của mùa hè. Đôi khi, con người buồn, tiếc nuối,… khi mùa xuân qua đi
và thầm nhủ “Sẽ đợi chờ mùa xuân sau”. Thời trai trẻ, con người thường ngắm mình
qua chiếc kính, lặng lẽ tự hào “Gương mặt ta ưa nhìn, thân hình ta đẹp và cân đối,
giọng nói thì êm dịu, ngọt ngào,…” nhưng ngày tháng cứ trôi, ta nhận ra - Ta không
còn trẻ đẹp, không còn khỏe mạnh, rắn rỏi. Ta cố gắng níu giữ lại những gì son
trẻ bằng đủ mọi hình thức như rèn luyện thể thao, phẫu thuật, dùng mỹ phẩm,…
Cho dù con người rất cố gắng níu giữ tuổi trẻ, sức khỏe,… nhưng con người sẽ già
đi. Do không chấp nhận thực tại thường đổi thay con người đã sống trong khổ đau,
nuối tiếc,… Tri thức nhân loại đang huyễn hoặc, lừa dối lại chính con người. Tâm
phân biệt nhốt con người vào xác thân không thật, luôn biến chuyển và sẽ tàn hoại.
Con người đang sống trong cảnh không thật, si mê tham đắm tạo ra những cảm giác
không thật rồi vui buồn chất chứa nhưng chúng cũng không thật. Vậy mà con người
đang vì những thứ không thật đó đã gây khổ não cho loài người và muôn vật. Sống
trong tham đắm si mê, sân hận, hoài nghi và kiêu mạn, tạo ra oan trái, oán hờn ở
gia đình cũng như ngoài xã hội. Chiến tranh, hận thù, khổ đau được nuôi lớn và trực
tiếp hoặc gián tiếp tạo ra mối họa lớn - Đe dọa sự tồn tại của trái đất.
Qua những điều
tôi trình bày, mọi thứ đều có vẻ không thật. Nhưng nếu mọi thứ đều không thật
thì con người cần gì phải giữ lấy trái đất? Cần gì phải sống với trái tim “Biết
yêu người”? Cứ hãy sống với quan điểm “Chết là hết”, cứ giành giật những phần hơn
về mình. Con người hãy cứ sống thụ hưởng sự xa hoa, rượu ngon, gái đẹp, người tình,…
bất chấp mọi luân thường đạo lý,... Vì mọi thứ đều không thật. Nhưng có một sự
thật - Bạn chưa từng sống thật với những điều không thật đó. Bạn chỉ nhận biết
mọi thứ không thật qua những câu từ tôi trình bày trong sách, trong Tam tạng
kinh của Đức Thế Tôn. Những điều tôi trình bày chỉ là phương tiện tôi dùng nhằm
giúp bạn nhận biết sự thật. Sự thật là bạn có bản tâm tĩnh lặng, tự tại, không
tham đắm, si mê,… Vì chưa sống thật với bản tâm vắng lặng nên bạn sẽ còn tham đắm,
sân hận, si mê, kiêu mạn và hoài nghi. Thế nên bạn còn bị những vui buồn, được
mất,… trói buộc. Thực tế, khi sống với tâm phân biệt, dính mắc mọi thứ đối với
bạn là thật. Khổ đau, muộn phiền, lo toan,… đều là thật. Vì thế những gì bạn tạo
tác gây ra dù là thiện hay ác cũng đều được lưu giữ trong tâm phân biệt, tạo thành
nghiệp đi theo bạn “Như bóng theo hình” suốt cả cuộc đời bạn và hằng sa số kiếp
khác của chính bạn. Nghiệp lực có bản chất giống như là ký ức của con người.
Trong cuộc đời của mỗi con người có rất nhiều việc con người ngỡ quên rồi nhưng
thật sự là không quên hẳn. Rồi có lúc con người sẽ nhớ lại những việc dường như
đã quên đó. Phải chăng có những việc bạn làm ở thời thơ trẻ, bạn nghĩ đã quên rồi
nhưng đôi lúc bạn chợt nhớ lại cùng với những cung bậc cảm giác khác nhau? Nghiệp
lực theo bạn cũng giống như vậy, đủ duyên thì sẽ hiển hiện. Chỉ khi bạn thật sống
với tâm không phân biệt thì bạn mới thật sự rõ biết mọi thứ đều không thật. Bạn
sống với sự thật đó thì sẽ không còn gì có thể não hại bạn, bạn thoát khỏi sự
trói buộc hơn thua, được mất,… Nếu bạn hành trì miên mật, thuần thục thì cánh cửa
giải thoát hoàn toàn bạn đã tự mở lấy.
