Giải mã cái được gọi là hiện tượng Thích Thông Lạc (Phần 2)
Thứ Sáu, 17 tháng 8, 2018
4. Đức Phật dạy: “Tu là phải lìa xa ý muốn của mình”. Cái ý muốn của mình là gì? Là Bản Ngã Ác Pháp. Bản Ngã Ác Pháp không ly thì làm sao có Niết Bàn? Vô Ngã Ác Pháp là Niết Bàn, chứ không phải Vô Ngã là Niết Bàn, vì vô ngã cả ác lẫn thiện là cây đá. [trang 41 TCB1] Đạo Phật chủ trương lấy thiện diệt ác, lấy đạo đức nhân quả làm cuộc sống của mình không làm khổ mình khổ người. Từ chỗ này chúng ta suy ra để thấy Đạo Phật không mâu thuẩn, vì Đạo Phật "Vô ngã ác pháp chứ không phải vô ngã thiện pháp". Nếu chúng ta tu hành vô ngã cả thiện pháp và lẫn ác pháp thì hóa ra chúng ta là cây, là đá; cây, đá là một loại vô tri vô giác, đó là cái vô ngã của Đại Thừa. Đạo Phật không có vô ngã như kiểu đó. (ĐVXP-Tập 8).
Nhận định này có chỗ không ổn vì đã tự có mâu thuẫn bởi lẽ nếu tu mà còn dính mắc tâm phân biệt tốt xấu, thiện ác,… Siêng làm việc thiện, lìa xa việc ác thì chính cái tâm dính mắc đó sẽ khiến người tu trôi lăn nơi luân hồi sinh tử. Người học Phật chân chính còn sống là còn làm nhưng làm những điều hợp với chánh pháp, không tạo tác duyên nghiệp, không ngừng hành trì việc buông bỏ, sống không tham đắm, vọng chấp, móng cầu. Và cái bỏ tối hậu, cứu cánh để đạt sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn là phá ngã, buông bỏ cái tôi cả nghĩ thường tại mà đạt Thường An Lạc Tịnh nơi hiện kiếp. Vô ngã là sống tùy thuận chứ không là sự vô tri hay hữu tri.
5. Một người tọa thiền thân không động, miệng không nói và ý không tư duy thì giống như cây đá, đó là thiền của Đại Thừa và Thiền Đông Độ, ngược lại thiền định của Đạo Phật thân không hành ác, nhưng thân hành thiện, miệng không nói lời ác, nhưng miệng nói lời thiện, ý không suy nghĩ điều ác, nhưng ý suy nghĩ điều thiện. Cho nên nên Đạo Phật không chấp nhận hành không, không chấp nhận hành ác, chỉ chấp nhận hành thiện. Vì vậy tu theo đạo Phật không trở thành cây đá, mà trở thành một con người hữu ích cho mình cho người, có nghĩa là không làm khổ mình khổ người, tạo cảnh sống thế gian thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.....[trang 170 TCB 1]
Đoạn này đã được lý giải theo ý ở bên trên.
6. Muốn triển khai Minh trí tuệ, các nhà Đại thừa và thiền Đông Độ dùng pháp hành ức chế niệm thiện niệm ác, cho tâm không niệm thiện niệm ác là định và do tâm định thì phát tuệ (chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền), bản lai diện mục hiện tiền là Phật Tánh, mà Phật Tánh là tánh giác, tánh giác tức là trí tuệ. Do những pháp hành tu tập để triển khai trí tuệ như vậy. Họ đã lầm, không ngờ đường tu tập ấy lại khai mở tưởng tuệ. Khi tưởng tuệ được khai mở thì lý luận của các nhà Đại thừa siêu việt tưởng, nên không tôn giáo nào tranh luận hơn được, nhất là lý Bát Nhã của Đại Thừa. Do lý luận siêu việt tưởng Bát Nhã nên nó đã phá luôn Phật Giáo chính gốc (vô khổ, tập, diệt, đạo). (ĐVXP-Tập 6).
Đoạn này đã được lý giải theo ý ở bên trên. Do không khách quan, tổng thể,… mà thầy Thích Thông Lạc đưa ra những lập luận chủ quan, thiếu tầm, hẹp lượng và không hợp chánh pháp.
