Mahavira – Người chứng ngộ chinh phục
Thứ Sáu, 13 tháng 7, 2018
Mahavira (chữ Phạn: महावीर; chữ Kannada: ಮಹಾವೀರ; chữ Tamil: அருகன் ("Arugan"))
có nghĩa là "Đại anh hùng" hay "Anh hùng vĩ đại", sinh
năm 599 TCN-mất 527 TCN)
tên thật là Vardhamana và là người đã sáng lập ra Kỳ Na giáo (đạo Jaina), một tôn giáo cùng thời với Phật giáo. Ông vốn là một vị hoàng tử nhưng đã từ bỏ cung vàng, điện ngọc để vào rừng tu hành và đắc đạo. Sau quá trình tu
đạo, ông nhận thức nhiều vấn đề, từ đó đã cố gắng vượt ra khỏi chủ nghĩa hoài nghi đang
thịnh hành trong xã hội Ấn Độ cổ. Ông tán thành học thuyết
"Naya" và cố gắng chứng minh tính khả thi của những quan điểm về các
vấn đề chung, ông chắt lọc, bổ sung, xây dựng nên học thuyết về đạo Jaina.
Thân thế
Mahavira tên thật là
Vardhamana, xuất thân là hoàng tử của bộ lạc Lichavi, vương quốc Kosala.
Thuộc đẳng cấp Kshastriya. Năm 19 tuổi, ông lập gia đình và có một con gái. Tới
năm 30 tuổi, Vardhamana rời gia đình, từ bỏ vợ con, dấn thân vào cuộc sống khổ
hạnh và khỏa thân. Con đường tầm đạo của ông kéo dài 12 năm trời mới thành đạo.
Trong thời gian ấy, có thời ông hiệp đoàn với Gosaka,
người về sau sáng lập Ajivikas,
một hệ phái Ấn giáo phi
chính thống khác.
Tới năm 42 tuổi,
Vardhamana, thành tựu toàn tri — thuật ngữ Jaina giáo dùng để gọi sự thức ngộ,
giác ngộ, vì thế được gọi là một Jina: người chinh phục. Các tín đồ của tôn
giáo này được gọi là Jaina — thường viết tắt là Jain — nghĩa là những kẻ đi
theo người chinh phục. Danh hiệu Mahavira có nghĩa là Ðại Anh hùng, một biệt
danh dùng để tôn vinh cá biệt vị tổ sư này.
Kết thúc 30 năm rao
giảng, xây dựng và phát triển Jaina giáo, Mahavira từ trần sau một cuộc
tuyệt thực cho tới chết tại Para,
nơi gần Patnangày nay. Và nơi ấy từ đó trở thành thánh
địa hành hương của mọi tín đồ Jaina giáo.
Cho tới thời điểm nhập
diệt, Ðức Mahavira có rất đông đảo đệ tử gồm hai dạng: thứ nhất nam nữ tu sĩ
(nữ đông hơn nam); và thứ hai các tín đồ tại gia (cư sĩ), luôn luôn giúp đỡ mọi
mặt, đặc biệt về vật chất, cho giới tu sĩ.
Trong Trung Bộ kinh, phẩm 56 Upaly Sutra của Phật giáo có kể lại cuộc tranh luận giữa
Đức Phật Sakyamuni (Thích Ca Mâu Ni)
và Nigantha
Dighatapassi (Trường Khổ Hạnh Giả), một cao đồ của Mahavira.
Sau đó, Phật Thích Ca còn
thu thập được Gia chủ Upaly,
một cao đồ cư sĩ của Mahavira. Kinh còn ghi lại cuộc tường thuật của hai cao đồ
ấy cho Mahavira.
Lời giảng của Ðức Mahavira
Gặp trường hợp có
những hệ phái khác nhau của một tôn giáo, các học giả khó có thể thẩm định
trong những lời tuyên bố không hoàn toàn giống nhau và đang ganh đua nhau ấy
cái nào là tiếng nói xác thực của người sáng lập. Nhưng đối với Jaina giáo không có vấn đề đó, vì cả hai
hệ phái chính — Svetambara và Digambara — chỉ bất đồng về vài điểm thực hành,
đặc biệt ở chỗ tu sĩ nên khỏa thân hay mặc quần áo, chứ không có
những thông giải triết học khác nhau về tôn giáo của mình. Do đó, chúng ta có thể
khá tự tin khi cho rằng các khái niệm hiện lưu hành trong Jaina giáo thật sự
phản ánh trung thực lời giảng dạy nguyên thủy của Mahavira 25 thế kỷ trước.