Vấn đề còn lại
là bạn có muốn bước qua cánh cửa đó hay không? Tại sao lại có sự do dự này?
Bởi vì bạn đã
khởi tâm từ bi, nguyện làm bồ tát cứu khổ chúng sinh trong 3 cõi.
Tóm lại, con người
hiện đang sống với hai tâm khác nhau: Tâm phân biệt - Vọng tâm và tâm không phân
biệt - Còn gọi là tâm, chân tâm, bản tâm. Gần như toàn bộ nhân loại từ trước đến
nay phần lớn thời gian đều sống với tâm phân biệt dính mắc. Chỉ có Phật Thích
Ca và những vị đệ tử Phật đạt quả vị giải thoát hoàn toàn là sống với tâm không
phân biệt, dính mắc. Vì thế cái nhìn của họ mới có sự thông suốt, sáng rõ, thấu
hiểu 3 cõi, 3 thời - Quá khứ, hiện tại, vị lai. Trên thực tế con người chưa bao
giờ đánh mất bản tâm. Chỉ vì mãi theo cảnh nên nhận cái thấy nghe hay biết dính
mắc làm tâm. Nào hay đó chỉ là những vọng tâm điên đảo khiến con người chìm đắm
trong 6 nẻo. Sau khi rong ruổi chạy theo cảnh chán chê, con người sẽ dừng lại -
Chân tâm hiện diện. Nhưng sau đó con người lại tiếp tục đuổi theo cảnh - Vọng tâm
lại làm chủ. Sự lầm lạc của cảm giác kéo theo sự sai lầm của tri giác, ý thức,
nhận thức,… của con người. Từ đó con người nhận lấy vọng tâm làm chủ quên mất “Ông
chủ thật sự là chân tâm”.
Sự lầm lạc này được
đệ tử lớn của Phật - Ông Kiều Trần Như đã ví vọng tâm như là một người khách ở
trọ. Người khách sẽ đến nhà trọ nghỉ lại, nhà trọ chính là ngôi nhà xác thân.
Sau khi ăn uống, tắm rửa, ngủ nghỉ,… thì người khách sẽ rời đi. Khi người khách
đi rồi thì nhà trọ vẫn còn đó và người chủ chính là tâm dừng lặng luôn hiện diện
trong ngôi nhà xác thân.
Từ trước thời
Phật ra đời con người đã quên mất bản tâm, nhận vọng tâm làm chủ - Nhận giặc làm
con, nhận khách quên chủ - Dẫn đến con người rơi vào màn lưới nhân duyên, nghiệp
quả chằng chịt của luân hồi trong 3 cõi 6 đường. Do nhận thức được thế giới tâm
linh có tồn tại, tri thức cổ xưa của nhân loại đã thừa nhận 8 sự khổ mà con người
phải thọ lãnh ở kiếp Người gồm - Sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, chết khổ, ái biệt
ly khổ, oán tăng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Nhận biết rõ thật
- Đời là bể khổ. Con người đã mong muốn thoát ly, xa rời những sự khổ não. Nhưng
do tri thức bị giới hạn, con người đã tin nhận sự tồn tại của một Đấng quyền năng.
Chính sự tin nhận lầm lạc này mà con người không thể thoát ra mọi khổ não, sống
lệ thuộc vào cầu nguyện, lễ lạy. Dẫu rằng có đức tin mãnh liệt, niềm tin sâu sắc
thì con người vẫn không thể thoát khổ và thoát khỏi 3 cõi 6 đường. Vì lẽ cho dù
có niềm tin kiên định và tấm lòng thánh thiện, con người sẽ được về cộng trú với
Đấng quyền năng nhưng đây chỉ là nẻo Trời trong 3 cõi 6 đường. Do chưa có sự hiểu
biết về tánh không của vạn pháp, chưa dứt bỏ được quan niệm sai lầm về cái tôi
thường tại của tự thân. Sau một thời gian dài lâu, hằng sa số kiếp tùy phước báo
nghiệp quả chúng sinh đó sẽ lại u mê nghĩ nhớ về tiền thân mà rơi lại vòng lẩn
quẩn luân hồi. Thế nên bất kỳ ai muốn học Phật, muốn được giải thoát hoàn toàn
thì phải dũng mãnh phát chí nguyện lớn - Liễu thoát sinh tử. Còn bằng giải đãi
tu hành, đọc kinh, niệm Phật, bố thí, trì giới,… mà không dùng trí tuệ quán chiếu
nhận rõ ngón tay và mặt trăng thì sẽ được thọ hưởng phước báo ở nẻo Trời, nẻo Người,
nẻo Atula.