7. Cái sai thứ nhất của kinh sách Phát Triển và Thiền Tông là: Khi tâm hết vọng tưởng do sự tập trung ức chế ý thức mà cho là định thì định đó không phải là định của Đạo Phật, mà là định của ngoại đạo.
Cái sai thứ hai là: Trong chỗ hết vọng phát sanh sự hiểu biết, mọi người đều lầm tưởng mà cho sự hiểu biết đó là trí tuệ. Sự thật đó là tưởng tri chứ không phải trí tuệ. Đức Phật đã xác định trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó; mà giới luật tức là đức hạnh, cho nên người có đức hạnh là người có trí tuệ, người có trí tuệ là người có đức hạnh.
Trí tuệ hiểu biết những tưởng pháp như hiểu biết trong kinh sách Đại Thừa và các công án của Thiền Đông Độ là tưởng tuệ. Sự hiểu biết đó không ích lợi cho mình cho người. Sự hiểu biết đó chỉ là một hý luận. Từ xưa đến giờ các thiền sư dựng lên trò hý luận công án nói Đông trả lời Tây, nói Nam trả lời Bắc và còn hơn thế nữa là la, hét, chỉ, trỏ, v.v...(ĐVXP-Tập 8).
Đoạn này đã được lý giải theo ý ở bên trên. Do không khách quan, tổng thể,… mà thầy Thích Thông Lạc đưa ra những lập luận chủ quan, thiếu tầm, hẹp lượng và không hợp chánh pháp.
8. Đọc suốt bộ kinh Kim Cang ta không thấy có một pháp hành nào cả, chỉ toàn là hý luận lý thuyết suông. Cho nên nói được nhưng chưa có ai làm được như trong kinh này. Kinh này từ xưa đến nay đã cho chúng ta ăn toàn thứ bánh vẽ......(ĐVXP-Tập 8)
Nhận định kinh Kim Cang không có pháp hành là tự có sai lầm. Không có bộ kinh nào của Phật Thích Ca thuyết nói riêng hay Giác giả trình bày mà không có pháp hành cả. Nếu không nhìn ra pháp hành là do tự thân không liễu nghĩa kinh mà thôi.
Một câu “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” đã chỉ rõ phép hành phá chấp có của người đời. Nếu liễu nghĩa câu kinh trên thì người học Phật tự biết không tham đắm tài vật, sắc thân, đẹp xấu, hôi tanh, thơm tho,… vì rõ biết những cái có hình tướng đều có tánh hư huyễn, không trường cửu. Đây không phải là pháp hành thì gọi là gì.
Đạo Phật chú trọng cái biết, cái hiểu. Khi nhận rõ chân thật tướng các pháp và bản thân thì người học Phật tự biết hành, tự biết sống đúng theo chánh pháp. Cũng lại như vậy “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” cũng ẩn tàng sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
9. Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới không phải là chánh pháp của Phật mà là của Bà La Môn có thâm ý muốn diệt Phật giáo nên mới chế ra Bồ Tát Giới. Mục đích của Bồ Tát Giới là bộ sách có hình thức tổ chức người cư sĩ thành một tổ chức để phục vụ cho Phật Giáo Đại Thừa. Phần thứ nhất là khuyến dụ người cư sĩ thọ Bồ Tát Giới để góp công góp của xây dựng đạo pháp của Bà La Môn, nhưng sự thật là phục vụ cho quý Thầy Đại thừa: Bồ Tát Giới là một bộ sách khuyến dụ Phật tử để lừa công sức và lừa của cải, tiền bạc của họ. Bồ Tát Giới là một loại kinh sách với thâm ý diệt Phật Giáo. Quý vị đọc cho kỹ lại bộ sách thì mới thấy rõ âm mưu thâm độc của Phật Giáo phát triển Đại Thừa. (ĐVXP-Tập 8).
Vì chủ quan mà thầy Thích Thông Lạc đã có những nhận định không thật đúng. Có câu “Y pháp bất y nhân” người học Phật chân chính, đúng mực hành bồ tát giới không sai còn người học Phật làm sai chánh pháp đâu thể bắt lỗi Tam Tạng kinh là hư hỏng.