Ba điểm căn bản trong
các lời giảng của Ðức Ðại Anh hùng là:
·
Bác bỏ các nghi
lễ Bà la môn như là
phương thế để thành tựu giải thoát, ông tái thông giải khái niệm về nghiệp báo
mà truyền thống Ấn giáo chính
thống ưu tiên áp dụng nó như là hậu quả tuôn trào từ việc cử hành chính xác
các nghi lễ.
·
Phủ định sự hiện hữu
của cảnh giới thiêng liêng vĩnh cửu, ông tin rằng linh hồn của con người bị mắc
kẹt trong thế giới vật chất, cần được giải thoát nhằm thành tựu sự toàn mãn.
·
Biến giới luật bất tổn
sinh (bất bạo động -
ahimsa) thành tâm điểm tuyệt đối của triết học và đạo đức học thực
hành của mình.
Tuy thế, những lời
giảng của Mahavira không được ghi thành văn cho tới thế kỷ thứ 2 sau CN.
Mãi tới thế kỷ thứ 5, cũng vẫn
chưa có bản san định tổng thể các sách thánh chính của Jaina giáo. Ðể am hiểu triết học của mình, mọi
hệ phái Jaina giáo đều chấp nhận thẩm quyền và đặt cơ sở xiển dương trên cuốn
kinh Tattvartha Sutra (Kinh về những phạm trù nhận thức) do tu sĩ triết
gia Umasvarti ghi
lại vào khoảng đầu thế kỷ thứ 2 sau CN.
Mạn đàm:
Ngài
Mahavira đã chứng ngộ gì?
Khi người
học đạo dấn thân tìm hiểu, tham cứu đạo pháp dễ thường bắt gặp vị đạo sư này chứng
ngộ, vị giáo chủ kia chứng ngộ, người này đắc đạo, kẻ nọ đắc đạo… Vậy thực ra
chứng ngộ là chứng gì, ngộ gì? Đắc đạo là đắc cái chi, đắc ra làm sao? Và những
người được nói rằng chứng ngộ đó có giống nhau không?
Thêm
nữa, ở mỗi tôn giáo đều có đề cập đến việc vị giáo chủ chứng ngộ, hoặc môn đồ của
những vị ấy chứng ngộ. Vậy ra sự chứng ngộ giữa những người khác nhau ở những
tôn giáo khác nhau có là như nhau hay sai biệt?
Việc
chứng ngộ hay đắc đạo giữa người này với người kia là rất khác biệt cả ở tầm mức
tổng thể đến cả mức độ tinh tế. Việc chứng ngộ giữa người với người trong cùng
một hệ thống tôn giáo đã là sai biệt thế nên việc chứng ngộ, đắc đạo ở mỗi hệ
thống đạo giáo hiển nhiên là có sự khác biệt rõ rệt.
Vả lại,
chứng ngộ hay đắc đạo, đó là những phạm trù, những khái niệm trừu tượng, không
dễ nắm bắt hoặc trình bày.
Dẫu
vậy, muốn nắm bắt phạm trù chứng ngộ - đắc đạo không hẳn là vô kế khả thi. Chỉ
bằng vào tuệ tri khách quan chứ không cần đến tuệ giác chứng ngộ mới nắm bắt được
vấn đề chứng ngộ.
Nhìn
vào Kì na giáo ta sẽ thấy đây là một pháp tu có thiên hướng khổ hạnh xuất trần,
người học đạo, hành đạo ở tôn giáo này cũng tìm về sự giải thoát bằng cách sống
khổ hạnh để chinh phục cảm giác, tri giác, ý thức để không còn bị lệ thuộc,
thoát ra mọi ràng buộc của ngũ dục. Chính vì vậy, Mahavira khi chứng ngộ thì trở
nên là một đại anh hùng – Anh hùng vĩ đại hay là người chứng ngộ chinh phục. Chỉ
nhìn vào điểm đến ta sẽ dễ dàng nhận ra Phật Thích Ca và ngài Mahavira chứng ngộ
khác biệt. Ngài Mahavira hành pháp chinh phục còn Phật Thích Ca chứng giác ngộ
giải thoát hoàn toàn.