Sau thời gian dài
thiền định và quán chiếu, Phật nhận rõ tâm, vọng tâm đều có thể hư huyễn - Không
hình tượng, không màu sắc, không âm thanh, không thể nắm bắt được,... Vọng tâm
thì vô thường, biến chuyển liên tục. Con người vì chạy theo cảnh đánh mất bản tâm
đã nhiều đời, nhiều kiếp trôi lăn khổ não. Càng cố vùng vẫy tìm cách thoát ra
thì càng bị trói chặt. Trong trạng thái thiền định, Phật nhận ra chân tâm là thường
tại vì bởi con người “Nhận giặc làm con” nên chân tâm bị vọng tâm che khuất, dẫn
đến lầm lạc, mê mờ. Phật tiếp tục quán chiếu từ chiếc lá, giọt mưa rơi, làn khói
tỏa, đám mây bay, con cò trắng,… và cả xác thân người. Người nhận ra chúng chỉ
là do duyên hợp. Trong chiếc lá, đám mây, hạt cát,… đều có chút đất, chút nước,
chút gió, chút lửa chỉ thiếu một trong bốn thành phần trên thì sẽ không có chiếc
lá, đám mây, hạt cát,… và tự thân mọi vật luôn biến chuyển không ngừng. Cả đất nước gió lửa cũng
không thường tại. Cũng chỉ từ đất nước gió lửa mà tạo ra tất cả mọi thứ có
trong vũ trụ, muôn hình, muôn dạng. Đây chính là chân tánh của vạn pháp - Chân
không diệu hữu. Phật tiếp tục quán chiếu “Cái gì” đã tạo ra vạn vật. Phật lại
nhận biết vạn vật sở dĩ được nhận biết, phân loại là do nhận thức, ý thức,… của
con người. Nhưng cái nhận thức, ý thức đó lại không phải là “Cái gì” có thể cầm
nắm, nhận biết, không hình dạng, màu sắc,… Vì lẽ đó tôi tạm gọi “Cái gì” đó là
“Cái không”. Phật lại nhận ra điều mầu nhiệm khác - Tất cả mọi sự vật, hiện tượng
dù là to lớn hay nhỏ bé đều nhờ “Cái không” mà có. Không có bất kỳ cái gì tồn tại
mà không có “Cái không”. Thật tế, vũ trụ rộng lớn tồn tại nhờ “Cái không” cho đến
hạt cát, nguyên tử, electron, nơtron,… cũng do “Cái không” mà hiện hữu. Xác chết
và người sống cũng do “Cái không” mà có sự khác biệt. Do nhận biết tánh không của
vạn pháp, Phật không còn dính mắc vào vạn pháp nên không còn khổ não. Phật nhận
ra Người đã từng phiền não vì vạn pháp vô thường, vô ngã, là khổ, là không mà
Người cho là thường, ngã, lạc, tịnh. Do thiếu hiểu biết, u mê dính mắc nên Người
đã có sự khổ. Đến khi hiểu biết tự tánh vạn pháp, Người không còn tâm phân biệt
nữa thì thoát ra ngoài mọi khổ não. Cái gì đã tạo ra sự khác biệt đó? Đó chính
là bản tâm dừng lặng, không sinh, không diệt, không dơ, không sạch, không tăng,
không giảm, không phân biệt dính mắc. Lúc bấy giờ tâm Phật đã hòa vào không đại.
Bản tâm Phật và không đại là không hai, là thường tại. Phật đã trở thành người
giác ngộ, giải thoát hoàn toàn - Liễu thoát sinh tử. Phật đã tận hưởng niềm hỷ
lạc do thiền định quán chiếu mang lại.