Tuy nhiên, bồ tát giới do không được liễu nghĩa nên đã trở thành một trong những sợi dây trói người học Phật.
10. Kinh Duy Ma Cật là kinh phát triển của Đại Thừa. Kinh giáo Đại Thừa là kinh sách chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo khác nhau và những phong tục tập quán của con người trên hành tinh này mà thành lập ra giáo lý của mình. Nó không có gì đặc biệt riêng của nó, chỉ khéo dùng những danh từ thật kêu và cũng giống như vẽ rắn thêm chân, thêm râu, khiến cho mọi người dễ bị lường gạt tưởng là rồng thật. Giáo lý Đại Thừa và Thiền Đông Độ cũng lường gạt tín đồ như vậy, tưởng là một chân lý siêu việt của Đạo Phật, nào ngờ là một giáo lý chắp vá, như chiếc áo may nhiều loại vải thô xấu....(ĐVXP-Tập 8)
Kinh Duy Ma Cật là một bộ kinh hay của Bậc Toàn Giác. Nếu liễu ngộ kinh này thành Phật thật không khó.
11.Kinh Thủ Lăng Nghiêm đã lừa đảo mọi người. Tánh Biết, Tánh Thấy, Tánh Nghe, những tánh này là thường, lạc, ngã, tịnh, nó luôn luôn có trí tuệ diệu dụng, hằng giác, sáng suốt vô hạn, thế mà lại chui vào cái đải da hôi thúi. Thiền Sư Triệu Châu trả lời cho một thiền tăng hỏi đạo: biết mà cố phạm. Xưa Đức Phật cho những luận thuyết này là những loại luận thuyết trườn uốn như con lươn… Kinh Thủ Lăng Nghiêm là kinh phát triển của Đại Thừa, do người sau viết ra mạo nhận là Phật thuyết, nên lối lý luận thiếu chân thật, không logic, thường mâu thuẫn, v.v... Kinh này chỉ dạy cho chúng ta thấy Phật Tánh thường hằng sáng suốt từ vô thủy cho đến nay. Tất cả chúng sanh từ loài côn trùng, cầm thú đến loài người đều có, có mà ngu như con bò, nên thường chịu khổ từ kiếp này sang kiếp khác. Thà là chịu ngu như loài cầm thú còn hơn có Tánh Giác mà lại ngu thì mới buồn cười cho loại kinh sách xảo ngôn. Suy nghĩ chút xíu, chúng ta sẽ thấy rất nhiều cái sai trong kinh này. [ĐVXP-Tập 8]
Kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng là một bộ kinh đáng đọc dù rằng có một sự trùng lập ý khá nhiều nơi bộ kinh. Tuy nhiên, đây cũng là một bộ kinh có tính liễu nghĩa, thông suốt. Sự rườm rà ý từ có thể là do người đời sau không liễu nghĩa nên thêm thắt, dẫn dắt những lời thừa.
Nói đi thì cũng nói lại, có lẽ phần lớn kinh sách sau nhiều lần trùng tuyên đã có sự “Tam sao, thất bản” người chứng ngộ dễ dàng nhận ra những lời thừa cũng như sự liễu nghĩa trọn vẹn có nơi những bộ kinh (nếu người đó khách quan, không tự phụ cái biết chủ quan cá nhân).
Thêm nữa, bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm khá trừu tượng với cách diễn giải tương đối cao nên với tri thức cạn thì người học Phật khó thể nhất thời lĩnh hội được hết nội dung hay nói cách khác là khó liễu nghĩa. Rất nên đọc nhiều lần và có lẽ nên tìm kinh Thủ Lăng Nghiêm do những dịch giả dịch thoát ý, liễu nghĩa.