Còn với
Lão Tử thì trong giáo trình Đạo Đức kinh (nói riêng), trong Lão Giáo (nói chung)
không nói đến sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn hay việc chinh phục cảm thọ, tri
giác, ý thức mà chỉ đề cập đến đạo, quy luật vận hành của đạo. Thế nên người chứng
ngộ ở đạo Lão chỉ là người nhận biết, sống thật với đạo, quy luật vận hành của
đạo bằng vào sự tùy thuận uyển chuyển. Phạm trù đạo được Lão Tử chú trọng phân
tích, trình bày bằng nhiều cách khác nhau, đây là sự đặc sắc riêng biệt của đạo
Lão so với các hệ thống tôn giáo khác. Lão Tử nhìn nhận sự tử sinh – sinh tử
như là một quy luật vĩnh hằng, bất biến nên giáo trình của Lão Tử là chấp nhận,
tùy thuận theo bằng vào đời sống tri túc, thiểu dục. Lão Tử không hề đưa ra
khái niệm hay ý tưởng chứng ngộ rời xa sinh tử luân hồi mà chỉ là tùy thuận sống
an nhẫn cho qua ngày đoạn tháng.
Và nét
đặc trưng rõ rệt của những người chứng ngộ đều thể hiện ở đời sống ít muốn, biết
đủ. Người chứng ngộ không xây dựng đời sống ở lối sống phóng túng, xa hoa. Với
một đời sống xa hoa, phóng túng, ham quyền lực, thích thể hiện Osho khó thể là
hiện thân của một người chứng ngộ.
Phật
Thích Ca, ngài Mahavira,… và rất nhiều người chứng ngộ xuất thân từ thành phần
vương giả - Sát đế lợi, Bà la môn – song khi tầm đạo họ từ bỏ tất cả và đến khi
chứng ngộ họ dấn thân hành đạo, rộng truyền pháp bảo nhưng vẫn sống đời ít muốn,
biết đủ. Lão Tử không rõ xuất thân, gia thế nhưng giáo lý Lão Tử phổ truyền
mang đậm dấu ấn ít muốn, biết đủ. Vậy nên Osho chỉ nên được nhận diện ở vai trò
nhà truyền giáo đại tài, hiển nhiên là xuất phát điểm dấn thân của Osho cũng khởi
từ một ý niệm tốt nhưng do tư tưởng vị ngã, cá tính tự phụ và không chứng ngộ
đúng mực nên quá trình hành đạo của Osho đã bị trượt dài vào những sai lầm nên
về sau Osho đã xây dựng cho bản thân một đời sống phóng túng, xa hoa. Vô hình
chung Osho đã trở thành một kẻ mượn đạo tạo đời thành công hiển hách.
…
Người
đắc đạo được Lão Tử mô tả như sau:
Cổ chi thiện vi đạo giả vi diệu huyền
thông; Thâm bất khả thức. Phù duy bất khả thức, cố cưỡng vị chi dung:
Dự
hề nhược đông thiệp xuyên; Do hề nhược úy tứ lân; Nghiễm hề kì nhược khách;
Hoán hề nhược băng chi tương thích; Đôn hề, kì nhược phác; Khoáng hề, kì nhược
cốc; Hỗn hề, kì nhược trọc.
Người đạt đạo xưa thời tinh tế, mầu nhiệm;
Có sự hiểu biết thông đạt, sâu xa không thể nhận biết, suy lường được. Vì không
thể biết được, nên phải miễn cưỡng tả họ như sau:
Họ rụt
rè như người vào mùa đông lội qua suối; Họ e dè như là sợ láng giềng bốn bên;
Họ nghiêm chỉnh như là một người khách; Họ tùy thuận, uyển chuyển như là nước,
gặp lạnh thì đóng thành băng tuyết, gặp nóng băng tuyết tan thì nước sẽ chảy;
Họ đôn hậu, dày dặn, mộc mạc,…như gỗ chưa đẽo; Họ mờ mịt như ở trong cái hang
tối; Họ hỗn độn, lặng lờ,… như nước đục.
(Sách Đạo Đức Kinh Thậm Giải – Vô Ưu)
Bài liên quan
Lành thay
Trả lờiXóa