Tôi đã có cơ may
nếm trải niềm hỷ lạc sau khi đạt được đóa vô ưu. Không hẳn là niềm hỷ lạc của tôi
giống với niềm hỷ lạc của Phật nhưng về bản chất thì là như nhau - Niềm hỷ lạc
không chứa đựng sự hơn thua, được mất,... Vào buổi thiền định đêm 27/12/2010, tôi
đang quán chiếu làm cách nào để hòa tan tâm vào không đại, xác thân vào tứ đại.
Tôi đã thực hiện việc này rất nhiều lần mà chưa đạt được kết quả. Tôi chỉ nhận
biết những khi dùng đồ ăn, thức uống, hít thở,… là tôi đang tiếp nhận chút đất
nước gió lửa từ bên ngoài, rồi tôi sẽ thải ra chút đất nước gió lửa trả lại cho
tứ đại. Tôi thật không thường tại. Nhưng tôi chưa thật sự sống với sự thật không
thường tại nên tôi còn có những lo toan, phiền muộn,… Sự thôi thúc vượt qua mọi
khổ não kiếp Người đang chiếm lĩnh tâm trí tôi. Tôi dừng lặng hơi thở, quên thực
tại cho đến lúc người nóng bừng. Tôi thở vội một hơn thật sâu chợt nhận ra thân
tâm chấn động - Tôi chưa bao giờ là thường tại - Thân thể tôi biến chuyển liên
tục từ lúc vừa mới sinh ra, cả trước lúc tôi sinh ra, xác thân tôi là đất nước
gió lửa. Khi dừng lặng bản tâm là không đại và ngay cả khi không dừng lặng thì
tâm vẫn là không đại. Tôi là vạn vật hay vạn vật là tôi? Tôi tiếp tục công trình
quán chiếu đám mây bay, chiếc lá khô vàng, xác thân Phật,… Chỉ là chút đất, chút
nước, chút gió, chút lửa. Tôi nhìn rõ tiền kiếp, hiện kiếp, hậu kiếp của tôi và
muôn loài. Tôi nhận biết - Tôi đã mở được cánh cửa giải thoát hoàn toàn. Niềm hỷ
lạc mà tôi nhận được - Tôi là tia nắng sớm, hòn đất, viên sỏi, cây táo, quả hồng,…
Tôi lại nhìn thấy con khỉ đã ăn quả hồng, tôi luân chuyển làm con khỉ và … tôi
nhìn thấy gương mặt tôi có trong quả hồng, đám mây trắng, trên thân cây và con
khỉ,… Niềm hỷ lạc này phải chăng không chứa đựng sự được mất, hơn thua và tham đắm?
Tôi thấu rõ vạn
pháp, thấu rõ con đường của bậc giác ngộ - Đức Phật Thích Ca đã đi. Có một sự
thật là khi đạt được sự giác ngộ cao tột Phật hoàn toàn có thể quay về với gia đình,
về làm một vì vua tốt của vương quốc Thích Ca. Người sẽ trị nước bằng con đường
đức trị với sự hiểu biết về tình yêu thương
chân thật và bản tâm vắng lặng, không dính mắc. Nhưng Phật lại nhận biết loài
người và chúng sinh 3 cõi đều đang rất khổ não, họ đang rất cần một người có sự
hiểu biết tột cùng chỉ dẫn cho họ con đường giải thoát hoàn toàn, thoát ra mọi
khổ não. Vì thế giáo pháp mầu nhiệm về con đường giác ngộ, thoát khỏi luân hồi
cần được truyền sâu rộng vào trong xã hội loài người. Bởi lẽ con người là chúng
sinh duy nhất có đủ sự thông minh và làm chủ được những hành vi tạo tác của chính
mình. Muốn cứu khổ chúng sinh 3 cõi 6 đường thì phải lấy nẻo Người làm nền tảng.
Phật nhận biết Người đã không còn thuộc về một đất nước, một gia đình đơn lẻ;
Gia đình của Người là nhân loại và chúng sinh trong 6 đường. Phật đặt chân vào
con đường hành đạo và hoằng pháp.
Phần lớn loài
người thời Phật không có nhiều sự hiểu biết sâu sắc - Họ như là những đứa trẻ.