12..Kinh Viên Giác không phải kinh sách Phật thuyết mà do các Tổ thuyết, nhưng các Tổ khôn khéo gán cho Phật thuyết để dễ lừa đảo tín đồ Phật Giáo và tín đồ Phật Giáo cũng dễ tin tưởng là tất cả kinh đều do Phật thuyết vì kinh sách Đại Thừa tập kinh nào cũng bắt đầu bằng câu: Như thị ngã văn nhất thời Phật tại Xá Vệ Quốc, kỳ thọ Cấp Cô độc viên dữ ... , chỉ nội câu này cũng đủ lừa đảo người khác rồi.Kinh sách Đại Thừa nào cũng có hai phần: 1- Dụ dỗ 2- Hăm dọa.
Đoạn này đã được lý giải theo những ý ở bên trên.
13..Đức Phật Di Lặc không có, đó chỉ là một Đức Phật tưởng tượng của các nhà Đại Thừa Bà La Môn. Đức Phật Di Lặc đã được kinh sách Đại Thừa nói đến rất nhiều. Đó là một thâm ý nham hiểm của các nhà Đại Thừa Giáo, đưa Đức Phật Di Lặc ra để làm một cuộc cách mạng Phật Giáo lật đổ Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, thay thế bằng vị giáo chủ mới là Phật Di Lặc. .(ĐVXP-Tập 7).
Nhận định đức Phật Di Lặc không có thật là khá chuẩn nhưng thực ra chính Giác giả đã thuyết chứ không phải là gian kế của đạo Bà La Môn cũng như Phật giáo đại thừa.
Tuy nhiên, lỗi này không thuộc hoàn toàn nơi các nhà truyền giáo Đại thừa mà là do nơi người học Phật (nói chung), có một sự không liễu nghĩa về vị Phật Di Lặc, không rõ dụng tâm của Phật Thích Ca khi thuyết ra pháp Di Lặc hạ sanh do vậy nên “người trong mê thường nói lời mộng”.
Giác Giả trình bày về sự tồn tại của Phật Di Lặc với dụng tâm khác hẳn, đó cũng chỉ là một pháp hành đơn giản, ngắn gọn mà người học Phật nên tùy thuận, là pháp Từ Bi Hỷ Xả.
14…Bởi vậy từ khi có sự hý luận của Ngài Long Thọ với Trung Quán Luận là một tai hại rất lớn cho tín đồ Phật Giáo từ thế hệ này đến thế hệ khác chỉ toàn là ăn thứ bánh vẽ cho nên không mấy vị tu sĩ đạt được giải thoát, đến khi chết không có vị nào mà không đau khổ cả, họ đều lăn lộn trăn trở trên giường bịnh một cách khổ đau không thua gì người thế tục. .(ĐVXP-Tập 9).
Nếu nhận định thế này thì pháp hành của thầy Thích Thông Lạc cũng đâu khác chiếc bánh vẽ là mấy. Cũng tứ thiền, bát định, thập nhị nhân duyên,… nhưng niết bàn có hay không? Cách để thể nhập niết bàn,… thầy Thích Thông Lạc cũng đâu từng trình bày sáng rõ đủ để người học Phật dễ dàng chạm đến bằng cái biết khách quan, đúng mực.
15. Trên đường hoằng hóa độ sanh, Thượng Tọa bộ tuy cố giữ gốc Nguyên Thủy, nhưng vì các vị tu hành chưa chứng đắc nên có sự kiến giải trong giáo lý ấy bằng trí tuệ học giả hoặc bằng những kinh nghiệm chưa đến nơi đến chốn như: Thiền sư Mahàsi, Thiền sư A-Chaan-chah. Hai Ngài có những bài kinh soạn theo kiến giải kinh nghiệm tu hành của mình như: Mặt Hồ Tĩnh Lặng, Thiền Minh Sát Tuệ, v.v... Làm sai ý nghĩa và giáo pháp của Đức Phật rất lớn..Vì tu hành chưa tới nơi tới chốn, nên các Ngài biên soạn những loại kinh sách này vô tình đã để lại cho loài người trong hiện tại và mai sau những tai hại rất lớn, làm hao tài tốn của và phí cả cuộc đời của hậu học chẳng ích lợi gì, khi họ theo tu những pháp môn này. Trong thế kỷ này, tín đồ Phật Giáo khắp năm châu bốn biển đua nhau tu tập thiền Minh Sát Tuệ. Tu tập thiền này phải tập trung theo cơ bụng (Phồng, xẹp) nhằm diệt vọng tưởng. Loại thiền ấy thuộc về thiền ức chế tâm nó không phải là thiền của Đạo Phật.....(ĐVXP-Tập 8)
Đoạn này đã được lý giải theo ý ở bên trên. Cũng là những nhận định thiếu tính khách quan, hợp chánh pháp, hợp lòng người. Những nhận định mang nặng tính cá nhân, cảm tính.
Về ý thầy Thích Thông Lạc nói “không có linh hồn” vốn khởi nguồn từ sự tin nhận bản dịch Kinh Nikaya của hòa thượng Thích Minh Châu. Tuy nhiên, đây là một bản dịch Kinh Phật không liễu nghĩa
Thực ra nếu không có sự tồn tại linh hồn thì lấy cái gì mà chúng sinh nơi 3 cõi 6 đường trôi lăn trong sinh tử, quy luật nhân quả. Nếu không có linh hồn thì Tam Tạng kinh đã trở nên vô nghĩa rồi. Có thể thầy Thích Thông Lạc không thừa nhận khái niệm linh hồn mà muốn dùng khái niệm thần thức theo cách trình bày của đạo Phật. Linh hồn, thần thức, vong, hình thần,… tất cả cũng đều chỉ chung cái hiện trạng còn lại sau khi con người hay loài vật đã chết, cái mà sau này tôi sẽ gọi là Tâm ý sự sống cho sáng rõ, đúng mực hơn phù hợp với khoa học và tri thức đương đại hơn.
Bổ sung thêm ý về nhận định của thầy Thích Thông Lạc về sự không có Phật A di đà, Bồ tát Quán Thế Âm, Địa Tạng Vương Bồ tát cũng như hàng loạt vị Phật, Bồ tát khác,… sự không tồn tại cõi giới Tây Phương cực lạc. Tôi thừa nhận về nhận định trên của thầy Thích Thông Lạc là chuẩn, là đúng.
Để cho vấn đề đơn giản lại tôi chỉ xét vấn đề Phật A di đà và cõi Tây Phương cực lạc. Nếu đứng trên phương diện tổng quan và dựa trên kinh sách ta sẽ dễ dàng nhận ra hằng hà sa chư Phật, Bồ tát đều do Phật Thích Ca tuyên thuyết. Điều này có ý nghĩa gì? Thực ra mỗi vị Phật đều ẩn tàng một pháp hành mà Phật Thích Ca đã sáng suốt lồng ghép vào. Mục đích của việc lồng ghép pháp hành vào những bộ kinh có các vị Phật, Bồ tát là nhằm giúp con người dứt trừ đau khổ cả hai mặt thân và tâm, tiến đến là sự tăng trưởng trí tuệ cũng như việc tự liễu thoát sinh tử nơi mỗi người chứ không lệ thuộc, nhờ vả ai cả. Mục đích Phật Thích Ca sáng rõ là vậy nhưng người đời sau lầm lạc ý kinh, không liễu nghĩa Tam Tạng kinh nên bị kinh điển trói chặt dẫn đến mê tâm, cuồng tín.
Những bộ kinh liên quan đến Phật A di đà đều không quan trọng ở nội dung bộ kinh điển đó mà là ở nơi căn nguyên Phật thuyết bộ kinh đó.
Tương truyền Phật thuyết kinh A di đà khi hoàng hậu Vi Đề Hi tìm đến người trong tình trạng suy sụp hoàn toàn, không còn thiết sống nữa. Sở dĩ hoàng hậu Vi Đề Hi rơi vào trạng thái khủng hoảng cùng cực là do bà phải tận mắt chứng kiến con bà - Vua A Xà Thế bức tử cha ruột - Vua Tần Bà Sa La. Vì lẽ đó hoàng hậu chẳng còn thiết sống nữa, bà tìm đến Phật cũng chỉ là sự mong cầu Phật hóa giải hận thù trong lòng vua A Xà Thế và tạm xem như là “cứu rỗi” linh hồn chồng bà, vua Tần Bà Sa La lẫn chính bà. Là một người giác ngộ hoàn toàn Phật đã nhận thấy sự rệu rã tinh thần ở hoàng hậu, nếu không có một biện pháp “sốc dậy” tinh thần hoàng hậu thì e rằng hoàng hậu sẽ đau khổ và chóng chết.