Vì thế con người có ít sự hoài nghi, khi được chỉ bày chánh pháp - Con đường
thoát khổ, thoát khỏi luân hồi. Đệ tử Phật - Cả người xuất gia và cư sĩ tại gia
- đã tin sâu, tinh tấn hành trì đắc quả vị giác ngộ, giải thoát hoàn toàn với số
lượng lớn. Những người học Phật đã tinh tấn hành trì “Cái gì” để đạt được sự giác
ngộ, giải thoát hoàn toàn? Họ học cách buông bỏ. Buông bỏ tham lam, sân hận, si
mê, hoài nghi và kiêu mạn. Họ dựa vào “Cái gì” để buông bỏ tâm phân biệt, dính
mắc? Họ dựa vào giáo lý kinh điển, dựa vào việc hành trì miên mật tùy thuận bố
thí, trì giới, nhẫn nhịn, tinh tấn, thiền định và trí tuệ để đạt sự hiểu biết về
cái tôi, vạn pháp, vọng tâm không thật.
Buông bỏ những
cái không thật thì họ đạt được bản tâm tĩnh lặng chân thật. Buông bỏ luôn cả bản
tâm chân thật, cái tôi nhỏ bé trong tấm thân máu thịt của họ hòa vào không đại.
Đệ tử Phật thành Phật, Bồ tát, A la hán thoát khỏi luân hồi.
Sự hiểu biết
cao tột của Đức Phật đã giúp cho chúng sinh trong 6 nẻo thoát dần ra mọi khổ đau,
được giải thoát. Giáo lý kinh điển Phật nhờ vậy mà được rộng truyền khắp nhân
loại. Chỉ đáng tiếc tri thức nhân loại ngày một nâng cao, tâm phân biệt hoài
nghi,… đã khiến con người đã từ lâu không còn tin vào con đường giác ngộ của Đức
Thế Tôn. Kinh Phật chỉ còn là nguồn tri thức quý báu của người xưa nhằm khuyên
con người sống hướng thiện, làm lành, lánh dữ và ngày càng mai một trong lối sống thực dụng,
bon chen, ích kỷ.
Viên ngọc quý
thứ ba của Tam bảo - Tăng bảo đã không còn sáng rõ, không còn sống được với giáo
pháp của Đức Phật. Sự lầm lạc, ngộ nhận của Tăng bảo đã chia chẻ đạo Phật ra thành
nhiều mảnh vụn chấp vá. Giáo lý kinh điển được mang ra phiếm đàm, hý luận, “Lấy
ngọn bỏ gốc”,... Càng về sau, càng lầm lạc. Không ít vị Tăng bảo rơi vào lợi dưỡng,
lợi danh, phép thuật, bùa chú, cầu nguyện, cúng bái,… Số khác nuôi lớn bản ngã -
Khinh sư, diệt Phật;... Sự không thực chứng ngộ bản tâm của giới Tăng bảo đã dẫn
đến việc tách rời đạo Phật ra khỏi đời, khỏi xã hội loài người. Đánh mất đi giá
trị ứng dụng thực tiễn của giáo lý đạo giác ngộ. Điểm qua các viên ngọc quý
trong Tăng bảo hiện nay, tôi nhận biết có một vài vị đạt được những sự tỏ ngộ đáng
ghi nhận. Tôi cũng nhờ tham khảo giáo lý của các vị này mà đạt được đóa vô ưu
nhưng các vị minh sư trên đã vướng vào rào cản Tăng bảo. Thế nên họ không đủ sức
hợp nhất đời đạo. Tri thức nhân loại đã tách rời đạo Phật ra khỏi đời. Đạo Phật
chỉ còn là một tôn giáo thuần túy. Tri thức nhân loại đã không thể nhận biết giáo
lý kinh điển của Phật là ngón tay chỉ mặt trăng. Do không nhận biết ngón tay,
tri thức nhân loại đã quên bỏ cả mặt trăng.
Có lẽ đã có không
ít người nhận ra - Tâm là gì? Và cũng có không ít người còn mơ hồ chưa thật rõ.
Tôi sẽ tóm lược lại vấn đề.