Đứng trước tình cảnh một người sắp chết đuối Phật đã đưa ra một chiếc phao cứu sinh và Phật A di đà, cõi Tây Phương cực lạc chính là chiếc phao đó. Dụng tâm của Phật rất rõ ràng, cần phải cứu người sắp chết đuối lên bờ chứ không thể đứng ở mé sông mà thuyết pháp cho người sắp chết đuối. Khi cứu thoát người khỏi chết đuối rồi thì hoàng hậu sẽ có nhiều hơn cơ hội lĩnh hội chánh pháp, sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Khi đã làm chủ sinh tử, sáng rõ lối đi và khi ở trên bờ an toàn rồi thì người có hiểu biết, người tỏ ngộ phải chăng là sẽ không ôm giữ mãi chiếc phao cứu sinh giờ đã không còn cần thiết nữa.
Tuy nhiên, về sau người học Phật nhận lầm ý kinh. Cộng với việc ảnh hưởng phép Tu Tiên của đạo Lão người học Phật lầm đường ngỡ rằng cõi Tây Phương cực lạc là thật có nên ra sức hoằng dương Tịnh độ tông làm mê tâm, rối mắt người đời sau. Người học Phật sáng rõ chánh pháp sẽ tự biết niết bàn là không có nơi chốn để về, Tây Phương cực lạc chỉ là một pháp ẩn dụ của Phật Thích Ca mà thôi.
Song do mê tâm người học Phật ngày nay cũng như phần đông Tăng bảo tin rằng cõi Tây Phương là có nơi chốn để về chuyên tu. Thật đáng tiếc thay! Do vọng tưởng như vậy nên cõi Tây Phương huyễn cảnh được dựng lập nơi thế giới tâm linh. Cõi Tây Phương cực lạc đã có sự tương tợ cõi Tiên, cõi Trời,… người học Phật về đây an nhàn được một khoảng thời gian nhất định, tùy thuộc vào định lực, định tâm rồi cũng sẽ lại trôi lăn nơi sinh tử luân hồi ở 3 cõi, 6 đường. Lời này của tôi không sai với chánh pháp bởi lẽ còn sinh là còn tử, không thể khác được.
Có một sai lầm nơi nhận thức cũng như việc tự đánh tráo khái niệm ở người tu theo pháp môn Tịnh độ, từ đó họ tự “lừa người, dối mình”. Họ cho rằng chết nguyện vãng sanh cực lạc sẽ được Phật A di đà tiếp dẫn về Tây Phương tiếp tục tu học và thành Phật mà không phải chết thêm lần nữa. Được không với sự đúng mực, rõ ràng “Còn sinh ắt còn tử”. Thực ra, “Vãng sanh cực lạc” được dịch liễu nghĩa sẽ là dừng lại việc sinh tử sẽ đạt được sự an lạc tột cùng.
Thêm nữa, Phật A di đà, Phật Thích Ca hay bất kỳ một vị Phật nào đều cũng có hiệu Như Lai. Như Lai là không đến, không đi vậy Phật A di đà sao có thể tiếp dẫn người học Phật theo pháp môn Tịnh độ về Tây Phương và lại còn giảng đạo, thuyết pháp nữa. Đừng hiểu lầm tâm Phật.
Xem ra tôi đã viết khá nhiều, khá rõ về hiện tượng Thích Thông Lạc.Có lẽ cũng đã đến lúc nên dừng lại. Việc đúng sai ở nơi lòng mỗi người vậy nên mọi người hãy thư thả xem và xét lại.
Nếu có chỗ nào tôi trình bày sai với chánh pháp thì rất mong được mọi người bổ khuyết! Tôi rất cảm ơn những ý kiến mang tính đóng góp xây dựng.
Nếu còn có chỗ nào gút mắc, chưa rõ thì mọi người cứ góp ý tôi sẽ hoàn chỉnh lại bài viết.
Chúc mọi người thân tâm an lạc, sớm liễu nghĩa Tam Tạng kinh, sáng rõ chánh pháp ngõ hầu có một cuộc đời an nhiên, tự tại và có thể làm chủ sinh tử luân hồi. Trân trọng!
Cám ơn Diệu Tâm, Minh Quân cùng mọi người đã chia sẻ bài viết và thư ngỏ!
Bài liên quan
Rất hay. Tu theo cách thầy thích thông lạc rõ ràng dễ hiểu nhưng không biết chứng đến đâu và thấy gì để có động lực đi tiếp khi thấy hiện tượng thì có nên vui ko?
Trả lờiXóaNhờ Tác Giả giải thích hiện tượng phát sinh gần đây tại Chùa Thiền Tông Tân Diệu - Long An, giúp cho người sau được cái nhìn khách quan hơn.
Trả lờiXóaTrân Trong
Chào bạn Pham Hieu! Thời gian gần đây latuan chộn rộn nhiều nên không hồi đáp cho bạn sớm được. Mãi để hôm nay latuan mới viết bài về Thiền Tông Tân Diệu đươc. Mời bạn tham khảo ở link https://doavouu.blogspot.com/2019/03/rac-ruoi-phat-mon-thien-tong-tan-dieu.html.
XóaPham Hieu có thể tham khảo thêm về chân tướng ông Nguyễn Nhân ở 2 link sau:
https://www.facebook.com/groups/1584059648562689/permalink/2034267936875189/?hc_location=ufi
https://www.facebook.com/groups/1584059648562689/permalink/2034278973540752/?hc_location=ufi
Cảm ơn Pham Hieu! Chúc bạn có những thông tin hữu ich, lợi lạc cho chánh kiến, chánh tư của bản thân!
Đa phần tôi có cùng ý kiến với tác giả, trừ vài điều sau đây. Tôi nghĩ thầy Thích Thông Lạc đã đúng ở đoạn "Vô Ngã Ác Pháp". Diễn nghĩa rõ ra thì đó đúng là chánh pháp của Đức Phật. Không làm ác và làm thiện. Rất rõ ràng cần và đủ. Sống tùy thuận là cần nhưng chưa đủ. Học theo Đức Phật mà không khởi được cái biết phân biệt đúng/sai, tốt/xấu, thiện/ác ... thì học làm gì tôi ngẫm mãi không ra. Sống giữa chốn bộn bề phiền não này, nếu sự khởi lên mà không phân biệt rõ được thì ta cần phải hành động ra sao. Tôi nhớ phân biệt (trạch) là một trong bảy giác chi mà. Thế nên tâm có phân biệt là điều cần thiết, không bỏ được. Vấn đề tiếp theo là tác ý. Đây mới quan trọng, vì "ý dẫn đầu các pháp". Theo kinh Trung bộ, cần tác ý sao cho các pháp ác chưa xuất hiện thì sẽ không xuất hiện, còn nếu rồi thì biến mất; các pháp thiện nếu chưa xuất hiện thì xuất hiện, nếu hiện rồi thì thêm vững mạnh. Thực hành "như lý tác ý" là việc mà thầy Thông Lạc rất chú trọng. Hơn nữa, nếu bình tĩnh và không bị tác động bởi những lời phê phán thì sẽ thấy rốt cuộc thầy Thông Lạc cũng không phủi bỏ hoàn toàn Bồ tát và các danh hiệu Phật, mà nếu cần thì có thể làm lại theo một cách khác không còn bóng dáng mê tín dị đoan. Vì sao? Vì làm thiện. Không làm ác và phải làm thiện. Muốn đủ đạt các hạnh nguyện, danh hiệu, quả vị ... thì cần phải làm thiện. Nếu thiếu điều này thì, tôi thấy, "giải thoát" chỉ đơn giản là "chạy thoát" mà thôi. Không có gì cao thượng và đáng ngưỡng mộ cả.
Trả lờiXóaTrần Quốc Việt có thể ghé sang tệ trang fanpage Nikaya & Đốn Ngộ hoặc group Facebook Tương Tác Phật Học Online sẽ dễ trao đổi hơn. Cảm ơn Trần Quốc Việt vì đã tham gia chia sẻ sự hiểu biết!
Xóa