Nhằm giúp con
người nhận biết tâm, Phật đã chia tâm ra thành vọng tâm và tâm. Vọng tâm là tâm
phân biệt, dính mắc khi mắt thấy cảnh, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi hương, miệng
nếm vị, tay chân cơ thể xúc chạm đem tâm phân biệt dính mắc rồi sinh yêu ghét,
chất chứa,… quên mất sự tĩnh lặng của tâm rồi buồn khổ, sầu não. Do con người dính
mắc, không buông bỏ tạo thành nghiệp lực khiến con người thành một dạng chúng
sinh chìm nổi trong 6 đường.
Cũng như vọng tâm,
tâm cũng gồm những cái thấy nghe hay biết nhưng là cái thấy nghe hay biết không
dính mắc, là sự buông bỏ - Đối cảnh vô tâm. Khi sống với tâm không dính mắc thì
con người không còn tham đắm, u mê,… không còn bị đau khổ hơn thua, được mất não
hại. Khi sống với chánh định thì con người sẽ được giải thoát hoàn toàn.
Tôi sẽ đưa ra ví
dụ cho bạn rõ biết sự khác biệt của cái thấy giữa tâm và vọng tâm. Bạn hãy nhìn
một đám mây trắng bay trên bầu trời.
Tôi sẽ hỏi: Bạn
thấy gì?
Bạn trả lời: Thấy
mây trắng bay.
Một lúc sau, tôi
lại hỏi: Bạn thấy gì?
Bạn trả lời: Thấy
mây trắng bay về cuối trời.
Đợi thêm một lúc,
tôi lại hỏi: Bạn thấy gì?
Bạn trả lời: Mất
rồi.
Tôi hỏi: Mây trắng
mất hay cái thấy của bạn mất?
Bạn trả lời: Hiển
nhiên là mây trắng mất, cái thấy thì vẫn còn.
Tôi nói: Bạn nói
đúng. Cái thấy bạn vẫn còn. Vậy tại sao tôi hỏi bạn thấy gì, bạn lại nói là mất
rồi. Do dính mắc nên bạn đã lầm lạc nhận cảnh làm cái thấy. Bạn quên mất cái thấy
thường còn. Lẽ ra bạn phải trả lời: Thấy mây trắng không còn.
Tôi lại hỏi: Bạn
đã nhìn thấy cánh đồng lúa khi nào?
Bạn trả lời:
Khi tôi còn là một đứa trẻ.
Tôi nói: Bây giờ
bạn hãy nhìn lại cánh đồng lúa. Bạn hãy nhớ lại cái thấy khi bạn là một đứa trẻ
và cái thấy bây giờ là khác nhau hay giống nhau?
Bạn trả lời: Là
giống nhau.
Tôi lại nói: Thật
vậy. Cảnh vật thì có đổi thay, thời gian không dừng lại nhưng cái thấy nghe hay
biết của mỗi con người là luôn hiện hữu, là không đổi thay. Nhưng do sự mê lầm,
dính mắc mà con người quên mất cái thường tại, đuổi theo sự sinh diệt mà có
sinh có diệt. Con đường của việc học Phật là hành trì đi tìm lại sự tỉnh thức,
dứt vọng về chân. Bạn sẽ rõ biết - Bạn chưa từng sinh ra, liễu thoát sinh tử.
Điều căn bản của người học Phật là xác định sáng rõ - Tâm là gì? Tâm ở đâu?
Người học Phật mà rong ruổi theo vọng tâm sinh diệt thì sẽ là chúng sinh trong
3 cõi. Người học Phật bỏ vọng về chân, sống với bản tâm tĩnh lặng, không dính mắc
thì sẽ mau chóng đạt được chánh định, đạt được một trong bốn quả vị Thánh. Buông
bỏ cả bản tâm tĩnh lặng thì người học Phật sẽ giải thoát hoàn toàn, chấm dứt sự
sinh diệt.
Bài liên quan
- Chốt lại là có 02 nội dung theo tác giả "A- Sống với bản tâm tĩnh lặng, không dính mắc thì sẽ mau chóng đạt được chánh định, đạt được một trong bốn quả vị Thánh." và "B- Buông bỏ cả bản tâm tĩnh lặng thì người học Phật sẽ giải thoát hoàn toàn, chấm dứt sự sinh diệt."
Trả lờiXóa- Phải chăng cái Thấy, Nghe, Nói , Biết hằng hiện hữu có giống như Pháp môn Thiền Sư Thanh Từ chỉ dạy ạ ?